Số 141

Ngày 1 tháng 1 năm 2014

www.GiaoMua.com

Nguyệt San Giao Mùa
P.O. Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA

GiaoMua@hotmail.com


Thư Ngỏ



Thư Ngỏ

Không còn mấy tờ lịch nữa là qua rồi một năm, là đến ngày một tháng một, bên kia nửa vòng trái đất, đang là "Tết" ....

Vậy là sắp đến tháng Giêng, tiết trời se lạnh, cái lành lạnh của thời khắc giao mùa, tàn đông rồi, xuân về, không biết những người Việt Nam bên đó có "ăn Tết" theo xứ người không, nhưng chắc chắn không ai không nhớ đến "Tết mình".

Tháng Giêng là lúc trăm hoa đua nhau khoe sắc, ở miệt quê, hoa cải vàng khắp cánh đồng, tháng Giêng Tết đến, nhà nào cũng có hoặc là một cành mai, hoặc là một cây quít, ngoài hiên còn có vài chậu mào gà, hoặc hướng dương, người lớn lo đủ thứ chuẩn bị cho năm mới, bọn con nít rộn ràng mong đợi ngày được mặc quần áo mới, được tiền lì xì.

Tháng Giêng cũng còn có bên cạnh những hình ảnh êm đềm đó, là bóng dáng liêu xiêu của những phụ nữ oằn vai kẻo kẹt gánh hàng rong, là gương mặt sạm nắng nhễ nhại mồ hôi của những người đàn ông đạp xích lô, khuân vác mướn, là đôi mắt thơ dại của những em bé lẻ loi giữa chợ đời.

Tháng Giêng của nhiều năm bão lũ, biết bao nhiêu gia đình không được hạnh phúc đón xuân, biết bao nhiêu em nhỏ khát khao chờ đợi những người hảo tâm quyên góp cho quần áo, rộng thùng thình hay chật bó người không sao cả, cũng là "mới" rồi.

Tháng Giêng còn có những cơn mưa phùn làm hồi sinh cây cối, những lá xanh, những chồi non ươm mầm nẩy nở. Tháng Giêng báo hiệu mùa xuân, mùa của cỏ cây hoa lá, của vạn vật trở mình.

Trong không khí hối hả vào những ngày cuối cùng của năm cũ, trong sự tất bật của dòng người xuôi ngược với nhiều nỗi lo toan cho một cái Tết cổ truyền, chúng ta hãy dành vài phút giây lắng lòng, hướng về những mãnh đời bất hạnh, để cầu nguyện cho tháng Giêng năm nay sẽ khởi đầu cho 12 tháng bình yên, bão lũ không còn giày xéo đâu đó trên thế gian này, để mọi người, mọi nhà đều hân hoan chào đón mùa Xuân, cùng nhau hòa theo không khí tưng bừng của Xuân yên vui, hạnh phúc, người lớn có thể nở trên môi nụ cười rạng rở; trẻ con reo mừng với những đôi mắt tròn xoe cất tiếng cười hồn nhiên, tung tăng trong quần áo mới đi khoe khắp xóm làng.

Tháng Giêng qua rồi phiền muộn; từng nỗi âu lo, từng sự khốn khổ sẽ theo tờ lịch mỏng cuối cùng rơi xuống.

Tháng Giêng đón đợi niềm vui, mọi người chúc nhau những điều tốt đẹp khi Tết đến, xuân về.

Nhân đây, tôi thân mến chúc anh chị em trong Ban biên tập năm mới tràn đầy hạnh phúc, thành đạt, an khang và qua thư ngỏ tháng giêng nầy, thay mặt Giao Mùa xin gởi đến quý bạn đọc lời chúc vạn sự cát tường, toàn gia an phúc.

Chung Thủy
Ban Biên Tập Giao Muà

Mục Lục

Bài vở trên Giao Muà là do các tác giả gửi đăng và Giao Muà không chịu trách nhiệm về nội dung. Muốn xin trích đăng lại, xin liên lạc với GiaoMua@hotmail.com.

I . Thơ _______________________________________________________________________

1. Chỉ Anh Buồn, Anh Biết Mà thôi ______Nguyễn Ðông Giang
2. Ðám Rau Sam Mọc Sau Hè ______ Du Yên
3. Sao Phận Nghiệp Mình Lóc Cóc Nỗi Ðau ______ Lê Miên Khương
4. Thôi Gịot Sầu Rơi ______Triều Phong Ðặng Ðức Bích
5. Tình Lãng Tử ______ Quang Phục
6. Xa Nguồn ______ Hàn Thiên Lương
7. Mỗi Bài Thơ Là Gì ? ______ Chu Thụy Nguyên
8. Xuân Hy Vọng. ______Hoàng Yến
9. Thả Sầu ______Quỳnh Ðỏ
10. Ðôi Khi. . . ______Hồ Thụy Mỹ Hạnh
11. Sỏi Ðá Buồn Hiu ______ Hoàng Ðịnh Nam
12. Mùa Nắng Xôn Xao ______ Sông Cửu
13. Trung Ngôn (nghe) NGHỊCH NHĨ ______Tình Hoài Hương
14. Dịch Thơ Tào Tùng ______ Phạm hy Sơn
15. Ðôi Bờ ______ Nguyễn Hải-Bình
16. Trầm Khúc 5 ______ Tuyền Linh
17. Nửa Ðêm Thương Nhớ Anh ______Dạ Lan
18. Cuộc Tình Tháng Giêng ______ Chung Thủy
19. Hoa Bắp Tân Triều (1) ______ Sông Trà­­ ­
20. Xuân Viễn Xứ ______Song An Châu
21. Có Một Người Ði Giữa Thơ Tôi ______ Vành Khuyên
22. Hà Nội Ngàn Hoa ______ Thiên Ðức
23. Việt Dzũng Ra Ði ______ Nguyệt Vân
24. Nghiêng ______ Mạc Phương Ðình
25. Mơ Xuân Ðoàn Tụ ______ Trần Ðan Hà

II . Văn _______________________________________________________________________

1. Ðông Tây Tam Kiệt ___________ Triều Phong Ðặng Ðức Bích
2. Xóm Cụt (truyện dài nhiều kỳ) ___________ Ðỗ Thành
3. Hiến Chương Tình Yêu (truyện dài nhiều kỳ) ___________ Tình Hoài Hương
4. Gánh Xiếc Cuộc Ðời ___________ Vành Khuyên
5. Căn Nhà Sau Cửa Biển (truyện dài) ___________ Phan Thái Yên
6. Thế Hệ 30 Miền Nam ___________ Trần Thành Mỹ
7. Thủ Ðức Một Thời Khó Quên ___________ Nguyễn Qúy Ðại

III . Những Bức Thư Tình...________________________________________________________________

1. Thư Tình Mỗi Tháng _______________________________ DHH

IV. Trả Lời Bạn Ðọc__________________________________________________

1. Nhắn Tin/Trả Lời Bạn Ðọc _______ Ban Biên Tập

I . Thơ __________________________________________________

1. Chỉ Anh Buồn, Anh Biết Mà thôi   


Mấy hôm nay trời đổ cơn mưa
Anh cứ nghĩ , trời buồn nên vậy
Mưa trong lòng , mấy ai được thấy
Như em buồn , mưa lũ thành sông 

Em buồn , em chẳng chịu lấy chồng
Chẳng chịu , anh trăm bề khổ nỗi
Em qua đời anh , như gió thổi
Nhẹ nhàng , nhưng rất đổi bâng khuâng 

Mưa xuống trần gian đã bao lần
Em đến thăm anh , chỉ lần một
Ðủ nhớ đời , đủ lên cơn sốt
Trái tim anh ầm ỉ , rùm beng
. . . . . .
Mấy hôm nay trời đổ mưa , bằng
Anh nhớ em vô cùng , như vậy
Mưa trong lòng anh , em đâu thấy
Chỉ anh buồn , anh biết mà thôi !

                                                       
Nguyễn Ðông Giang  
Mục Lục


2. Ðám Rau Sam Mọc Sau Hè đến cuối đời vẫn chưa về thăm lại những đám rau sam mọc ở sau hè ngay chỗ rào thưa qua nhà cô bé chẳng làm sao quên nổi chút tình quê cô bé nhà bên hay giận, hay hờn cứ ngúng nguẩy giậm chân đòi xin lỗi những cánh rau sam dưới chân thật tội thương đám rau sam vội đền cô bé? nụ hôn! những ngày xưa ấy nay đã xa vời vợi chẳng làm sao níu lại chút thời gian cứ ngong ngóng chờ, những ngày bé không sang để cả đêm trằn chọc, đem nhớ thương vào giấc ngủ. để một đời mãi nhớ về quê cũ không biết đám rau sam còn mọc ở hè sau ? mỗi hè về thoang thoảng mùi hương cau như ngày xưa, cùng cô bé chơi trò chơi đám cuới bao nhiêu năm qua bây giờ vẫn nhớ chẳng biết cô bé ngày xưa giờ ở nơi nào liệu có còn cảm thấy nao nao khi nhớ về nụ hôn ngày tháng cũ?! tuổi dại khờ chưa biết gì tình tự những kỷ niệm ngày thơ nhớ mãi chẳng sao quên dù chỉ thoáng qua nhưng thật êm đềm nên đời mãi quay về những kỷ niệm buồn vui trong quá khứ?! Tháng năm dài - 2006 Du Yên Nên Cũng Ðàng Rất Nhẹ mình xa nhau từ lâu gặp nhau ngày nắng hạ sang đông đời buốt giá giờ tìm nhau nơi nào? đã biết đời bể dâu buông chi câu phiền trách cuộc đời manh áo rách dù sao cũng xa nhau! đời, một cuộc tình sầu xá gì tan với hợp xin một lần chôn lấp tất cả ngày tháng đau. thu về mây dổi màu tình theo con nắng hạ để cây buồn vàng lá kết bài thở vận sầu! chiều nay trời lại mưa cơn mưa ngâu tháng bảy nỗi lòng như run rẩy về kỷ niệm thật xưa. nói năng gì cũng thừa đời xa dần tuổi trẻ nên cũng đành rầt nhẹ quên đỉ những chiều mưa ! vào thu 07 Du Yên
Mục Lục


3. Sao Phận Nghiệp Mình Lóc Cóc Nỗi Ðau Chỉ một tích tắc năm bước sang ngôi Có một giao thừa chia đôi cũ mới Một chút lưỡng lự em đã xa tôi Nét trầm tư ngày em tóc rẽ ngôi Gần gũi xa xôi nỗi nhớ phân bôi Một chút bâng quơ lòng hóa xa xôi Mây nước về đâu duyên trời luyến mãi Cho tôi gần em để bớt đơn côi Khởi từ vô lượng ta đã thương nhau Bến cũ đò xưa nắng hồng nhạt màu Có có không không em cười tôi khóc Sao phận nghiệp mình lóc cóc nỗi đau ?

Lê Miên Khương

Mục Lục


4. Thôi Gịot Sầu Rơi Má em lăn giọt sầu rơi Tim em đứt đoạn tơi bời xót xa Tình yêu như đã phôi pha Vươn vai níu kéo sao mà vuột tay Tuổi hồng quyện mối tình say Bao nhiêu mộng ước xa bay nghìn trùng Thương cho một đóa phù dung Dây lơi đàn lệch phím chùng đường tơ Giọt buồn đọng lại thành thơ Gởi bay theo gió đến bờ yêu thương Người ơi sao cứ vấn vương Thơ khơi niềm nhớ mờ sương giăng trời Mấy vần thơ viết thay lời Chúc em đẹp mãi nghìn đời vui tươi Từ nay em nở nụ cười Hàng hàng lớp lớp người người yêu em Triều Phong Ðặng Ðức Bích


Mục Lục


5. Tình Lãng Tử Thuyền ai thấp thoáng trên sông chờ mong đâu chỉ bến em nơi này , thuyền đi trăm ngã , ngàn ngày đâu là bến đợi , khi nào dừng chân? Thuyền đi hồ hỡi muôn phương khi vui cập bến, khi buồn ra khơi , thôi đừng chờ đợi người ơi biển khơi là bến, gió sương là nhà . Quang Phục


Mục Lục


6. Xa Nguồn Ta như con suối đã xa nguồn Dòng chảy lặng lờ dưới nắng sương Róc rách suối qua từng phiến đá Gửi lại lòng ai những tiếng buồn! Nước đã thoát ra từ hốc núi Họp dòng thành suối chảy theo khe Xuyên qua lau lách vào sông lớn Suối nhớ nguồn xưa chẳng lối về! Ta xưa tự miền quê xóm nhỏ Lìa bỏ làng thôn đến thị thành Tất bật tháng ngày bao vướng bận Mộng đời mờ ảo chữ công danh! Công danh thôi chỉ chuyện phù vân Lệ ướt viền mi biết mấy lần Cũng chỉ màn tuồng thay ngôi thứ Lấn chen từng bước chuyện thua hơn. Dần dần xa mãi xóm làng quê Mái lá ngày xưa khó trở về Như con suối nhỏ trôi biền biệt Theo mãi trường giang chẳng nhớ gì! Nay thêm lạc bước cảnh lưu vong Thương nhớ về xa muối xát lòng Buồn như con suối trôi theo sóng Suốt đời phiêu bạt cõi mênh mông. 2-12-13 Hàn Thiên Lương


Mục Lục


7. Mỗi Bài Thơ Là Gì ? Miếng vải nhuộm đã cũ màu đã tàn phai Em hôn chi lên miếng vải nhuộm ? để nụ hôn tàn phai. Buổi chiều trùm ta vào mành lưới có cố loay hoay vẫn chẳng thể thoát chẳng thể nhận ra mình May ra còn những bài thơ đút trong túi áo có thể cứu vội một sinh linh ? Mỗi bài thơ là gì ? Nếu không phải là cửa sổ linh hồn em đang mở toang nhìn anh chỉ nhìn thôi đã đủ lực níu vói, đã thừa sức cứu thoát. Nếu không phải là đôi cánh môi cường toan em từng mòn tan dần mỗi nụ hôn anh chất ngất Nếu không phải cánh cửa địa ngục đã hé sao lại hé quá hẹp chỉ đủ cho vệt khói vô tâm ? Nếu không phải là dòng sông đã chết nước mới đó đã đọng ao tù hai tay anh vẩy kiệt lực Nếu không phải là đám mây vô duyên chết tiệt bỏ mặc ta, cứ mê mải nổi trôi Nếu không phải là ngụm rượu nhạt phèo ngụm rồi biết nhổ đi đâu Nếu không phải tháp chuông mãi lo giục giã xô đẩy các linh hồn vốn khát đói những nụ hôn. Sao lại không là em ? là ân huệ sau cùng của riêng tôi, một giấc mơ thần thoại ? Chu Thụy Nguyên QUÁN CỦA CÁC LINH HỒN Tôi chẳng thể ngờ mình vừa đi qua khu an nghỉ đầy ắp tiếng hát và tuyền những giọng cười hí hửng. Nơi cắm đầy những nhánh dương liễu và những khúc ballade ngợi ca chốn cực lạc nơi những cái xác khô luôn đổi cho nhau chỗ nằm để dễ chuyện vãn Lại những câu chuyện rôm rả từ đâu thời hồng hoang và nơi nầy bây giờ những con xúc xắc sáu mặt vẫn còn được dùng làm trò may rủi. Mỗi đêm những xác chết vẫn chụm đầu hình như họ vẫn đổ xí ngầu để chọn ra những người xuống phố. Chính ở chốn phồn hoa ấy họ luôn chọn những chiếc bàn quanh góc phố Các quán cà phê vẫn đông đầy những linh hồn nơi họ vẫn thèm thuồng ngồi nghe lại tiếng cú kêu. Vẫn đầy các linh hồn đủ màu đủ vẻ vẫn đầy những ông đi qua bà đi lại Tiếng chó tru sủa càng lúc càng rần rật hương dạ lý phưởng phất Từng vệt sáng xanh tím vụt vắt vẻo xẹt ngang tầm mắt Các linh hồn chỉ trong phút chốc vụt bay biến quanh những hồi chuông khuya ?

Chu Thụy Nguyên
Mục Lục


8. Xuân Hy Vọng. Tuyết đêm nầy trắng xoá rơi rơi, Lạnh buốt lòng ta giữa cuộc đời, Thoáng thấy Xuân về trong gió lạnh, Thầm ước Xuân vui ở xứ người. *** Xuân quê mình ấm áp tình thân, Viếng mẹ cha, thăm bạn xa gần, Ở đây lầm lũi, bon chen mãi, Nghe cuộc đời theo ảo mộng tàn. *** Hơn nửa đời Xuân chẳng thấy Xuân, Người ơi! Kỷ niệm có còn chăng? Sáng nay giữa phố đông người quá, Ta đi tìm hình bóng cố nhân. *** Ta vẫn hằng mong có một ngày, Tiếng cười tao ngộ vút trời mây, Ở trong nắng mới Xuân vàng rực Vàng rực sắc màu, phất phới bay. Hoàng Yến
Mục Lục


9. Thả Sầu Nàng vẫn thích ngủ gật nơi bờ vai nghiệt ngã, giận hờn với những bức tranh, ghen cả dáng nằm của những nét cọ Ðông sang, người thiếu nữ khỏa thân ấy chả lạnh, mà nàng co ro nơi góc phố buồn Gió vẫn mang vẻ mặt ngờ nghệch với nàng, tiếng hát nào còn đọng lại bờ môi nàng trút vào bức tranh tình hoang dạị...! QUỲNH ÐỎ 1-12-2013 ÐÔNG VỀ Trời đã thực sự vào Ðông, những cơn gió buốt lòng vô tình thổi, ta mang anh trên suốt đường đời hiu quạnh anh có hay? Con tim hấp hối cất tiếng kêu cứu, tâm hồn hoài hoang dại tháng, ngày Những chiếc là đỏ còn xót lại, dần tiễn đưa nàng Thu muộn màng, se sắt trong gió Ðông Con đường hao gầy đón bước chân ta lang thang tìm anh...! QUỲNH ÐỎ 28-11-2013 BẢN GIAO HƯỞNG LẠC ÂM Ta nhận ra em bên bờ môi ngọt bên hơi thở ấm bên vòng tay ôm bên bờ kia cung đàn vang vọng... Gió thổi, thông reo ngàn âm nhỏ thì thầm bên tai buốt hồn Em em là ai? Ta ta là ai? tan biến trong nhau như hợp âm bản giao hưởng buồn, như màu xanh pha màu đỏ, như gió luồn qua mây, như tan vào khoảng không... Không có em, cũng chả có ta có chăng, chỉ là bản giao hưởng cõi lạ...! 9-12-2013 Quỳnh Ðỏ

Mục Lục


10. Ðôi Khi. . . Ðôi khi quá buồn ta đã khóc Mà sao nước mắt không tràn trên bờ mi Lại chảy ngược vào tim, trái tim thầm thì? Tại sao? Tại sao? Tại sao?... Ðôi khi quá buồn ta muốn với lên trời cao Ðể kéo vầng trăng rụng xuống Ta biết với ta tất cả đều đã muộn Nên nào biết bắt đầu từ đâu! Ðôi khi người ta đánh mất nhau Vì một sự vô tình không nhận thấy Cuộc đời có bao điều vô lý vậy Hạnh phúc bên ta Ta lại mỏi mắt tìm. . . Bây giờ đêm quá lặng im Trong ta còn một trái tim rã rời! http://hothuymyhanh.blogspot.com/
Hồ Thụy Mỹ Hạnh





Mục Lục


11. Sỏi Ðá Buồn Hiu Tôi về- từ cõi nào xa thẳm Thành phố nồng hơn những tiếng nguời Chân cũ dẫm đau hồn phố thị Ðêm vàng lạc giữa trận cười vui Tôi về- lòng nặng bao món nợ Chưa trả xong xuôi,lụn tháng ngày Em biết gì đâu em bé hởi Em chẳng cho. Mà tôi đã vay! Tôi về năm tháng đau bờ tóc Sỏi đá buồn hiu dưới gót giày Áo mới đã thay, lòng vẫn cũ Mười năm bay suốt một tầm tay Góc quán ngày xưa tơ nhện rũ Tôi tìm trong đó tháng năm xưa Hởi ơi! bạn cũ còn bao kẻ Nguời ở, người đi gió trái mùa Mà chẳng còn đâu hồn quán cũ Ðèn hoa đô hội đã thay chân Mười năm đen thẳm giòng hư mộng Huống chi người từ ba mươi năm Tôi về cạn chén ngày sum họp Mà có cạn chăng những nỗi buồn Em nhỏ! tôi còn nguyên món nợ* Hết kiếp nầy chưa trả được xong. *Em nhỏ:Những em bé bụi đời,sống trên các bãi rác,hè phố...

Hoàng Ðịnh Nam
Mục Lục


12. Mùa Nắng Xôn Xao "Vài cảm xúc qua tiểu thuyết "Chuyển Mùa" của Trương Anh Thụỵ" S.C 1. Xôn xao cành táo gió lùa mùa giao hoa sữa đòng đưa gợi tình Bình minh tia nắng lung linh theo anh mở lối hành trình mùa xuân Dọc đường ghé ?Trạm Nghỉ Chân? em ngồi nghe biển gọi thầm tên aỉ Xòe tay hứng hạt mưa bay mới hay ngấn lệ đong đầy bờ môi! 2. Trăng lên tỏa sáng hiên đồi in hình chiếc bóng sánh đôi với mình. . . Tình anh sưỡi ấm đêm đông mát lòng ngày hạ nối vòng nhân sinh Vô tình đọc bức thư Nhàn mừng tình bạn... chịu bẻ bàng duyên em! Hà Nội mưa lũ phủ giăng ruột đau chín khúc máu tràn dòng Lổ Em đi giữa phố mà mơ lạc vào ? Ma Lộ? thẩn thờ nhớ anh! Mong manh chiếc lá xanh non qua cơn giông bão chồi con nẫy mầm? Xá gì? một chút trái ngang làm sao sánh với vô vàn đau thương! Tình Em ấp ủ muôn phương theo từng hơi thở dậm trường núi sông! 3. Tình Em tuổi trẻ Việt Nam "Chuyển mùa" gom nắng trải vàng quê hương ? Tình yêu ơi! thắp đuốc lên đưa em ra khỏi Ðêm đen mịt mù ! . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Sông Cửu
Mục Lục


13. Trung Ngôn (nghe) NGHỊCH NHĨ (về người chung rẻo đất... mà tình xa vạn dặm) Rạch Gầm* sóng giạt khắp chân mây Cho đến một hôm tại chốn này Ðắm đuối tôi thương mình quá đỗi Yêu sao tình cuối vẫn mê say. Cầm tay khẽ nói thật là lâu Ðằm thắm nụ hôn phớt buổi đầu Xúc động bàng hoàng như muốn khóc Sơn khê trân quý bởi vì đâu? Trung Ngôn dấu ấn ở trên môi! NGHỊCH NHĨ (thế nhưng ngọt cuộc đời) Tần Sở* vinh huê men trái đắng Những ngày ly biệt cảnh chia phôi. Bút Nam Tào* tươi đẹp muôn màu Dù kiếp này hay hẹn kiếp sau Vị đắng trào lên đôi mắt ướt Bách hạnh* tương sinh thuở ban đầu. * Tình Hoài Hương (*) Rạch Gầm*= tên phụ lưu sông Tiền-giang. Nơi đây (vào Năm Ất Tỵ 1785): Quân Tây Sơn đã tiêu diệt 20 vạn quân Xiêm + 300 thuyền chiến, do hai tướng Tăng & Sương của Xiêm cầm đầu. Quân Tây Sơn do vua Quang Trung Nguyễn Huệ có tài dụng binh như thần, đã chiến thắng lẫy lừng vang dội, chiến công ấy ghi rõ trong lịch sử Việt Nam. (*) Tần + Sở*= Hai nước thời Xuân Thu chiến quốc: từ thế kỷ 3 đến 7 trước Công-nguyên. Tần Thủy Hoàng thống nhất Lục-quốc: Tần ở Thiểm Tây. Sở ở Hồ Nam Hồ Bắc. Tần & Sở là 2 nước đối nghịch. Lời của người ?trung ngôn? thường nghe ?nghịch nhĩ? đối nghịch; giống như hai nước Sở và Tần. (*) Bút Nam Tào*= vị tiên giữ sổ thiên mệnh. Nghiã bóng bài thơ nầy muốn nói đến sự sắc bén rõ ràng của người trung ngôn, sự thật không có gì phải che dấu, khuất lấp. (*) Bách hạnh*= Hứa Tống (quan văn rất giỏi tự hào ta có trăm nết), ông cưới vợ xấu, thì trong lòng ông khinh chê. Nào ngờ Nguyễn Thị tuy không nhan sắc, nhưng có công, ngôn, hạnh, bà nhẹ nhàng bảo chồng không có ?đức?, thì sao gọi là trăm hạnh! khiến chồng nể phục. *** Tình Hoài Hương
Mục Lục


14. Dịch Thơ Tào Tùng Kỷ Hợi Tuế (897) Trạch quốc giang sơn nhập chiến đồ, Sinh dân hà kế lạc tiều tô . Bằng quân mạc thoại phong hầu sự, Nhất tướng công thành vạn cốt khô . Tào Tùng (đời Ðường *) Nghiã : Vùng đất thấp(Giang Nam) vướng trong bản đồ chiến tranh Dân chạy vào rừng đốn củi, cắt cỏ để sống Như vậy nói chuyện phong hầu làm gì (trong lúc người dân khốn khổ) Một tướng thành công thì có cả vạn bộ xương khô . Dịch (1) : Năm Kỷ Hợi (897) Giang Nam binh lửa khốn cùng, Dân đen phải trốn vào rừng sinh nhai ! Vương, Hầu chi lắm, thưa ngài, Công thành một tướng vạn người xương khô ! Phạm hy Sơn Dịch (2) : Năm Kỷ Hợi (897) Cả cõi Giang Nam lửa ngút trời, Dân vào rừng rú sống qua ngày . Công, hầu, vương, bá làm chi nhỉ, Một tướng danh thành, vạn xác phơi ! Phạm hy Sơn *Chú Thích : - Tào Tùng là một thi sĩ ít nổi tiếng đời Ðường nên câu thơ bảy chữ, đơn giản như lời nói :? Nhất tướng công thành vạn cốt khổ được lưu truyền thiên cổ mà không mấy người biết tác giả là ai . Sở dĩ câu thơ nổi tiếng hơn thi sĩ vì diễn tả đúng sự thật, sự thật của muôn đời . . . ! -Năm 897 đời Ðường huyền Tông, Trấn Hải Tiết Ðộ Sứ Cao Biền được phong tước hầu sau khi dẹp được loạn Hoàng Sào ở vùng Giang Nam. Tác giả Tào Tùng tỏ ý phản đối chiến tranh . ( Năm 864 Cao Biền được cử sang An Nam đánh đuổi quân của nước Nam Chiếu - tỉnh Vân Nam bây giờ - đang chiếm đóng . Khi thành công , Biền được phong làm Tiết Ðộ Sứ ở An Nam (Vi ệt Nam )2 năm (866-868) rồi đổi làm TÐ Sứ ở Thiên Bình . Biền là một viên tướng có tài đời Ðường) . Phạm hy Sơn

Mục Lục


15. Ðôi Bờ Phượng tím khung trời bay theo gió Thiền hành trong nắng lúc thu sang Ðường về Thiên trúc mây lờ lững Bến Giác lối vào sao mênh mang Vãn sinh khoan bước đồi quanh khúc Thiền viện lưng trời một sớm mai Chân nhân dẫn lối vào Vô tích Hồng trần buông lại, bước khoan thai Bên bờ hệ lụy còn vương mắc Ân ái hương xưa vẫn lụy trần Hành trang nặng gánh, đuờng xa lắm Níu bước chân đi những ngập ngừng * Một bước qua sông, dòng đời xếp lại Bên này bờ vẫn đó những tơ vuơng Muốn quay gót nhủ mình về bến Giác Nợ hồng trần vẫn nặng những yêu thương? Blue Mountain, NSW Australia ? 2013 Nguyễn Hải-Bình Mục Lục


16. Trầm Khúc 5 tết về kề cận bên lưng lòng xa xót mãi nỗi gần niềm xa phải chi tim xẻ được hai nửa chôn Cố Quận, nửa cài trời Tây lòng tôi lúc vơi lúc đầy lúc quên, lúc nhớ, lúc ngày, lúc đêm trót đa mang chút nợ duyên nên câu thơ phải khóc thầm từng đêm qua chùa chợt thuấy bâng khuâng vẳng câu kinh kệ mà thèm tĩnh tâm nghe đời còn quá xa xăm nghiệp duyên, duyên nghiệp, nợ nần mãi thôi nụ hôn nồng đượm trong tôi cứ vương vấn mãi bóng người năm xưa khiến lòng hết nắng lại mưa hết sương lại gió, bốn mùa vây quanh Ðông, Xuân, Thu, Hạ nghiêng mình kề tai nhẹ tiếng dỗ dành tình nương con đường phía trước mù sương tuổi trời theo bóng tà dương khuất dần ? tuyền linh Tôi đi vào chốn mịt mùng Tôi qua trăm ngọn tình sầu Một tôi mờ mịt giữa ngàn sắc hương Hỏi em, em ở phương Ðông Có trông thấy bóng tình nhân tôi về ? Hỏi em, em ở phương Tây Có nom thấy bóng nhân tình tôi qua? Sao em lại ngẩn ngơ ra Cho tôi là kẻ cợt hoa đưa tình ? Không không ! tôi chỉ một mình Nổi trôi theo một cuộc tình thế gian Tôi tìm hạt bụi trên không Giọt sương trên cỏ, tơ hồng trên mây Tôi đi nhiều tháng năm dài Theo sông nước chảy, theo bè mây trôi Ðường trần dù quá xa xôi Bước đời mải miết nổi trôi không sờn Tôi đi tìm cái vững bền Nào hay lạc chốn khói sương mịt mùng Ra đi gần hết đời người Vẫn chưa tìm được nụ cười nhân gian Trôi theo tuế nguyệt đoạn tràng Sương giăng tuyết phủ, ôi làn phù vân ! Bước về sao quá bâng khuâng Từng hơi thở hụt theo lần tà dương Con đường phía trước mù sương Bàn chân lạc lối nghe từng âm ba Sóng tình càng vỗ càng xa Ðưa lời nhân ngãi trôi qua cuộc đời Chừ đây cuối đất cùng trời Nhìn tà dương khuất sau đồi mà đau 02.5.2012 Tuyền Linh
Mục Lục


17. Nửa Ðêm Thương Nhớ Anh Nói xuôi nói ngược vẫn buồn Nói lui nói tới sầu tuôn suốt đời Giờ thì chỉ có anh thôi Ðể em trao trọn cuộc đời cho anh Tháng năm qua đã tác thành Cơ duyên kéo lại để dành cho nhau Dù cho sương gió bạc mầu Yêu trong xa cách dãi dầu gió sương Thương anh chiếc bóng dặm trường Thương em cô lẻ sầu vương tóc mềm Chính là anh, đêm từng đêm Không gian hiện hửu bên em bóng hình Chập chờn ánh nến lung linh Cô phòng thanh vắng chúng mình nhớ nhau Ngoài trời lá đổ hè sau Mưa rơi tí tách nhạc sầu tỉ tê Âm thanh tiềm thức vọng về Trao nhau sưởi ấm đê mê "bão tình" ! Chính là duyên nợ ba sinh Nên anh yêu mãi bóng hình này thôi Cho lòng em chẳng đơn côi Cho anh không phải lẻ loi cuối đời ! Em là riêng chỉ anh thôi Như vì sao sáng giữa trời cho em Vạt trăng le lói bên rèm Lao xao gió thoảng nửa đêm...nhớ chừng Nhớ vòng tay rất thân thương Nhớ bờ môi ngọt tưng bừng nụ hôn Gối chăn ấp kín tâm hồn Từng đêm thương nhớ bồn chồn tâm tư ! Dạ Lan
Mục Lục


18. Cuộc Tình Tháng Giêng Bao nhiêu lần tháng giêng Bấy nhiêu lần muộn phiền Một cuộc tình rụng vỡ Trăm ngàn nỗi niềm riêng Mùa xuân mang sắc tím Trời tháng giêng mông mênh Nghe tâm hồn trống vắng Theo cuộc tình buồn tênh Thơ không còn vị ngọt Tháng giêng lạnh buốt tim Anh như làn sương mỏng Cuộc tình sầu cô miên Âm thầm rơi nước mắt Bắt đầu từ tháng giêng Ðêm từng đêm cúi mặt Ru cuộc tình ngủ yên Chung Thủy Mây Trời Thương tuổi hạ không có mùa xuân thắm Buổi tàn thu héo úa nỗi sầu đông Lá vàng rơi phủ đầy con phố vắng Gió heo may se lạnh buốt cõi lòng Hơn nửa kiếp người một đời đơn lẻ Tình trôi xa như từng áng mây trời Buồn hiu hắt nhớ nhung hoài kỷ niệm Hắt hiu buồn nhung nhớ mãi không vơi Vẫn chất chứa những niềm đau sâu lắng Nước mắt chừng như chảy ngược vào tim Ðã bao lượt âm thầm mang cay đắng Trút cạn vào thơ mấy sợi muộn phiền Nghe chua xót chìm sâu trong phiền muộn Muốn gởi suy tư theo giọt mù sương Ca khúc cuối cung tơ chùng đứt đoạn Biệt ly rồi! Ðành lặng lẽ đau thương Chung Thủy Hoa Mộng Ta muốn anh là riêng của ta Có đôi môi hé đợi môi chờ Có trăng thẹn khép sau mây trắng Có gió vờn lay giọt sương khuya Ta muốn anh là riêng của ta Mắt nhìn e ấp mắt đong đưa Ta nghe hơi thở anh nồng ấm Một chút hương Xuân buổi cuối mùa Ta muốn anh là riêng của ta Mộng đầy ôm siết giấc Nam Kha Cho ta ngây ngất đêm tình tự Dâng hiến hồn thơ thật thiết tha Ta muốn anh là riêng của ta Môi chờ mắt đợi bóng chim xa Hiến dâng từng phút giây huyền thoại Chỉ có mỗi mình anh với ta ? Chung Thủy
Mục Lục


19. Hoa Bắp Tân Triều (1) Ðầu năm gặp bạn nâng ly rượu Hoa bắp làng Tân níu khách qua Nối nhịp đôi bờ người qua lại Rượu mừng nâng chén bạn cùng ta Sông Trà (1): Làng bưởi Tân Triều thuộc Biên Hòa, Tỉnh Ðồng Nai có trồng thêm bắp, rất ngon. Khi Em Là Vợ Tôi Ngày xưa, em thích thơ tôi lắm Em bảo : "Thơ anh thật có hồn" Bây giờ, chẳng đọc thơ tôi nữa Vì rằng: "Không rỗi, chuyện chồng con" Ngày xưa, em thích thơ tôi lắm Vì mỗi tờ mây có bóng nàng Ngày nay, em ghét thơ tôi lắm Rất ghét thơ tình tặng thế gian Sông Trà Ngày Về Trị An Về Trị An Em vẫn làm duyên với chiếc áo dài màu hoa nở Vài bạn mặc áo màu thiên thanh Vài ly rượu đã vơi Nhiều ly rượu rót đầy Trị An, mười năm xa vắng Môi em thắm đậm Má em ửng hồng Cây thị tôi xưa, còn đó Vẫn bao mùa khoe sắc, ửng vàng bông Sông Trà Dấu Xưa Hồ Xuân Hương Chiều nay nhiều gợn sóng Lá rơi rơi Vẫn rơi đến lạnh lùng Dốc Ðồi cù Còn ta ngồi thơ thẩn Ðể nhớ hoài, hoài nhớ bóng em thôi Dốc Ðồi cù Một chiều ta quen nhau Hương Anh Ðào Hương xưa còn ở lại Vạt cỏ non Dấu chân còn ấm mãi Mà người đi, chưa trở lại bao giờ! Em vội đến-Và em vội đi Gió chiều về hắt hiu tầng thác đổ Giữa muôn chiều-Tìm một chiều thương nhớ Ta lênh đênh làm mãi kiếp thi hồ Sông Trà­­
Mục Lục


20. Xuân Viễn Xứ Nghe gió lạnh lùa qua khung cửa Giọt mưa rơi thánh thót bên thềm Bỗng dưng buồn lại nhớ đến em Năm tháng hết, mùa Xuân lại đến. Ở quê nhà có nhớ đến anh? Chiều xuân đến, đông còn giá lạnh Nhớ vòng tay êm ấm một chiều Quàng vai em, anh dìu qua phố. Trời Sài Gòn mưa chiều nắng đổ Ði bên em anh thấy mát lòng Cuối thu rồi, trời đã sang đông Nghe gió lạnh len vào kẻ tóc. Tờ lịch cuối, anh vừa mới bóc Tháng ngày rơi, như lá thu về Xuân đến rồi, lòng lại tái tê Sao buồn quá, chiều xuân xứ lạ! Em ơi, em! Mình lại cách xa Xuân này nữa, không bánh, mức, trà Nay Xuân về, anh người viễn xứ Không cùng em cúng lạy ông bà !. Anh không khóc sao lệ lại nhòa Như khói hương quyện vào đôi mắt Cay xé lòng ngày mất của cha Lại thêm nữa mùa xuân viễn xứ! GA, Xuân viễn xứ 2014 Song An Châu
Mục Lục


21. Có Một Người Ði Giữa Thơ Tôi Có một người đi giữa thơ tôi Giữa đêm chờ sáng Ánh trăng vành vạnh Treo lơ lửng trên trời. Có một người đi giữa thơ tôi Giữa ngày bối rối Gánh đời bận rộn Gợn rõ niềm vui. Có một người đi giữa thơ tôi Chiều về trống trải Chợt tắt nụ cười Cay đắng khôn nguôi. Người ấy đến bao giờ biết được Ði giữa đời thường người vẫn cùng tôi Trăng tỏ, trăng mờ, đời vui, đời cực Chẳng hẹn ngày về, một giấc mơ vui !!! Vẫn còn có một người đi giữa thơ tôi. Vành Khuyên
Mục Lục


22. Hà Nội Ngàn Hoa Tháng Giêng, hoa đào đón xuân cùng hoa mùi già ngan ngát Hương mùi già cho Tết đến. Và hoa đào báo xuân san Tháng Giêng Ðào hoa khoe sắc đón xuân hồng. E thẹn cười duyên tiễn gió đông. "Mùi già" ngan ngát bên trời thắm. Rộn rã nơi nơi chén rượu nồng... Tháng Hai, hoa ban tím Hoa Ban tím ngát một góc trời... Ôi thương -Thương quá Hà Nội ơi! Nhớ xưa dưới nắng đầu xuân ấy! Bên thềm lất phất mưa xuân rơi... Tháng Ba, trắng muốt hoa sưa Gần cuối xuân rồi Hoa Sưa lay! Lâng lâng ngây ngất lòng ai say? Xuân đi-Xuân đến-Xuân tươi mãi... Hà nội trong tôi những tháng ngày. Tháng Tư, loa kèn chờ xuống phố Ðầu hạ Loa Kèn tươi sắc trong. Giao mùa trời đất trở sang nồng. Râm ran hơi nóng trong làn gió. Sắc xuân còn đọng má em hồng... Tháng Năm, tím biếc bằng lăng, rực trời phượng cháy Tiếng ve xao xuyến tâm hồn nhỏ. Gót Hồng e ấp đường Phượng rơi... Sân trường nhuộm thắm màu hoa đỏ. In dấu ngày xanh tuổi học trò. Trống trường tan học gọi hồn ai? Phượng đỏ-Ve than vắn thở dài... Chia tay trường lớp-mùa thi đến. Phố phường ngập lối xác Phượng rơi... Bằng Lăng thương nhớ... tím Bằng Lăng. Ta đã xa rồi mấy mùa trăng. Về lại chốn xưa tìm hơi ấm. Nhớ nụ hôn đầu gốc Bằng Lăng. Tháng Sáu, trong đầm gì đẹp bằng sen Ngan ngát trong đầm toả hương sen. Tinh mơ sương sớm một con thuyền. Rẽ từng hoa lá trên làn nước. Hoà với hương mềm trong tóc em. Tháng Bảy, thơm hương hoa sấu, hoa xà cừ Hoa Sấu-Xà Cừ sắp chào Thu. Khói mây tô mỏng mấy dòng thư. Em đi trong nắng vàng thu ấy. Ðêm về-Trăng bạc với sương mù. Tháng Tám, trở lại với tuổi thơ cùng hoa dâu da xoan Dâu Da Xoan trắng giữa trời êm. Trăng thu bàng bạc cả màn đêm. Trông màu xoan trắng ôi tinh khiết. Như cõi lòng anh đã trao em. Tháng Chín, hoa sữa thôi rơi Hoa Sữa thôi rơi Thu sắp phai. Lá vàng trải lối hun hút dài... Tóc em buông xoả bay trong gió. Thoảng hương hoa sữa gợi tình ai? Tháng Mười, sen tàn cúc lại nở hoa Cúc nở vàng ươm đón chàng đông. Thuyền ai thấp thoáng ở bên sông? Có về bến cũ cho ta nhắn! "Ôm mãi tình xưa ngập cõi lòng..." Tháng Mười một, hoa lưu ly "Lưu Ly"thương nhớ hỡi "Lưu Ly"! Một lời ước hẹn với người đi. Ngàn năm sông nước còn trôi mãi... Vạn cổ mưa sầu mây trắng bay... Tháng Mười hai, mùa hoa cải ven sông Cuối đông hoa cải lại vàng tươi. Giữa gió ngàn sương vẫn nụ cười... Trên tóc em yêu-Trong ngày cưới... Ta về Hạnh Ngộ...Hà Nội ơi!!! Thuỷ Nguyễn em yêu của muôn đời... 12 tháng nắng lẫn mưa rơi. Thu về em có buồn hiu quạnh??? ANH KẾT NGÀN HOA ÐỂ EM VUI!!! Thiên Ðức Mùa Ðông Ơi!Thương Nhớ Em ở đâu hỡi mùa đông rét mướt! Giữ hộ anh một chút nắng ban mai. Mùa đông hỡi!Sao mà thương mà nhơ... Bỡi vì em là hơi ấm chẳng riêng ai. Em về đâu hỡi mùa đông trắng xóa... Mang dùm anh một đóm lửa đêm thâu... Người yêu hỡi trong màn đêm có thấy? Bóng hình anh đang run rẩy dưới trời sâu... Mà sao vẫn chập chờn trong nỗi nhớ. Bỡi vì em là tất cả...em ơi! Em ở đâu hỡi mùa đông buốt giá! Giữ hộ anh hơi ấm của đêm qua... Người yêu hỡi có còn thương còn nhớ? Mà mùa đông cứ dài mãi thêm ra. Em về đâu? có người thương đứng ngóng... Ngoài hiên mưa từng gọt thấm đôi vai. Và trong mắt in màu môi em nóng Mà đông ơi!sao lệ mãi rơi rơi... Về đây em! Hỡi người yêu hóa kiếp! Ở bên anh cho đến tận thiên thu. Dù mưa gió có làm nên bão tố! Ngủ đi em,em ngủ có anh ru... Thiên Ðức
Mục Lục


23. Việt Dzũng Ra Ði Việt tên anh giống dòng Hồng Lạc Dzũng hiên ngang ý chí rạng ngời Ra người thiên cổ hôm nay Ði vào đất lạnh hồn bay xứ người! Ðược tin anh sáng nay đi vội vã Tôi bồi hồi thương tiếc một tài nhân Với anh tôi được gặp một vài lần Tay nạng gỗ mà tinh thần ngời sang Quê hương ta giờ tàn rồi cuộc chiến Mà sao anh chưa lần được về thăm Trong lòng anh chất chứa nỗi âm thầm Viết ca khúc cho niềm đau dân tộc Anh viết nhạc lời hùng ca tranh đấu Tôi làm thơ uất hận sự bạo tàn Tôi và anh cùng lý tưởng hiên ngang Chung chí hướng màu cờ vàng bất khuất Atlanta hôm nay trời đông lạnh Anh ra đi tôi thấy chạnh lòng buồn Nhớ trên đài lời anh nói thân thương Luôn tranh đấu cho quê hương dân tộc Anh vui đi vì anh không cô độc Và bên anh được muôn vạn người thương Nhạc khúc anh trải khắp mọi nẽo đường Trang hung sử hát vang lời tranh đấu Anh luôn nhớ về quê hương yêu dấu Nhớ đồng bào ruột thịt, đất tổ tiên Nơi chôn nhau, cắt rốn đã gắn liền Bởi vận nước nên cuộc đời phiêu bạt! Bài thơ viết xin thay lời từ biệt Luôn nguyện cầu Thiên Chúa đến bên anh Anh ngủ đi một giấc ngủ an lành Bên chân Chúa quên cuộc đời phiền luỵ! Atlanta tháng 12/20/2013 (Thay lời phân ưu cùng gia đình Việt Dzũng) (Kỷ niệm khi Việt Dzũng đến Atlanta, tôi có gặp anh và tặng một thi tập Tình Thơ Quê Hương cho anh) Nguyệt Vân
Mục Lục


24. Nghiêng em ngồi nghiêng tựa trái tim chiều qua tóc gọi rối chìm giữa tay hương thu nghe lạnh vai gầy ngỡ như giọt lệ rụng đầy thuở xưa ba năm lặng khúc giao mùa giấc xuân đã chín về xua bóng mình tay cuồng gởi mộng vào xanh những khoe từng buổi độc hành phù du thôi em vũng nhỏ ao tù mơ chi biển rộng điệu ru cuộc tình tay nào xoa vụng buồn tênh nghe phơi phới nổi gập ghềnh đã yên chiều qua lắng tuổi em hiền ta trên ngọn dốc em triền lá xuân lặng đi em ngủ giấc rừng để mê muội thức trên từng ngón tay về chia bóng nhỏ đêm dài đêm khua hay gió bên ngoài đã xa, http://macphuongdinh.blogspot.com/ Mạc Phương Ðình
Mục Lục


25. Mơ Xuân Ðoàn Tụ Chưa về lại thăm làng xưa xóm cũ mạ chắc buồn nhiều lắm lúc chờ mong và em thơ với tuổi ngọc còn không ? khi xuân đến bên thềm hoa mai nở Con chợt thấy lòng mình rưng rưng nhớ những ngày xưa cảnh đầm ấm quê nhà Khi xa rồi mới cảm thấy thiết tha về thăm lại tuổi hồng thơm trang giấy Con nhớ lắm buổi xuân về thường thấy mạ hay ngồi gói bánh tét bánh chưng đêm ba mươi thức suốt để canh chừng cho nồi bánh được đúng giờ chín tới Khi vườn sau mưa xuân bay phơi phới nhưng trong nhà ấm áp bếp lửa hồng con nơi nầy buốt giá những chiều đông buồn dâng kín ngập lòng đêm tuyết phủ Hơn ba mươi năm đời con viễn xứ kéo nỗi buồn từng phiến nhớ quê xưa biết bao giờ tìm lại chuổi ngày thơ làm kỷ niệm cho chặng đường lẽ bóng Nhiều lúc đứng nhìn trời cao biển rộng mà giật mình khi ngoảnh lại đường xa thấy đời chìm trong bóng tối nhạt nhoà đang ngăn cách với cội nguồn ngàn dặm Con ước nguyện một ngày mai tươi thắm ánh bình minh rạng rỡ khắp non sông bóng xuân về tràn ngập những tấm lòng hưởng phước lộc của đất trời miên viễn Dẫu dòng đời còn ngăn sông cách biển lòng nguyện con giữ mãi một nụ cười đón xuân về gieo hạnh phúc khắp nơi đang thắp sáng trong mùa vui đoàn tụ Ngày hôm nay dẫu con còn viễn xứ nhưng lòng vui còn mạ với quê hương con hướng về theo mơ uớc chín hườm đường hy vọng trải dài cho con bước ! Trần Ðan Hà
Mục Lục


II . Văn___________________________________________________________

1. Ðông Tây Tam Kiệt


Triều Phong Ðặng Ðức Bích



. NAPOLÉON BONABARTE
. GEORGE WASHINGTON
. VUA QUANG TRUNG




Thời đại nào cũng có anh hùng, đất nước nào cũng có người hùng anh. Từ đông sang tây, từ cổ chí kim đều có những siêu nhân, những người tài ba lỗi lạc xuất hiện, ở những thời điểm khác nhau như Hạng Võ, Lưu Bang, Hàn Tín, nổi danh trong thời Xuân Thu Chiến Quốc. Thành Cát Tư Hãn đã gầm thét Hoa lục và một thời kéo hùng binh sang tận Europe. Mustafa Kémal, Nã Phá Luân Ðại Ðế, Hitler đã làm rung chuyển cả Âu châu .
Vào thế kỷ thứ 18, tại Âu châu, Hoa kỳ và Phương đông, có ba vị anh hùng xuất hiện cùng một thời điểm mà những chiến công và sự nghiệp hiển hách đã làm sáng chói trang thế giới sử : Ðó là Ðại Ðế Napoléon Bonaparte Pháp quốc, Tổng Thống Hoa Kỳ George Washington và Ðại Ðế Quang Trung Nguyễn Huệ Việt Nam.

1 - NAPOLÉON BONAPARTE : ( 1769 - 1821 )
Ðại Ðế Pháp quốc, ông đã khởi xướng, thiết lập và bổ sung nhiều cải cách sâu rộng cho cuộc cách mạng Pháp. Một thiên tài vĩ đại về quân sự, ông đã chinh phục phần lớn lãnh thổ Âu châu và canh tân những vùng đất đai chiếm đóng.
Napoléon sinh ngàỵ 15/8/1769 tại đảo Corse, một hòn đảo nhỏ của nước Pháp. Là người thứ 2 trong gia đình 8 người con, ông tốt nghiệp trường quân sự tại Paris năm 16 tuổi. Sau cuộc cách mạng Pháp, ông được thăng lần đến cấp bậc Ðại úy và trên đà danh vọng, lập được nhiều công trạng, ông được vinh thăng cấp tướng năm ông 24 tuổi.
Năm 1795 ông đã cứu chính quyền cách mạng Pháp, đánh tan cuộc nổi dậy của nhóm phiến loạn tại Paris. Năm 1796 ông kết hôn với góa phụ Joséphine de Beauharnais và cũng năm ấy, ông được đề cử làm Tư lệnh quân đội Pháp tại Ý. Vào thời đó, nước Áo, Nga và Anh liên kết lại để chống Pháp, Napoléon quyết định từ Ý Ðại Lợi trở về cứu quốc.
Ngày 9/11/1799 tại Paris, ông đã thiết lập một chính thể mới, Quốc hội với một Hội đồng tư vấn Bonaparte đầu tiên, sau nầy vào năm 1802 và 1804 được cải tổ lại để thành lập triều đại Napoléon Bonaparte.


Napoléon Ðại Ðế

Napoléon là một thiên tài quân sự. Ðể tạo uy tín và củng cố quyền lực, năm 1800 chính ông đã thống lãnh đoàn hùng binh vượt qua núi Alpes, đánh bại quân Áo tại Marengo. Ngày 2/12/1805, ông đã chiến thắng vẻ vang quân đội liên kết Nga - Áo tại chiến trường Austerlits, năm 1806 đánh bại quân đội Prussian tại Jeva và Auerstadt, rồi tiêu diệt quân đội Nga tại Friedland, năm 1807 chiếm Bồ Ðào Nha, năm 1808 chiếm Tây Ban Nha, năm 1809 một lần nữa, ông đánh bại đoàn quân Áo quốc tại Wagram. Cũng năm 1809 nầy, Napoléon ly dị Joséphine.
Ðể làm giảm bớt sự căng thẳng và gây tình hòa hiếu với nước Pháp, triều đình nước Áo đã tiến cử công chúa Marie Louise, con gái Hoàng Ðế Áo quốc cho Napoléon. Họ kết hôn năm 1810 và hạ sanh một hoàng tử năm 1811.
Năm 1812, Napoléon kéo quân sang đánh nước Nga và bị quân Nga dụ sâu vào Moscow, quân Pháp không chiu nổi cái lạnh thấu xương như cắt da thịt vào mùa đông, cuối cùng bị tan rã. Sau đó các nước Âu châu liên kết chống lại ông ta. Tháng 4/1814, triều đình Pháp từ chối tiếp tục chiến tranh, các chính trị gia không ủng hộ ông nữa và Napoléon đã thất bại trong trận Waterloo ngày 18/6/1815 tại nước Bỉ. Ông bị đưa đi an trí tại đảo Saint Helene, phía nam Ðại Tây Dương. Ông mất ngày 5/5/1821.
Dân tộc Pháp luôn luôn tôn kính Napoléon Bonaparte. Khải Hoàn Môn đươc xây dựng tại Paris để tưởng nhớ đến ông, vị anh hùng vĩ đại, với những chiến thắng vẻ vang liên tiếp đã làm rạng danh trang sử Pháp.

2 - GEORGE WASHINGTON : (1732 - 1799 )
Chỉ huy trưởng quân đội lục địa trong thời gian cuộc cách mạng Hoa Kỳ. Một chính trị gia lỗi lạc, một thiên tài về quân sự, George Washington đã đưa đất nước Hoa Kỳ đến chỗ vinh quang. Ông là Tổng Thống đầu tiên của Hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ.
George Washington sinh ngày 22/2/1732 tại Virginia Mỹ quốc, là con trưởng của ông bà Augustine Washington, một điền chủ ở Virginia. Ông là một người thông minh lỗi lạc, năm 16 tuổi đã được mời vào Ủy ban Nghiên cứu và Phát triển những vùng đất mới.
Năm 1755 với quân hàm Ðại tá, ông được bổ nhiệm thống lãnh quân đội bảo vệ Virginia và những vùng biên giới phía tây Hoa Kỳ. Sau trận đánh giữa Massachusetts và quân đội Anh, ông được đề cử làm tư lệnh quân đội Lục địa. Ông đánh bại quân Anh tại Boston vào giữa tháng 7/1776 và sau đó đưa đoàn quân chiến thắng về New York.
Áp dụng chiến thuật tốc chiến tốc thắng, ông đưa quân băng qua vùng đông tuyết Delaware giữa ban đêm 25/12/1776, bắt được Trenton trong một trận đánh thần tốc vào buổi sáng. Ngày 3/1/1777 ông đánh thắng quân đội Anh tại Princeton, tháng 6/1778 sau khi quân Pháp đứng về phía Mỹ, Washington tấn công chỉ huy trưởng quân đội Anh, Henry Clinton tại Monmouth, New Jersey.


Tổng Thống George Washington

Năm 1780, Washington được tăng cường một chiến đoàn 7000 người Pháp do tướng Rochambeau chỉ huy. Sau đó Washington và Rochambeau liên lạc với Quận công Lafayette, chỉ huy trưởng quân đội Mỹ tại Virginia, di chuyển đoàn quân về Virginia. Tháng 10/1781, liên quân Mỹ - Pháp tấn công quân Anh. Hòa bình đã ló dạng, Anh quốc thừa nhận nền tự trị của Hoa Kỳ.
Ngoài quân sự, George Washington có tài về chíng trị. Ông góp công nhiều trong việc soạn thảo Hiến pháp và thành lập Quốc hội, là nền tảng vững chắc đã đưa Hoa Kỳ trở thành một nước tự do, dân chủ và công bằng. Ông được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ năm 1778 và tái đắc cử Tổng Thống năm 1792. Ông mất tại Mount Vernon ngày 14/12/1799.
Dân tộc Hoa Kỳ tôn kính George Washington, coi ông như một người Cha, một biểu tượng tinh thần Quốc gia, một nhân vật tiêu biểu trong cuộc sống. Là một chiến binh, một nông gia, một người yêu nước muốn đem tâm huyết thực hiện, phát triển văn hóa và chính trị của của một nước cọng hòa, dân chủ.
Mason Lock Veems đã viết về GeorgeWashing nêu gương cho tuổi trẻ mai hâu, được nhấn mạnh là siêu nhân ở chỗ tự trọng, hiếu thảo, làm việc siêng năng, lòng yêu nước và sự thông minh cẩn trọng.
Tổng Thống George Washington được gắn liền với dân tộc Hoa Kỳ, tiếp theo là quốc kỳ, hiến pháp và ngày 4/7, ngày dộc lập của Hoa Kỳ.

3 - VUA QUANG TRUNG : ( 1753 - 1792 )
Vua Quang Trung Nguyễn Huệ là một thiên tài đặc biệt về quân sự. Hành quân tốc chiến tốc thắng, biến hóa như thần, hiệu lệnh nghiêm minh, kỷ luật sắt thép. Ðức tính làm tướng của ông đáng kể nhất ở chỗ biết chia bùi xẻ ngọt với tướng sĩ, lấy ân uy và đảm lược để chinh phục lòng người.
Ra trận ông đi trước ba quân, lúc nguy nan ông tỏ ra bình tĩnh, gặp vấn đề khó khăn, những việc mà người khác phải khiếp vía kinh hồn thì ông thường nảy ra nhiều mưu kế thần kỳ, tỏ ra có một khối óc thông minh lỗi lạc phi thường. Từ khi làm tướng, giữa lúc nước nhà loạn lạc khắp nơi, đến khi ông mất, xông pha trăm trận bách chiến bách thắng, ông chưa hề biết chiến bại.
Nguyễn Huệ sinh năm 1753 tại Tây Sơn, Bình Ðịnh, con giữa gia đình 3 người con trai, anh là Nguyễn Nhạc, em là Nguyễn Lữ. Vua Quang Trung tiếng to như chuông, mắt sáng như điện, sức khỏe hơn người, mỗi khi ra trận, hai tay ông cầm hai dùi đồng, phi ngựa xông vào giữa trận, hàng trăm người cũng không địch nổi, lại có mưu trí quyền biến, mẹo mực như thần.
Vua Quang Trung phía Nam tiêu diệt quân Xiêm La, phía Bắc đánh tan quân Mãn Thanh, thống nhất đất nước. Nhà thơ Khiêm Ðức đã làm bài thơ ca ngợi công đức của vua Quang Trung :

Trịnh Nguyễn hai bên dẹp đã đành
Thêm còn giữ nước thắng nhà Thanh
Ngai vàng Chiêu Thống gìn cương kỷ
Duyên thắm Ngọc Hân nặng nghĩa tình
Sĩ Nghị mang sầu tâu Bắc khuyết
Càn Long vỡ mộng dẫm Nam thành
Xiêm La tướng sĩ ôm đầu chạy
Nuớc Việt nhờ đây hưởng thái bình

Năm 1784, quân Xiêm được nhà Nguyễn rước về nam Việt Nam. Xiêm La cử hai tướng Chiêu tăng và Chiêu Sương kéo sang nước ta hai vạn quân và 300 chiến thuyền, đi đến đâu quấy nhiễu dân chúng đến đó, thật là tai hại.
Ðược tin Nguyễn Huệ vội vào Gia Ðịnh, áp dụng chiến thuật lùi để nhử địch vào các địa điểm chiến lược. Tại Xoài Mút, Nguyễn Huệ đặt phục binh bên Rạch Gầm nay thuộc tỉnh Ðịnh Tường, quân Xiêm đến, quân của Nguyễn Huệ đổ ra đánh bất thình lình, đánh cả hai mặt thủy bộ, chận đướng rút lui của địch, quân Xiêm xoay trở không kịp, chết và bị thương rất nhiều, mười phần chỉ còn một, hai, manh đầu chạy về nước.



Quang Trung Ðại Ðế

Ngày 24/11 năm Mậu Thân 1788, Ngô Văn Sở từ núi Tam Ðiệp cho tin cấp báo về Phú Xuân, việc Tôn Sĩ Nghị huy động binh mã 4 tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Quảng Ðông và Quảng Tây, đem 200 ngàn quân, chia làm 3 đạo, kéo thẳng váo nước ta.
Nguyễn Huệ tỏ ra rất bình tĩnh. Các tướng sĩ yêu cầu ngài hãy chính hiệu để buộc lấy nhân tâm, dương thanh thế, rồi sẽ tiến quân ra Bắc. Nguyễn Huệ cho là phải, liền hạ lệnh đắp đàn giao tại núi Bàn Sơn, phía nam núi Ngự Bình, tế cáo trời đất và làm lễ đăng quang. Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Ðế, kỷ nguyên là Quang Trung ngày 25/11/1788.
Vua Quang Trung khởi hết cả quân Thuận, Quảng, Thanh, Nghệ, đem ra Bắc Hà. Ngày 20 tháng chạp, đoàn quân tới núi Tam Ðiệp, khao thưởng quân sĩ, truyền cho ba quân tạm ăn Tết nguyên đán, hẹn đến mồng 7 tháng giêng, thu phục thành Thăng Long, sẽ mở tiệc khai hạ.
Mồng 3 tháng giêng năm kỷ dậu 1789, ông kéo quân đến vây đồn Hà Hồi, nay thuộc tinh Hà Ðông, truyền loa gọi dạ ầm ầm, đến vài vạn người, quâ Tàu trong đồn run sợ, ta rã mà chạy, bắt được giết sạch, không còn tên quân nào chạy lọt về báo Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long được nữa.
Vua Quang Trung thừa thắng đánh tràn đến đồn Ngọc Hồi, Vân Ðiển, Yên Quyết, giết các tướng Tàu là Ðề Ðốc Hứa Thế Hanh Trương Triệu Long, Tả Dực Thượng Duy Thăng. Tiên phong Tri phủ Ðiền Châu là Sầm Nghi Ðống không địch nổi, treo cổ tự vận trên cành cây đa. Tôn Sĩ Nghị đóng quân tại Thăng Long, được tin cấp báo, mất tinh thần, không kịp đóng yên ngựa, cùng một số thân binh vượt qua cầu phao trên sông Nhị hà chạy vế phía Bắc. Quân sĩ tranh cầu, xô nhau mà chạy, cầu đổ, quân Tàu chết hàng mấy vạn người, đến nỗi nước sông Nhị hà không chảy đi dược. Hôm ấy là ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu 1789, vua Quang Trung mặc áo chiến bào xông pha trận mạc, thẳng vào Thăng Long, chiếc áo bào đỏ của vị anh hùng dân tộc, qua nhiều trận huyết chiến đã đổi ra màu đen cháy vì hơi khói của thuốc súng.
Nhà thơ Trần Quán Niệm đã làm bài thơ ca tụng chiến công oanh liệt của vua Quang Trung, thắng quân xâm lược Mãn Thanh trong những trận đánh thần tốc oai hùng :

ÐẠI PHÁ QUÂN THANH, XUÂN KỶ DẬU 1789

Vua Qung Trung khăn vàng buộc cổ
Ðốt sạch quân lương
Quân sĩ đồng lòng
Hò reo như sấm nổ

Lớp lớp hùng binh
Hàng hàng chiến tượng
Ngài cởi đầu voi chiến
Chỉ ngọn cờ đào hùng dũng tiến lên
Trong nắng ấm mùa xuân
Áo bào đỏ oai nghi rực rỡ
Sĩ tốt ghép mộc gỗ
Chống lại súng thần công
Sức công thành mạnh như thác đổ
Ðạp lũy hào, liều chết xông lên
Quân reo ngựa hý vang rền
Hỏa hồ cháy đỏ liên liền thành tan

Quân Ðô Ðốc Long, Ðô Ðốc Bảo
Thế gọng kềm đánh thốc ngang hông
Phơi thây máu chảy đầy đồng
Xác giặc chết chất chồng gò đống
Ðề Ðốc Hứa Thế Hanh chết
Tiên phong Trương Triều Long vong mạng
Tả dực Thượng Duy Thăng rơi đầu
Sầm Nghi Ðống đóng đồn Khương Thượng
Sức cùng thắt cổ treo thây
Tôn Sĩ Nghị chạy thoát lấy thân
Cầu phao đứt xác đầy sông Nhị
Áo bào đen khói súng
Ngài vào thành Thăng Long
Trong tiếng khải hoàn ca
Ðúng như lời đã hứa
Oanh liệt thay vua Quang Trung
Bảy ngày đại thắng chiến công muôn đời
Bình Nam phạt Bắc chói ngời
Chí toan lấp biển vá trời ai hơn ?

Mỗi độ xuân về
Lòng dân rộn rã nhắc chiến công xưa
Trang sử Việt uy nghi hồn Ðại Ðế
Trong khói trầm thơm tỏa
Anh linh hồn núi sông
Hỡi thế hệ Quang Trung
Hỡi tinh thần bất khuất
Quyết giữ vững giang sơn
Chống lại loài xâm lược

Vua Quang Trung mất ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý 1792, Miếu hiệu là Thái Tổ Vũ Hoàng Ðế.

Ba vị anh hùng trên đây xuất thân từ những miền đất nhỏ, khiêm nhường của đất nước. Napoléon Ðại Ðế sinh trưởng tại đảo Corse, một hòn đảo nhỏ của nước Pháp, Tổng Thống Hoa Hỳ George Washington, con của một nhà trồng tỉa ở Virginia Hoa Kỳ, Ðại Ðế Quang Trung Nguyễn Huệ xuất thân từ đất Tây Sơn, một vùng đồi núi hiểm trở của tỉnh Bình Ðịnh Việt Nam, tất cả đã bình Ðông, trị Tây, đánh Nam, dẹp Bắc, lập những chiến công oai hùng hiển hách, một sự nghiệp lẫy lừng vẻ vang, là tấm gương sáng cho thế hệ con cháu mai hậu.

Hằng năm, vui Tết mừng xuân, chúng ta ngồi uống trà thưởng Xuân, nhớ lại những chiến công oanh liệt của tiền nhân, chỉ trong 7 ngày chiến đấu ào ạt như vũ bão, với những trận đánh thần tốc, oai hùng vẻ vang, vua Quang Trung đã tiêu diệt 200 ngàn quân Thanh mau như chớp nhoáng, chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại, làm rạng danh trang sử Việt Nam. Ðây là một chiến công lớn lao của các danh tướng đông tây cổ kim trên thế giới và cũng là những bất diệt của hôm qua, hôm nay và ngày mai cho toàn thể dân tộc Việt Nam.


Triều Phong Ðặng Ðức Bích


Mục Lục


2. Xóm Cụt (truyện dài nhiều kỳ)

Ðỗ Thành




Phần 34

Tôi đã định ra đi một cách lặng lẽ, chẳng còn gì để nuối tiếc, đi theo kiểu bỏ của chạy lấy người, song anh bạn ân nhân của tôi cương quyết không chịu. Một mực anh ta chất vấn tôi : ông thầy sợ gì chứ. Ông thấy mặc cảm à, ông thầy giận dỗi à. Ðã vậy ông thầy càng phải ngẩng mặt lên mới được. Ông thầy thua thiệt nhiều rồi. Những ngày tù tội tạo nơi ông thầy một dấu ấn khó quên. Ông thầy phải chứng tỏ mình hoàn toàn khác họ.

Anh nói một thôi một hồi, không để tôi kịp vuốt mặt. Tôi ngượng nghịu chống chế : nhưng tôi còn gì đâu để mà khiến họ nể. Anh bạn không ngại ngùng phang lấy phang để vào mặt tôi : ông thầy còn tư cách, ông thầy còn tự hào. Ông thầy quên rồi sao tổ quốc ? danh dự - trách nhiệm, câu khẩu hiệu ngày xưa ông thầy trang trọng mang trên mũ.

Tôi như bị choáng váng vì một cú đấm mạnh. Tôi rưng rưng nhìn anh, anh cũng ngang nhiên nhìn thẳng vào mặt tôi. Quả nhiên tôi không chịu đựng được sắc ánh của tia mắt anh. Tôi khuất phục nên nói lí nhí : thôi được rồi, giờ anh bảo tôi phải làm gì đây.

Anh bạn ân nhân xăng xái hẳn. Anh bày vẽ cho tôi từng món : ông thầy phải làm một bữa cơm chia tay, mời tất tận bà con trong cái xóm cụt này, nếu được cả cái anh khu vực từng quấy rầy ông thầy. Họ đến hay không là quyền của họ, còn việc mình mời là cung cách của mình. Nhất định phải lôi bằng được gia đình ông thương binh hưu. Họ hãnh diện dặn dò ông thầy lúc thả tù phải về lo học hỏi gương cán bộ, nhưng thử hỏi ông thầy học được cái gì, hay ngược lại họ học ở ông thầy.

Anh nói hăng quá, tôi muốn tối tăm mặt mũi. Anh nghỉ lấy hơi rồi tiếp : có chớ, ông thầy học ở họ lối nuôi lợn trên gác xong xả nước thải xuống trước nhà ông thầy. Hoặc giả ông thầy học ở họ cái mặt vênh vênh và lời đe dọa lũ này chỉ có nước bắn bỏ. Thế nhưng họ có làm gì được ông thầy đâu. Ngược lại, cô từ một phụ nữ ngồi chơi sung sướng, giờ cũng lặn lội xuống ao, nuôi lợn, vớt bèo, thái rau, lo cho chồng cho con đến nơi đến chốn, tại sao mình lại sợ họ.

Tôi đã toan can ngăn anh, nhưng anh đưa cử chỉ chặn lời tôi : ông thầy để tôi nói cho hết. Người xưa bảo : biết mà không nói là ác, nói mà không nói hết là độc, tôi không muốn là kẻ độc, ông thầy ạ. Thử hỏi những người như chú thương binh đây một đời lặn lội chiến trường, hiến cả một phần thân thể để rồi được cái gì. Thậm chí có cái lương và mớ gạo tiêu chuẩn cũng phải lóp ngóp mò đi dăm lần ba lượt mới được. Còn mình ngày xưa, nuôi tù ở không mà họ còn eo còn xách, đau bắt đưa nằm nhà thương, làm reo bắt phải đổi cơm đổi món. Bây giờ thử ông thầy xin họ một phần trăm như vậy coi có đặng hôn.

Anh nói mà đỏ mặt tía tai. Tôi chưa kịp xoay cái đầu theo cho mau thì anh te tái nói luôn : khoản chi phí em sẽ lo cho ông thầy. Sau đó gia đình ông thầy cứ ra đi, (anh pha trò) sang bển ông thầy làm ăn được lâu lâu dón về cho thằng em chút đỉnh là đủ. Tình nghĩa của mình là ở chỗ đó, ông thầy. Tôi nghẹn ngào muốn rơi nước mắt.

Công việc sửa soạn ra đi lu bu quá. Họ hành đủ điều, giấy không nợ thuế, giấy không bị ai mè nheo, giấy nhà cửa, giấy không trốn nợ ngân hàng v.v? Tôi bã người còn hơn cái giẻ rách, anh bạn ân nhân cứ luôn một bên cổ vũ tôi : kệ, ai nói gì nói, ông thầy sắp thoát rồi, ráng lên. Cuối cùng đã tưởng xoa tay thì lại được mời lên phường. Người ta tiếp tôi có phần bớt khắt khe, chắc vì tôi sắp buột khỏi vòng tay đè nén của họ. Và người ta bảo tôi làm một tờ cam kết, đại loại là sang nước người không có hành động chống báng, xuyên tạc, vạch lưng cho người ngoài xem. Tôi nhũn như con chi chi viết, y như cái mẫu chung những người ra đi trước được họ đưa để chép cho y khuôn đúc.

Lại đến cái khoản phường hỏi tôi còn tài sản định sao. Tôi thẳng thắn kể cho họ tôi chẳng còn gì cả, thứ gì đáng giá thì các ông lấy cả rồi, hoặc khi tôi đi tù gia đình bán dần mà sống. Giờ chỉ còn độc cái chòi thì vì những ngày sống cạnh nhau ông bà thương binh hưu đã nhất mực đỡ đần tôi, nay tôi xin để lại tùy nghi ông bà ấy sử dụng.

Người tiếp tôi ở phường có vẻ lạ lẫm. Ngoài mặt anh ta ra điều hỉ hả, song tôi thấy anh bỏ ra một lúc như lấy ý kiến trên. Một lát anh ta quay lại xởi lởi : chúng tôi nghĩ ông bà tặng cho phường để cấp cho người khác, nhưng ông bà đã định giao cho hai bác thương binh thì cũng là người nhà cả thôi.

Ðúng thế. Tôi nghĩ anh ân nhân của tôi nói chẳng sai. Ðáng lẽ người cùng chung chiến tuyến họ phải chăm lo cho nhau hơn, đằng này lại để một thằng đã từng đứng trong hàng ngũ đối địch làm cái việc tréo cẳng ngỗng vậy.

Về nhà, vợ tôi cũng nói lại ý nghĩ của bà vợ ông cán hưu : em ngỏ ý để lại căn nhà tuềnh toàng của mình thì bà ấy rơm rớm khóc, làm em cũng khóc theo. Hai chị em ôm lấy nhau, em cám ơn bà đã chở che, bà chỉ một mực nói : tôi học ở gia đình chị rất nhiều.

Bữa cơm chia tay vắng tay buôn máy và tay khu vực xin lỗi vì bận. Anh bạn ân nhân và tôi chẳng đả động gì, nhưng ông thương binh thì có ý kiến : thằng ấy có là mặt dầy mới đến. Chẳng có cao lương mỹ vị gì, chỉ lềnh phềnh bát canh rau đay và đĩa trứng tráng, kèm thêm chén nước mắm kho khô đặc, chúng tôi chén chú chén anh đưa cay với xị ông già chống gậy cũng thấy ngon.

Rượu vào, tôi nín bặt vì sợ nói ra líu cả lưỡi, nhưng ông thương binh thì nói huyên thuyên. Bà vợ ông ngồi cạnh phải nói chữa : chưa bao giờ ông ấy vui nói nhiều thế. Tôi bảo không sao, không sao. Vợ tôi cũng thêm : thế mới vui và thoải mái để ông ấy nói.

Có một lúc, tôi thấy ông cán hưu trườn hẳn về phía tôi, mắt lấp lánh sương sương mà rặn từng lời : chúng mình đều khổ cả, ông ạ. Ông có nỗi khổ của ông, tôi có tâm sự của tôi, chỉ tiếc là hai mươi năm hòa bình rồi mà hố sâu chưa vơi cạn được một tẹo. Trong thâm tâm, có thể chúng mình tìm cách xáp lại nhau, nhưng người ta không muốn cứ đẩy dần mỗi người một phía.

Tôi cảm động lắm, cứ cầm cái cốc xoay tròn trong bàn tay. Anh bạn sửa xe thấy găng nên giục giã : ta vô đi hai ông thầy cho vui vẻ. Uống xong, anh ân nhân nhìn tôi sâu thẳm như bảo : nọ, ông thầy có thấy hôn. Tôi vô tình gật gật đầu như thừa nhận. Tôi khề khà, hơi men làm đổ nghiêng tôi thì ít, mà cái tình người sao cứ muốn vật tôi ngã chổng cẳng lên.

Ông thương binh hưu lần dò tìm lấy bàn tay tôi bóp khẽ và run giọng nói : ông với tôi là hàng xóm, nếu quá khứ tôi có điều gì ông không hài lòng, trước giờ ra đi xin ông xí xóa cho. Tôi rất mực ngưỡng mộ ông, ngưỡng mộ gia đình ông, tôi có sống gần mới thấy mình hiểu sai nhiều quá. Thôi, nào ta nâng ly, chúc gia đình ông lên đường may mắn, các cháu sẽ sớm khôi phục lại sự tin tưởng.

Tôi lặng đi. Bà vợ ông cũng ôm lấy vợ tôi thỏ thẻ : chị sang nhớ lo cho anh ấy. Anh đau khổ nhiều rồi, chị hãy là chỗ tựa để anh dựa. Thấy cả hai bà mắt ướt nhoèn nhoèn, tôi quay mặt đi. Chỉ nghe loáng thoáng lời nói vui gượng gạo : sang bên ấy thỉnh thoảng chị có nhớ về Xóm Cụt thì luôn biết là có tôi đang nhìn lên trời mà hỏi xem anh chị và các cháu đang ở đâu, làm gì.

Tôi quả thật xụm nhào. Anh bạn sửa xe vội đỡ lấy tôi kêu lên lấp liếm : ông thầy mệt rồi, ta kết thúc đi thôi.

Ðỗ Thành

Mục Lục


3. Hiến Chương Tình Yêu (truyện dài nhiều kỳ)

Tình Hoài Hương



Phần Thứ Nhất

Chương 6

Hương Trầm Dạ Khúc Ðêm Trường Ðà Lạt

Noel xưa anh nhớ

Khi hãy còn yêu nhau

Nhà thờ nơi cuối phố

Thấp thoáng sau ngàn dâu

Anh chờ em đi lễ

Chung dâng lời nguyện cầu...

Mimosa mimosa bừng nở


Ðẹp như tình ban đầu (1)

Ðêm Noel Ðà Lạt khai sinh Mười với tuổi xuân hồng phơi phới rót mật vàng từ thinh không xuống lòng phố nở hoa mùa đông. Gió cuối đông lồng lộng thổi về làn hơi buốt giá lạnh tê người. Bầu trời ướt đẫm sương đêm Noel tuyệt vời ngọt ngào, ngây ngất, đầy hương vị tình yêu miền núi. Từng hồi chuông dài ngân nga giữa đỉnh đồi bay qua các sườn dốc, các khe thung: tiếng chuông mừng vui réo gọi hoan hỉ reo vang cùng thế nhân. Một đêm hội lịch sử đón chào Chúa Giáng Sinh 24 tháng 12: là đêm lạnh lẽo buốt giá hạnh phúc vui vẻ tưng bừng rất mùa xuân. Hàng cây tối mờ trong lớp sương mù dày bao bọc vòm trời ẩn hiện ánh đèn vàng vọt mờ nhạt ở đầu phố, tạo thành nhiều đóm sáng bất động. Các mái nhà dưới thấp trên cao chênh vênh bên sườn đồi thoai thoải. Những con đường mòn chạy dài xuống thung lũng âm u văng vẳng đâu đây tiếng lao xao cười nói ồn ào. Nhiều tốp nam nữ thoáng chốc tấp nập ra phố đêm đi dự lễ. Trên các nẻo đường lớn trong thành phố, người đi kẻ lại đông vô số kể. Họ khoác bộ cánh rực rỡ, áo lạnh khăn quàng, găng tay, mũ len đủ mọi màu sắc. Phố phường tưng bừng rộn rã hoan ca, khác hẳn ngày đầu đông ở xứ lạnh. Người người vui vẻ cười đùa, chuyện trò ríu rít, đi lại ngược xuôi chen lấn nhau trên đại lộ. Nơi đây không một chiếc xe nào có thể qua lọt giữa rừng người bách bộ đông như kiến. Người ta vui vẻ nói cười, không cần biết những ông cảnh sát đang vất vả làm việc lưu thông không ngưng nghỉ.

Mười chợt bừng tỉnh giấc ngủ nồng say sau mùa Thu héo úa, rồi mùa đông buốt giá gần tàn. Lòng cô em xôn xao, thỉnh thoảng gió thổi qua mát rượi, đủ làm cho da người con gái xứ lạnh càng thêm thắm hồng, dấy động từng thoáng nhớ đắm say, vấn vương ngọt ngào mãi không rời, qua tiếng tơ lòng dìu dịu rung ngân trên mỗi phím loan. Ở trong tư gia: Bảo, Quốc Toàn, Thịnh, Trình đang loay hoay trang hoàng cây thông cao quá, đọt đụng trần nhà bị cong hẳn lại, Bảo phải cưa bớt một đoạn dài. Sau đó các cháu móc đầy dây kim tuyến, ngôi sao, quả cầu đủ màu sắc, thiệp Noel, thiên thần, ông già Noel, và giăng nhiều đèn màu chớp tắt. Dưới gốc thông có những gói quà nho nhỏ, xinh xinh, bánh, kẹo, đồ chơi linh tinh... Nhạc giáng sinh trỗi lên tưng bừng nhộn nhịp, hoan hỉ vui vẻ trong căn nhà ấm áp. Tiếng cười con cháu vang khắp nơi vui như mở hội. Sau nhà ngang: chị Khánh, bà bếp đang chiên xào nấu nướng các món ăn thơm phức. Họ chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ, lát nữa đi lễ về, là gia đình ăn réveillon.

Ăn cơm tối xong, Mười quét dọn, lau chùi nhà cửa sạch sẽ tươm tất. Nàng ủi áo quần cho gia đình để chuẩn bị đi lễ. Thơ vừa lau bụi trên các kệ sách, nàng nói:
- Hồi chiều, có anh Phú, Lễ, Tài, Vinh, đến nhà mời chị em mình, mười giờ rưỡi lên Couvent xem lễ, chứ ở Nhà Thờ Lớn đông lắm! Rồi về nhà họ ăn réveillon, mở party... Em chưa kịp nói gì, thì anh Nam đến.
Ngạc nhiên, Mười ngừng ủi áo, ngẩng nhìn em, hỏi:
- Anh Nam gặp Phú? Họ nói chuyện vui vẻ há?
- Coi chừng cháy áo. Chị "táp pi" em tới tấp à? Họ chào hỏi nhau, vui vẻ cả làng.
Hồi chiều Mười bất ngờ thấy Nam ngoài phố, lòng Mười đã rộn ràng, xao xuyến, mừng rỡ. Về nhà Mười dấu kín niềm vui nầy, vờ như chưa biết gì. Phần các cháu muốn Mười có chút bất ngờ thú vị, nên chúng cũng không nói Nam từ Sài Gòn đã lên Ðà Lạt. Tâm trạng Mười lúc này thật kỳ, vừa mừng vừa lo, bồi hồi, quắt quay với nỗi mong chờ. Bây giờ nghe cô em vừa nói, lòng nàng nao nao, băn khoăn bồi hồi. Lãng mạn không? Nhắc đến Nam, Mười quên hết mọi sự, tươi vui nét mặt ngay, mọi thứ bỏ sang một bên. Khi tình yêu đến có khác gì cây khô gặp mưa thuận gió hòa, đã trở nên xanh tốt. Muốn sớm gặp người yêu, nàng nôn nao, vui mừng, thấp thỏm, không yên ổn ấy mà.
- Chị cũng đi lễ với các anh kia chứ?
- Ði sao được!
- Ðến nhà Phú xí, rồi chị về đi lễ với anh Nam. Không có chị, chẳng vui.
- Ðủ rồi. Em không chuẩn bị gặp người yêu sao?
Thơ cười hì hì, nàng mặc sẵn áo dài mới màu xanh nhạt, điểm cánh hoa vàng nhỏ rải rác trên tà, quàng chiếc manto đen. Từ khi có "bồ", vấn đề ăn mặc trở nên cần thiết với Thơ, quần áo tuy lèng xèng giản dị, nhưng tươm tất. Nàng nghĩ: Dù sao nên "giữ kẽ" một tí, diện một tí, chứ xuềnh xoàng quá coi cũng mất mặt bầu cua. "Quen sợ dạ, lạ sợ áo quần" mà! Mười đi lên, đi xuống con dốc mờ tối năm bảy lần, chờ đón, ngóng trông Nam kinh khủng. Ruột nóng như lửa đốt. Dưới ánh đèn vàng vọt đầu phố có hàng cây tối mờ, bụi qùy cánh lá xòe to nham nhám, thấp thoáng nhiều bông hoa màu nghệ, nhụy nâu nở hết cánh trông vui mắt, chúng nép mình dưới chân vách đá. Các mái nhà dưới thấp, trên cao, chênh vênh bên sườn đồi thoai thoải, chạy dài xuống thung lũng âm u, có ánh đèn mờ nhạt chiếu ra, tạo thành nhiều đóm sáng bất động, lớp sương mù dày bao bọc cả vòm trời. Cuối sân sau của trường kỹ thuật Lasan, nơi bờ khe nhỏ ăn xuống phiá dướI là khe mương nước chảy một bên đường.
Thỉnh thoảng vài hòn đất, đá, lăn trên khe cao rơi xuống. Một tiếng "bủm" khô khan to và lạnh lùng. Mười dừng lại, nhìn về phía đó đăm đăm, hình như có tiếng ai nói gì trong bóng tối, nơi ánh đèn đường không dọi tới. Ai nói gì vậy!? Văng vẳng đâu đây tiếng lao xao cười nói ồn ào thoáng chốc đến nhanh. Ồ, thì ta chỉ là tốp nam nữ tấp nập đi nhanh ra phố đêm dự lễ. Coi vậy nàng nhác gan ghê! Có cái gì khiến Mười nhìn ra đầu đại lộ Yersin? Năm ba cây anh đào hoa nở rộ cài cánh hoa mong manh, ẻo lả, trên cành trơ trụi lá. Ðồi thông rì rào trò chuyện dưới thung lũng, khu đất nhà ông Nguyễn Ðệ rộng mênh mông, thì có gì để nàng phải đăm đăm nhìn về hướng đó, mà lòng thấp thỏm bồn chồn âu lo quá đỗi?
Chiếc taxi ngừng lại ở đầu dốc; Nam bước xuống, chàng mặc bộ veston mùa đông màu đen, cà vạt màu nâu non ôm kín cổ áo sơ mi vàng nhạt, áo pardessuis màu kem vắt trên vai như khách lữ hành ngày xưa mới gặp. Nam mang đôi giày da thời trang cùng màu với bộ veste. Mười cười rạng rỡ, liền ríu rít rảo bước về phía Nam. Dưới cột đèn đường khi nhìn thấy Mười, anh âu yếm trao nàng nụ cười tươi thắm. Nam im lặng nắm tay Mười đi xuống dốc. Nàng líu lo:
- Sao anh không viết thư báo tin trước. Em sẽ đi đón?
Nam im lặng đưa Mười quyển album, hộp bánh, quyển "Trau Dồi Ý Chí" của Claude Maillard, một hộp nho nhỏ bao giấy kính vàng cột nơ hồng (quà gia đình các anh chị, các cháu, thì Nam đã đem đến hồi chiều).
- Anh lên đây hồi nào vậy. Nam?
Chàng siết chặt tay nàng, khẽ thở dài, Nam không nói: Mặc cho Mười ríu rít hỏi chuyện, Nam đến nhanh chỉ cười cười siết chặt tay Mười. Dừng lại dưới ánh đèn nàng giựt tay ra khỏi tay Nam, ngẩng lên, hỏi:
- Giận em à, hở anh?
- Mười đi đâu, từ sáng sớm đến tối mịt vậy em?
- À, em đi Cầu Ðất với mấy nhỏ bạn làm chuyện tào lao, ngu ngốc. Anh lên đây, em rất mừng.
- Biết có "họ", thì anh hổng thèm lặn lội từ Sài Gòn lên Ðà Lạt (để dự lễ Noel đầu tiên của chúng mình). Mười có vài chàng trồng cây si, cây mở nhớ gì đến anh, mà mừng vui. Họ chờ em suốt buổi đó.
- Tự họ qúy mến cả nhà. Chẳng riêng ai. Không vì ai, anh ơi!
- Chưa chắc à.

Hai người tiếp tục đi xuống con dốc nhà:
- Anh thấy Nghi ?bà con xa xa" của em đã đến đây.
- . . .
- Ủa! không bà con sao? Vậy không lẽ? là ?bạn yêủ của chị Hạc?
- Mỉa mai gì ác thế? Em yêu anh nhiều mà.
Cảm động trước câu nói bất ngờ, Nam nhận tình em yêu bằng cách chàng tìm bàn tay Mười trong bóng tối, ánh mắt tha thiết nồng nàn hơn. Không nỡ trêu chọc nàng, Nam sợ Mười hờn dỗi, thì mất vui. Họ buông tay nhau khi đứng trên thềm. Sau đó Nam, Mười, cùng các cháu đi lễ đêm Noel. Họ đi trong lòng phố giá băng buốt lạnh, mang trong lòng niềm hân hoan yêu đời, vui vẻ hạnh phúc, bình an, tuyệt vời nhất. Thỉnh thoảng gió đông thổi qua mát rượi, đủ làm cho da người con gái xứ lạnh càng thêm thắm hồng. Noel khai sinh tuổi xuân hồng phới phới đang rót mật vàng từ thinh không xuống: lòng phố nở hoa mùa đông trên đỉnh đồi mù mịt sương muối và trong cánh đồng thương yêu của Nam và Mười. Một Noel tuyệt vời ngọt ngào ngây ngất, đầy hương vị tình yêu miền núi.

Từng hồi chuông dài ngân nga giữa đỉnh đồi, qua các sườn dốc, các khe thung tiếng chuông mừng vui réo gọi, hoan hỉ reo vang cùng thế nhân đón chào ngày Chúa giáng trần. Có hai vì sao sáng nhất thân ái quỳ gối bên nhau trò chuyện trên bến Ngân Hà. Vành trăng khuyết lơ lửng như chiếc thuyền con trôi đi trôi về giữa các tầng mây. Noel là một lễ Giáng Sinh tuyệt diệu, hạnh phúc nhất của đời cô gái mười sáu tuổi chớm lớn. Và, có lẽ là một Noel tươi đẹp thú vị nhất của một chàng trai mười chín tuổi. Lòng Nam và Mười xôn xao dấy động, họ vui không thể tả. Tay trong tay tình nồng trong mắt biếc trao đưa, đôi mái đầu xanh chụm lại, cùng dạo bước bên nhau quanh khu trường học, theo các cháu vào hội trường xem học sinh trường trình diễn văn nghệ. Triển lãm tranh ảnh. Bích báo. Tuần san. Máng cỏ. Riêng ?hai anh chị?? sau khi dạo xem quang cảnh trường, họ ngồi ngoài băng ghế đá, cạnh vườn hoa trước nhà thờ Dòng. Chàng lấy trong túi áo veste ra một hộp sơn mài nhỏ, có sợi dây chuyền vàng 18k, mặt chữ ghi NM. Anh vui vẻ ân cần đeo sợi dây chuyền vào cổ Mười, âu yếm nói:
- Kỷ niệm dù bé nhỏ, vẫn có giá trị về hạnh phúc một đời. Ta cảm ơn Chúa cho chúng mình gặp nhau, yêu nhau. Em nha.
- Dạ phải.
Vuốt lọn tóc buông dài trên bờ vai Mười:
- Mái tóc em dài, anh rất thích, đừng cắt ngắn nghen em.
- Anh khen quá, em bể lỗ mũi, chết à.
- Ơ kìa! Ai khen em mà bể mũi. Mắc cỡ chưa!
- À há. Anh chỉ nói mái tóc em dài, chớ chẳng phải khen em, em mà dị dạng rứa hè. Anh là khách lữ hành, dù đất lành chim vẫn chưa đậu. Rồi chốn phồn hoa đô hội cũ sẽ gọi anh quay về thôi. Có gì mà không bể mũi em chứ.
- Phượng hoàng đã gãy cánh trên đôi vai nầy rồi.
Vỗ vỗ trên vai Mười, Nam nói lời dịu ngọt, Nam nâng niu lọn tóc dài xõa bên má và đưa lên môi hôn. Mười cắn nhẹ làn môi, đầu nghiêng hẳn lên vai chàng. Hơi thở Nam ấm nồng phả nhẹ vào trong tóc Mười như làn hơi sương nhút nhát mà ấm áp. Ngón tay thư sinh trắng trẻo mềm mại truyền qua làn tóc mỏng xõa trên vai Mười cảm giác đằm thắm, lâng lâng ngọt ngào dễ chịu. Nam biết, nếu anh cúi xuống đặt lên môi Mười nụ hôn đầu tiên, có thể nàng không phản đối. Nam đắm mình trong hạnh phúc bất tận, ngây ngất niềm vui dạt dào. Nam nâng niu, trân trọng mối tình nên thơ, hồn nhiên nở hết cánh trong trái tim chân thật. Sao lạ quá! Cũng như lần Nam gặp gỡ Mười trước kia, ý nghĩ về việc Nam muốn ôm ghì Mười vào lòng mà hôn, cho thoả những nỗi niềm nhớ nhung bấy lâu vẫn nung nấu trong lòng. Nhưng rồỉ Nam nhìn Mười hồn nhiên và giản dị ngây thơ, thì Nam cố gắng ?đè nén? xúc cảm hừng hực và rạo rực? chìm xuống xí. Cứ vẩn vơ nghĩ đến? là Nam cảm thấy người mình xôn xao nóng rang trong trạng thái lâng lâng dật dờ rất khó chịủ
Tàn tiếng chuông báo hiệu nửa đêm ngân dài giữa vùng núi đồi trùng điệp chập chùng biển sương mù trắng xóa, thì hai người dìu nhau vào giáo đường xem lễ. Nam dâng cuộc đời, tình yêu nầy và tương lai cho Chúa Hài Ðồng gìn giữ. Sau đó Nam về nhà chị Khánh ăn mừng lễ trong không khí gia đình ấm cúng, thân mật. Ba giờ khuya, chàng từ giã Mười để về nhà Tuấn ở cuối đường Hoàng Diệu.
Chàng sẽ không bao giờ quên kỷ niệm vàng son một thuở yêu nhau, không thể nào quên? dù mai đây thời gian trôi chảy mãi, đời mỗi người trong hai chúng ta sẽ xa cách, phai mờ đi. Cuối cùng tình yêu nầy vẫn sống mãi trong tiềm thức, trong tư tưởng mỗi người. Một mình Nam đi trên lòng phố vắng, hồi lâu chàng còn nghe rõ tiếng gót giày cô đơn thong thả gõ lóc cóc lộp cộp đều đặn trên mặt nhựa đẫm sương mù, giống như Nam đang đi trên dòng thác vừa tráng thêm lớp men tình. Sương rơi lốp đốp trên cành, hạt sương mọng to tròn long lanh như ngấn lệ đọng, sương đậu ở đầu ngọn lá rung rinh dưới ánh trăng nhạt nhòa. Sương phủ trên thân Nam tê buốt thịt da giá rét vô vàn.
Nam dừng lại giữa lòng thế kỷ lần tay tìm trong túi quần gói thuốc Craven ?Ả, hai lòng bàn tay Nam khum khum che đốm lửa, điếu thuốc lập loè gài lên môi, Nam ngửa mặt lên trời thả ngụm khói tản mạn trong không trung, quyện lẫn hơi sương ngút ngàn bay bay. Nam cảm thấy đơn điệu, cô độc lạ thường đang choàng vô cái khuya buốt lạnh, giá băng, im ngắt đến ghê rợn. Ðường về khuya tại thành phố Ðà Lạt trữ tình càng hiu hắt hoang vu. Khuya thăm thẳm sắc bén ăn sâu vào lòng du khách, khuya lạnh lùng vây bọc nhận chìm Nam trong đam mê ngút ngàn phong thổ. Ngàn đời xứ Cao Nguyên Lâm Viên vẫn không thể mất đi vẻ thơ mộng, hữu tình, tràn lan quyến rũ, trọn vẹn những tấu ca hương trầm dạ khúc đêm trường qua cung đàn đắm say ở trần thế: Thôi thì xin hưá anh là Sương, em là Cỏ: Chúng ta sẽ vĩnh hằng ?Mộng Chung Ðôi Cánh?* nha em:

Ðời phiêu lãng thấm đẫm sương rơi
Mái tóc anh bỗng thấy bạc rồi
Sương cỏ giao tình mơ khắng khít
Cỏ sương thầm ước mộng chung đôi.

Không lẽ Không-quân mãi giạt trôi
Núi mòn sông cạn lướt chơi vơi
Thương em hứa hẹn làm thân cỏ
Hạt ngọc sương trao ngậm chẳng rời.

Sương đọng rung rinh ánh mắt nàng
Xuân tình bay bổng nhớ đài trang
Phi công cánh bay vờn trong gió
Lả lướt tình sương cỏ dịu dàng.

Danh lợi phù vân chẳng có màng
Cỏ đây sương đấy ước bình an
Ðôi ta nghĩa trọn tình chung thủy
Phước lộc vui vầy sống thọ khang... (2)
***


(1) Thơ Nhất Tuấn

(2) Mộng Chung Ðôi Cánh- thơ Tình Hoài Hương

Tình Hoài Hương

Mục Lục


4. Gánh Xiếc Cuộc Ðời


Vành Khuyên

Anh yêu em.

Nghe ba tiếng đó ôi dịu dàng làm sao! Nó xóa đi được bao cảm giác khó chịu, bực bội mà giúp con người trở về với thiên đàng tình ái. Tôi nhớ thời son trẻ của mình, tôi chưa nghe ba tiếng đó từ một người đàn ông mà đã muốn chết trong vòng tay anh ta rồi, huống chi mà nghe anh ta nhắc lại nhiều lần chắc là tôi chìm trong tình yêu của anh ta dù có giả dối đến khó mà tìm đường ra quá.

À đúng đó. Ba tiếng anh yêu em kỳ diệu lắm, biến tôi từ thành thật ra dối trá, từ hiền lành ra dữ dằn, từ chân chất ra thâm độc.

Không, là cuộc đời thôi, chả phải tại ba cái tiếng êm đềm đó đâu.

Uk Sally là người học cùng lớp thư viện với tôi tại Trung Học Văn Hóa năm đó. Chị chắc người Miên hay sao mà đen đen, giọng Việt cũng không chuẩn lắm. Tôi là dân trung trung trong lớp. Trung trung hiểu theo cái nghĩa không nhỏ hơn mấy ai cũng không lớn hơn bao nhiêu người. Ai tôi cũng hỏi tên, gọi tên cho quen thuộc, khỏi chị em gì cho mệt. Bà Uk có lẽ nghĩ tôi hơi hổn, cho bà ấy ngang hàng, kêu ai cũng bằng tên nên ít nói chuyện với tôi lắm.

Tôi khấn trời, kệ, ghét tôi kệ, đừng hại tôi được à, cho tôi học qua mấy năm ở trường trung học này, sau đó tốt nghiệp ra trường kiếm đủ tiền sống thôị.

Vậy mà đâu có. Hễ tôi ngồi đâu ;à chị Uk ngồi chung đó. Năm đó đám con trai không thích chơi với tôi mấy vì họ nhỏ hơn không. Dù họ rất vui vẻ và hoạt bát còn tôi thì chỉ nghiêm nghị. Ðiều gì họ bàn, họ nói trúng ý tôi thì tôi cười ké. Tôi không thích tham giagì với họ, cũng không bày trò thì không chung băng với họ rồi.

Lạ!, vậy lấy gì cho Uk thích ngồi chung với tui chớ.

" Em có thấy Nhơn nó thích em không? " Uk nhìn tôi thành thật.

Tui hết hồn, bụng thầm chửi UK nhiều chuyện, tỉnh bơ " Nhơn là thằng nào Uk? "

" Bên kia kìa,nhìn qua mà xem , nó đang nhìn em kìa ". Theo phản ứng tự nhiên, tôi nhìn qua thì bên kia có cha nội đang ngó tôi thật. Uk ma quỷ thiệt, cái gì cũng để ý.

Tôi lãng với Uk " Kệ nó chớ, chưa đụng, chưa biết !".

Uk người lớn với tôi " Chờ đó mà coi nha !"

Tôi hơi khựng, ý Uk là sao đây , kỳ lạ , coi cái gì chớ...

Vậy mà...

Tôi cũng chẳng còn nhớ tôi và Nhơn đã quen nhau ra sao. Nhưng nghĩ mà coi, tôi, con nhà cũng đàng hoàng, nhan sắc và tính tình cũng đâu tới nổi tệ, vậy mà bị người yêu đầu đời đá lên đá xuống, on off hoài trong 4 năm. Tôi chán cái cảnh ngồi chờ anh ta đến làm hòa tận cổ, chưa bắt gặp anh ta đi với cô khác thôi chứ còn là với tôi thì tình yêu với anh ta tệ vô cùng rồi. Tôi đã từng ước chi tôi yêu được người khác, vậy là Nhơn ngang xương nhảy vô.

Nhơn cho tôi cái cảm giác yêu súc vật tôi chưa từng có. Tôi lớn lên trong gia đình không chó, mèo gì trong nhà. Con chó của Nhơn như một người bạn, quấn quít tôi như chủ nó làm tôi thấy mình quan trọng trong cuộc đời hơn.

Tôi đã quên Uk và lời nói của chị ta. Tôi đến với Nhơn bằng tấm lòng và tình yêu chân thật.

Năm thứ nhất trôi qua, tôi chán cái cảnh vừa học vừa chơi ở trường Trung Học Chuyên Nghiệp. Tôi bỏ trường đang học để thi lại đại học cho có tương lai hơn. Những ngày học thi, tôi nhớ Nhơn và lớp cũ vô kể, mỗi lần lại thăm lớp, tôi ngạc nhiên khi thấy Uk bao giờ cũng chung bàn với Nhơn.

Tôi ghen hỏi Nhơn hậm hực " Làm gì ngồi gần bà Uk hoài vậy? "

Nhơn tỉnh bơ " Bả thích thì bả ngồi, ai cấm, à mà bả cho bao nhiêu đứa mượn tiền lấy lời đó nha, đứa nào không làm gì bả muốn là bả đòi lại liền á".
Tôi ngớ người ! Uk ngon vậy sao? Hèn gì mỗi lần Uk nói gì tôi khựng lại vì ngạc nhiên thì tôi nhìn xung quanh thì đều thấy một sự ngượng ngập, im ắng..

Tôi vẫn vô tư, tôi tin vào câu trả lời của Nhơn, đang yêu tôi đâu có cần biết gì khác nữa.

Từ ngày không có tôi trong lớp, có lẽ Nhơn tự do hơn nhiều dù vẫn đúng hẹn với tôi. Bạn bè tự nhiên như không nhìn thấy tôi, hay nói lãng qua chuyện khác khi tôi tới trường và hỏi tại sao Nhơn không có ở lớp. Tôi thắc mắc lắm nhưng cứ cho đó là chuyện bình thường cho qua ngày qua tháng.

Tôi quan sát Uk kỹ hơn, Nhơn kỹ hơn cũng chẳng tìm ra cái gì liên quan giữa hai hình ảnh đó.

Tôi vẫn vui bên Nhơn, vẫn nhận những lời dịu ngọt, những mơn trớn của Nhơn mà vui sống dù chưa bao giờ nghe Nhơn nói ba tiếng Anh yêu em.

Tự tôi cho giữa tôi với Nhơn là tình yêu thì nó là tình yêu rồi. Cần gì hơn? Tôi đang cần tình yêu của Nhơn như cá cần nước, nước trong nước đục, tôi làm sao mà lường được hay có thể tôi chưa đủ suy nghĩ để màng tới. Tôi chỉ biết tôi đang bơi trong cái vũng tôi tự cho là nước.

Ngày cả lớp họ ra trường, tôi mắc thi chẳng dự, tôi không thân với ai ngoài Nhơn và còn nhớ Uk như một người quen thôi.

Thư viện quốc gia chiều hôm đó thật vắng người, tôi không hẹn với Nhơn chiều đó vì phải vào đọc sách viết bài luận thi chính trị cuối khóa. Ngồi bên cầu thang đi lên cửa chính, gió mát rượi, tôi sảng khoái, đọc chữ nào vô chữ đó.

Khi bài đã gần xong, tôi ngoáy đại thêm vài hàng rồi ra sớm hơn dự định đi tìm Nhơn, muốn làm Nhơn ngạc nhiên về sự có mặt của tôi trong ngày ra trường.

Nhìn lại đã 5h, họ đã tan hơn nữa tiếng rồi, tôi vẫn theo thói quen về con đường vẫn hẹn.

Bên kia đường, Nhơn, Uk và nhóm bạn cũ cười nói, tôi giật mình khi thấy Nhơn và Uk nắm tay thân thiết lắm. Tôi quay xe lại chạy nhanh tới hớt hải thì họ buông tay ra ngay. Tôi á khẩu, không nói gì, đạp xe như con điên theo chiều ngược lại, cả đám bạn bè cũng không ai cần gọị.


Trâm,

Xin lỗi em, Uk và anh rất yêu nhau, Uk nói gia đình em giàu, may ra anh chơi với em sẽ có lợi hơn. Nhưng anh không nghĩ vậy, cuối cùng quyết định nói với em về anh và Uk để em thấy dễ chịu hơn. Ðừng trách anh. Cuối cùng anh đâu có dối gạt gì em đâu.

Chỉ là xin lỗi em phải mất 2 năm anh mới nhận ra anh không thể thiếu Uk và chấm dứt với em sớm hơn.

Tha lỗi cho anh , chúc em may mắn.

Nhơn.

Từ sau ngày đọc lá thư ấy, tôi không còn biết gì về Nhơn và Uk. Thế cũng xong một chuyện tình.

Ðời với tôi từ đó là một gánh xiếc. Xiếc thiệt đó! Người này bảo người kia đu, leo, làm theo ý họ muốn. Có những người chưa từng biết mình phải làm gì cứ làm y chang như người khác nói rồi có ngày lại hối hận và cho là còn kịp.

Không, ai muốn ra sao thì ra.

Tôi, tuyên bố không tham gia gánh xiếc nào trong đời thường nữa.

Tôi vẫn thật với mình, vẫn tin mình sẽ sáng suốt nhận ra tình yêu thật, dù biết rằng lòng tin của tôi có khi lại đẩy tôi vào gánh xiếc khác.

Người đời ơi, không, đừng làm xiếc ! Ðừng nhé! Ðừng nhé.


Vành Khuyên



Mục Lục


5. Căn Nhà Sau Cửa Biển (truyện dài)


Phan Thái Yên


17 (tiếp theo).

Khách mời lần lượt chào từ giã ra về còn lại Nữ với Hiroshi đứng yên lặng giữa sân trời nhìn đêm xao xuyến ánh trăng mờ ảo trên triền mái lung linh những ngọn đèn lồng.

Nhìn nét mặt vui vẽ của người bạn gái Việt Nam, Hiroshi muốn thổ lộ mong ước thực hiện sớm chuyến đi Nhật đưa Nữ về thăm mẹ, nhưng như những lần hẹn hò trước anh lại do dự nhủ lòng. Anh biết Nữ đang tâm nguyện bỏ hết thời gian, năng lực đòi lại cho được ngôi nhà bị tiếm đoạt của mẹ cha. Anh đang hết lòng giúp đở người yêu. Thường thì công ty chỉ thông qua chính quyền địa phương, trả tiền bồi thường rồi nhanh chóng san bằng đất qui hoạch để tiếp tục việc xây cất, thế nhưng sau nhiều thuyết phục, công ty đã chấp thuận đề nghị của anh. Một phái đoàn từ văn phòng chính ở Tokyo được cử sang để nghiên cứu đòi hỏi khác thường của Nữ. Mọi người đều trầm trồ khen ngợi công trình kiến trúc công phu của khu linh viên, hài hòa ba nét kiến trúc cổ Việt Nhật, và Champa. Công ty đồng ý giữ nguyên khu vườn mộ, chỉ thay thế cổng chào torii mang từ Nhật sang, và chấp thuận mua ngôi nhà trong Phố đền bù cho căn nhà ngoài cửa biển sẽ được xây lại theo kiến trúc Nhật Bản. Việc thương lượng mua nhà bị đình trệ vì những người chủ mới đang neo giá.

* Anh hy vọng lần thương lượng tới đây họ sẽ đồng ý.

Nữ nhìn Khang, lắc đầu cười tươi tắn.

* Em đang nghĩ tới chuyện khác. Anh có nghĩ mớ tiếng Nhật trời ơi của em đủ để tiếp chuyện với mẹ vào hội hoa anh đào mùa Xuân tới ở Tokyo không anh?

Khang mừng quá, ôm vai người yêu xúc động nói dồn.

* Thì cũng như mớ tiếng Anh của anh thôi. Mình sẽ nói bằng mắt, bằng tay, bằng trái tim. Rồi em sẽ ngạc nhiên lúc đó biết đâu em sẽ không cần phải nói tiếng Nhật? Em vừa tặng cho anh, cho mẹ món quà lớn nhất. Anh về gọi cho mẹ hay ngay bây giờ.

Nữ cười vói theo Khang.

* Anh đánh thức mẹ dậy như rứa coi chừng bị đòn đó nghe.

Khang bước khuất qua góc phố vừa lúc Nữ nhìn thấy bé Hà đang hấp tấp chạy về phía mình.

* Em đang ở bệnh viện với mẹ ngoài Ðà Nẳng mà? Bác có sao không?

Hà vội vàng trao cho Nữ một bao thư hồ sơ khá dày, kéo Nữ bước vội vào nhà. Cô gái nhìn quanh cảnh tiệc tàn, ngồi xuống bên Nữ lấy lại hơi thở.

* Em về từ buổi chiều, muốn đi dự tiệc cưới chị Xuyến nhưng mẹ dặn phải tìm cách lấy cho được xấp giấy tờ này, tự tay trao cho chị liền và không được cho ai biết.

Nữ nhìn cuốn Sổ Ðỏ của ngôi nhà cũ với tên của vợ chồng người bác họ, lòng nghi vấn về chuyện gì đó đang xảy ra giữa đám bà con của bà bác bệnh gần đất xa trời đang nằm bệnh viện.

* Sáng ni cả mấy anh chị em của mẹ kéo ra bệnh viện, nói là thăm nhưng em chỉ nghe bàn toàn là chuyện nhà cửa chi đó lúc họ đuổi khéo em ra ngoài. Em đi

loanh quanh cả buổi, bụng đói mới nhớ ra quán bún gần chùa Cao Ðài chị vẫn hay quảng cáo. Bé Hà cườỉ Bún ngon thiệt!

* Cái con ni! Ham ăn, ham uống? Rồi sao nữa!?

* Khi em quay lui, họ đã kéo về lại Hội An. Mẹ mệt có lẽ vì cải vả nhiều với mấy người em. Lúc khỏe lại, mẹ chỉ chổ dấu cuốn sổ đỏ, dặn em phải bí mật lấy đưa tận tay chị ngay. Mẹ còn dặn tới dặn lui là có việc cần nói với chị càng sớm càng tốt.

Nữ ôm cháu vào lòng.

* Em lớn bộn rồi nghe! Coi mà ăn cái chi đi, rồi ngủ lại đây. Mai chị chở ra Ðà Nẵng.

Bà bác họ đón Nữ và con gái với nước mắt còn đọng trên hai má gầy hóp nhăn nheo. Hà ôm mẹ khóc òa. Người mẹ cười héo hon, vỗ về lau khô nước mắt cho con gái rồi đưa tay mời Nữ ngồi xuống cạnh giường.

Suốt đêm suy nghĩ, dằn vặt trở lăn và những điều sắp phải nói ra trước mặt con gái khiến bà cảm thấy kiệt sức. Bà muốn rủ xuống, muốn quên đi nhưng linh cảm sự sống trong bà sẽ chẳng còn bao lâu đã thôi thúc bà vì tương lai của đứa con yêu quý.

Cơn đau hành thâu đêm kéo dài như quảng đời gần bốn mươi của cô gái bần cố nông từ những đêm cải cách ruộng đất loang máu trên một vùng làng biển Ninh Bình. Chưa quá tuổi mười lăm cô đã hăng say thoát ly theo cách mạng trở vế làng đấu tố vợ chồng người địa chủ đã động từ tâm nuôi sống cái Mua qua nạn đói năm Ất Dậu. Ðời cô Mua vinh quang từ đó. Cô làm hậu cần cho hợp tác xã nông nghiệp tìm cách ăn trên ngồi trước, hớt chia tiêu chuẩn. Rồi cô Mua quá thì lấy chồng già tập kết, đi B về. Sau bảy lăm cô theo chồng vào Nam ăn chia thành quả cách mạng, ở nhà to, hoạh họe quản lý cửa hàng quốc doanh. Và quá nhiều tội lỗi đã làm dọc suốt cuộc đời. Thời gian qua, sự đau đớn tận cùng của thể xác như hình phạt thượng đế giáng xuống khiến người đàn bà không còn sợ sệt cái chết. Thế mà nỗi sợ hãi về những rắp tâm của đám bà con theo bà vào Nam ăn có vinh hoa sẽ cướp nhà, đuổi bé Hà sống cảnh long đong khiến bà ngột thở ngất ngư. Cảm giác rần rần nhập nhụa phi luân với Niên giữa bờ mê tỉnh vẫn sống mãi với bà vì từ đó là sự có mặt của bé Hà như niềm hạnh phúc duy nhất, cuối cùng. Bà không muốn cái chết của mình sẽ khiến con gái bà chịu cảnh sống đời khổ ải. Bà nghĩ tới Nữ như một cứu tinh và sự hàm ơn nàng đã giúp giữ bí mật về bé Hà suốt bao năm qua.

Bà phải trả lại lai lịch cho đứa con yêu quý của mình. Ánh mắt van lơn khẩn cầu của người đàn bà hướng về phía Nữ.

* Mong cô Nữ tha thứ về những tội lỗi tôi đã gây ra cho cô và gia đình.

* Chuyện xảy ra thì đã xảy ra. Cháu mừng là bác đã thấy được sau bao năm ni. Tuy trễ cũng hơn không.

Người đàn bà run run cầm tay con gái chạm khẻ vào tay cô em gái của Niên. Nữ cầm chặc tay bé Hà đang ngơ ngác nhìn hai người.

* Tôi chỉ mong được cô Nữ gọi là ?chị Muả một lần trước ngày tôi chết là cũng đủ mãn nguyện rồi.

Bà mẹ nhìn bé Hà, kể hết chuyện đời mình cho con nghe bằng hơi sức tàn. Nước mắt Hà ràn rụa nghe xong câu chuyện bất ngờ. Hà ôm chầm lấy người em của cha ruột mà từ lúc sinh ra luôn luôn là ?chị? Nữ rất nhân hậu của mình.

* Có phải rứa không cô Nữ?

Nữ cố cầm không khóc mà nước mắt cứ tuôn rơi. Nàng ôm cháu vào lòng lần đầu tiên trong đời giữa hiện thực không ngờ nên còn tưởng chiêm bao.

* Phải đó cháu. Cô Nữ là cô ruột của cháu đây. Hơn mười tám năm nay, cô đành phải theo lời mẹ cháu giữ kín lai lịch để cháu khỏi bị nguy hại.

* Hèn chi con nhớ lúc con mới năm, sáu tuổi giữa lúc đám ma ông già cán bộ chồng của mẹ, cô đã chở xe đạp, chống xuồng dẫn con về Xuyên Thọ để cắm nhang cho bố Niên. Sau đó, không hiểu sao mỗi lần thăm mộ con đều có cảm giác là lạ, không tên mà ấm lòng.

Bà Mua như người vừa trút được gánh nặng sau dốc đường xa. Bà tin cậy nhìn con vui vầy bên người thân sẽ chu toàn lo lắng cho bé Hà sau khi bà qua đời. Bà nghiêng người ra dấu cho bé Hà rút ra từ dưới gối một bao thư trao cho Nữ.

* Cô Nữ hảy đọc tờ di chúc này. Tôi đã viết tối qua sau khi suy nghĩ kỹ càng. Tôi có nhờ hai người y tá, họ sẽ vào làm chứng lúc tôi ký tờ di chúc và ký tên của họ vào.

Nữ chăm chú đọc trang giấy chi chít chữ. Lối văn của một người ít học, viết như đang nói, thành thật mà nhẩn tâm. Cũng như nàng đang cố nén lòng hả hê và cố xua đi ý nghĩ đang đọc một bản tự thú. Rồi Nữ buồn bã thấy mình vừa là chứng nhân vừa là người trong cuộc của một bi kịch dài. Người vợ có chồng bất lực, vì muốn có con đã chủ động chuyện sinh lý với một thanh niên cường tráng nhưng bị bệnh tâm thần. Người chồng bất lực nhưng vì thể diện vẫn nhận mình là cha của đứa bé gái. Hai người đàn ông đều đã qua đời. Nay người vợ mang chứng bệnh ung thư thời kỳ cuối, sẳn lòng xác nhận lại người cha ruột của con mình qua thử nghiệm máu và xin thay đổi giấy tờ khai sinh hộ tịch cho con gái. Ngôi nhà bà đang chủ quyyền, người mẹ muốn toàn bộ sang tên cho con gái. Tờ di chúc cũng yêu cầu người cô ruột của con gái đứng ra làm người bảo hộ giúp đở trong việc quản lý nhà cửa, tài chánh. Anh chị em của bà đang ở nhờ trong nhà sẽ phải dọn ra sau khi được đền bù một số tiền vì vấn đề nhân đạo và sẽ do người chủ mới của ngôi nhà định đoạt.

Người mẹ qua đời chỉ một thời gian ngắn sau khi những điều trong di chú được thực hiện. Trước ngày Nữ ký giấy tờ giao ngôi nhà ngoài cửa biển cho công ty du lịch Nhật Bản để nhận tiền bồi thường, Hiroshi có hỏi về chuyện thừa tự ngôi nhà.

* Em sắp có chồng, ?xuất giá tùng phủ làm răng mà thừa tự được.

Câu nói tưởng như đùa để Khang vui, thật ra là nỗi niềm sâu kín Nữ đã cưu mang, ray rứt mỗi khi nghĩ tới. Những đứa con của anh Niên. Huân đã qua đời, mà nếu còn sống cũng chỉ là đứa con hoang đàng từ một gia đình tư bản đỏ. Huy, con chị Nương, trong dịp về thăm quê hương năm trước, cô cháu gặp nhau chuyện trò càng khiến Nữ không mấy lạc quan nhưng chẳng thể trách móc ai. Huy là một sinh viên giỏi, một người Mỹ gốc Việt vui tính, lịch sự, nhưng luôn tránh né từ chối quan hệ với cộng đồng người Việt nơi gia đình cháu ngụ cư. Chẳng phải là một mặc cảm tự ti nào, chỉ là quan niệm khác về lai lịch gốc gác của mình.

Bé Hà trở thành chủ ngôi nhà thừa tự đã khơi lên trong lòng Nữ nguồn hi vọng mới. Không giống mẹ, Hà là cô gái ngoan hiền. Bên Mỹ, hai chị Nhi Nương đều rất vui mừng hay tin về cô cháu mới của mình nhưng cũng không quên ?đay nghiến? Nữ về cái tội dấu diếm lai lịch cháu từ bao nhiêu năm qua. Hai chị đều ?giành? Hà về ở với mình khi biết ý của Nữ định cho Hà đi du học. Cảm nghĩ về cháu Huy và nước Mỹ đã khiến Nữ chần chừ. Lúc Nữ đề cập chuyện du học của Hà với Hiroshi, anh chàng cũng vui mừng không kém hai chị.

* Em có biết mẹ từng làm việc ở phân khoa ngoại ngữ của trường đại học Waseda? Còn ở gần nhà mẹ hơn thì có một trường đại học nữ khá tốt. Anh sẽ đưa em đi thăm cả hai trường khi mình qua thăm mẹ mùa Xuân tới.

Buổi tiệc mừng cháu Hà giữa sân vườn nhà xưa tề tựu đông đủ bà con và những người thân quen. Cậu Chấn nhìn quanh cơ ngơi hư hao, mòn mỏi dấu thời gian.

* Cuối cùng rồi thì cũng châu về hiệp phố. Trời định hết con ơi! ? Mà mi coi có đủ tiền để sửa sang lại cho giống như xưa được không đó Nữ!?

Cậu cười ha hả nhìn Nữ tươi cười gật đầu nhìn về phía Hiroshi, vừa lúc Hà đang bước tới.

* Giống thằng cha nó như đúc. Mấy lần cúng mộ tao đã ngờ ngợ rồi, ngặt cái con Nữ giấu kỷ quá.

Mấy bà dì cười phá lên, lúc dì Chanh lên tiếng.

* Nhà khảo cổ lại đoán gần đúng rồi. Cha con không giống nhau thì giống ai đây?

Dì Chức chưa thôi trách móc Nữ đã giấu cả dì về bé Hà.

* Anh Chấn còn ngờ ngợ được là hay lắm rồi. Còn tui với chị Nơi, chắc vì ở quá gần nên chẳng thấy chi mà ngờ ngợ. Như anh nói đó, O Nữ giấu kỷ quá mà? Mà nào ngay, thiệt là nhà mình còn phước phần nên người ta hồi tâm , chuyển ý mới có ngày hôm nay.

Dì Nơi nhìn Nữ hóm hỉnh.

* O Nữ còn chuyện chi chưa bật mí nữa thì làm ơn thông báo để chị em tui khỏi bị đau tim.

Nữ cười nhìn mọi người.

* Dạ, cái mí kế tiếp được bật ra là? năm ni mấy dì phải cúng giao thừa ở tiệm thiếu cháủ đang bận đi lượm hoa đào ở Nhật với anh Khang.

* Rứa mà tui cứ nghĩ O Nữ sẽ đi Mỹ trước.

Nữ lắc đầu.

* Dạ, cháu tính đi Nhật trước để coi ngó chuyện trường ốc cho bé Hà luôn thể.

Cậu Chấn nhìn Nữ gật đầu đồng ý, rồi pha trò.

* Ðược lắm! O Nữ sắp phát động phong trào Ðông Du lần thứ hai đó mà!


(còn tiếp)

Phan Thái Yên


Mục Lục


6. Thế Hệ 30 Miền Nam


Trần Thành Mỹ


Tính đến 2013 thế hệ 1930 đã có tuổi từ trên 70 đến 80, nếu còn sống là sống thọ gần hết cuộc đời mình hơn mức bình thường ngày xưa là 60. Ðó lại là thế hệ đặc biệt chứng nhân trực tiếp bao thăng trầm của đất nước, biến cố mốc lịch sử quan trọng, thay đổi chế độ, chiến tranh đủ loại, lạnh nóng trong ngoài, sự có mặt viện trợ hoặc tham chiến của hầu hết các quốc gia thế giới, nơi tập trung và cũng là mồ chôn đủ giống màu, cuộc tị nạn khổng lồ từ trước đến nay, một vòng quạt tôn giáo lớn nhỏ du nhập từ lâu hay mới bành trướng, một sự thống nhất đất nước mở cửa ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống xã hội văn minh văn hóa tâm linh.

Thế hệ 30 nầy được sinh ra dưới thời thuộc địa Pháp còn đội nón cối thực dân, bị bắt buộc học chương trình Pháp, rồi lớn lên trải qua hai nền Cộng Hòa I và II của Tổng thống Diệm Thiệu trước 1975, chứng nhân trực diện ngày 30-04-1975 lịch sử đổi đời, cuộc vượt biên vô tiền khoáng hậu, những trại học tập chính trị cho quân dân miền Nam Việt nam Cộng hòa, cuộc sống mới hoàn toàn khác biệt của người ở lại dưới thời Việt nam Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa và đời sống tị nạn ở nước ngoài.
Thật vậy có thể bảo rằng thế hệ 30 nầy nhất ở miền Nam là thế hệ gian truân mà cũng may mắn được trải qua bao biến cố lịch sử nước ta liên quan cả tình hình thế giới bấy giờ, nhiều bài học kinh nghiệm xương máu nhất trong thời kỳ thay đổi quan trọng nhanh chóng của đất nước ở thế kỷ 20 khi lên xe lúc xuống ngựa, thấy đó mất đó, nay ông mai thằng, chủ tớ, phong tục tập quán đảo lộn, ngôn ngữ còn xáo trộn nữa là, gia đình phân tán, trật tự xã hội chưa ổn định, hố sâu giữa giàu nghèo khó lấp bằng, ảnh hưởng của chính trị, kinh tế, văn hóa ngọai chập chồng làm chóng mặt người dân nhất là sự chông chênh tâm tình chưa xóa được của kẽ thắng người thua.
Phải công nhận rằng trên toàn thế giới chưa một đất nước bé nhỏ nào mà từ ngàn xưa đến nay được bao nhiêu cường quốc để mắt đến xâm chiếm tranh giành.
Vẫn không thấy có nước kiên cường nào hơn sau trên ngàn năm Bắc thuộc, người bạn láng giềng khổng lồ bằng mọi cách kể cả phi pháp luôn cả luật quốc tế, cho đến thế kỷ thứ 21 nầy vẫn chưa và không bao giờ từ bỏ ý định biến thành một nước chư hầu vẽ thêm một ngôi sao nhỏ trên lá cờ kẻ xâm lược. Sau đó gần một thế kỷ lệ thuộc Pháp, một cường quốc có nền văn minh tiến bộ Dân chủ Cộng hòa đề cao Liberté, Égalité, Fraternité, (Tự do, Bình đẳng, Huynh đệ ), nước nhỏ bé hình chữ S vẫn còn giữ nguyên vẹn lảnh thổ từ cửa Nam quan đến mũi Cà mau (hởi ơi, giờ không còn cửa Nam quan nữa), giành lại được độc lập tự do.
Các bạn có tìm được đất nước nào mà bao lần bị đô hộ, ngôn ngữ vẫn còn được duy trì qua ba miền đất nước, dù chính sách đồng hóa tiêu hủy hay thay thế văn hóa bản xứ bằng chữ Hán của người Hoa, và kỳ diệu hơn đã biết vừa phá cách chữ Hán thành chữ Nôm, vừa cải mới chữ viết sang Quốc ngữ theo mẫu tự La tinh.
Thương cho dân tộc Việt luôn luôn phải đối đầu vừa với mọi hoàn cảnh trong ngoài của đất nước mới có hòa bình hầu theo kịp vừa với đà tiến hóa nhậy cảm và nhanh chóng thế giới, vừa tận dụng cả lương tri để tìm chọn đúng đường, lý tưởng, ý thức hệ thích nghi.
Thật sự thế hệ 30 thế kỷ 20 từ nhỏ cho đến sang thế kỷ 21 còn tiêu biểu rõ nhất chưa hề hưởng trọn vẹn đất nước mình hoàn toàn tự do độc lập lâu dài, không chiến tranh chống ngoại xâm thì cũng là nội chiến, anh em cùng mẹ bất hòa ly tán như kẻ thắng người thua.
Cuộc đô hộ Pháp tuy ngắn ngủi chỉ gần 100 năm nhưng ảnh hưởng thật sâu rộng vô cùng nhất là miền Nam. Về chính trị, với chính sách cai trị bằng đôi bàn tay sắt bọc nhung vừa ban phúc bằng cách bành trướng mọi mặt kinh tế hành chính giáo dục, vừa dẹp tắt mọi mầm mống yêu nước, khai thác tận cùng xương tủy tài nguyên đất đô hộ với tư cách bộ mặt của một ân nhân nhà truyền giáo nhân đạo giúp đời. Do chính sách chia để trị, họ đã chia đất nước ta thành ba miền, ba Kỳ (kỳ=vùng đất) như ba nước nhỏ có tên riêng, ?Bắc kỳ? là Tonkin bằng chứng bài hát nổi tiếng ngày lệ thuộc Ma petite Tonkinoise, ?Trung kỳ? là Annam nên họ gọi dân ta là Annamites, ?Nam kỳ? là Cochinchine.
Hai miền Bắc Trung chỉ bị đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp như nước Tunisie ở Bắc Phi, riêng miền Nam là thuộc địa thôi. Bảng số xe hơi được đánh dấu theo miền như VNB, VNT, VNN. Vì theo quy chế thuộc địa của chính quyền thực dân, nên guồng máy hành chánh, giáo dục của Nam kỳ đều do ?mẫu quốc?, đứng đầu là Thống đốc Pháp, sau đó năm 1877 thuộc Liên Bang nên có Toàn quyền Ðông dương (Gouverneur Général de l?Indochine Française). Do đó thế hệ 30 miền Nam biết đến vị Toàn quyền Ðông dương cuối cùng là Jean Decoux (1940-1945) và Thống đốc Nam kỳ dân sự đầu tiên là Le Myre de Vilers và vị cuối cùng Ernest Thimothée Hoffël (1942-1945), vị nầy đã đọc một bài diễn văn trước mộ Cụ Ðồ Nguyễn đình Chiểu ở Ba Tri ngày 27/6/1943 và đã được các nữ sinh Tiểu học ngâm thơ chào mừng tại Văn miếu Gòcông khởi đầu bằng câu: ?Hoffël Thống đốc sử nên biên?.
Ngoài ra xin chung chung đề cập vài điểm khác biệt mà công dân Việt ta ít biết hay không ai còn nhớ để ý đến. Miền Nam được chia ra 21 tỉnh đánh số riêng cho mỗi tỉnh mà học sinh Tiểu học nào thời Pháp thuộc cũng phải thuộc nằm lòng đọc ngắn gọn từng ba chữ đầu như: Gia Châu Hà,
Rạch Trà Sa,
1-Gia định; 2-Châu đốc; 3- Hà tiên
4-Rạch giá; 5-Trà vinh; 6-Sa đéc
7-Bến tre; 8-Long xuyên; 9-Tân an
10-Sóc trăng; 11-Thủ dầu một; 12- Tây ninh
13-Biên hòa; 14-Mỹ tho; 15-Bà rịa
16-Chợ gạo; 17-Vĩnh long; 18-Gò công
19-Cần thơ; 20-Bạc liêu; 21- (Ô) Cấp

Cấp là do tiếng Pháp Cap có nghĩa là mũi đất, đây là Cap Saint Jacques mà ngày nay là Vũng tàu ban đầu được thành lập thành phố tự trị (commune autonome) năm 1895.
Ngoài ra các chức vụ lãnh đạo cai trị về hành chánh, quân sự, an ninh và cả giáo dục của ba miền đều không giống nhau, như ở miền Nam đều do người Pháp đãm nhận như Thống đốc Nam kỳ (Gouverneur de La Cochinchine-1879), Chánh tham biện (Administrateur Tỉnh trưởng ) cả ông Cò (Commissaire) Trưởng ty Cảnh sát. Trong khi miền Trung có Khâm sứ Trung kỳ (Résident Supérieur d?Annam), miền Bắc có Thống sứ Bắc kỳ (Résident Général de Tonkin).
Dinh hành chánh là tòa tham biện mà người dân gọi là Tòa bố. Tỉnh lại chia thành Tổng (canton), đứng đầu là Cai tổng. Tổng lại chia thành Làng, đứng đầu là Hội đồng Hương chức hay gọi là Ban Hội tề cho đến 1945 thì tan rã gồm có 12 chức vụ: 1-Hương Cả; 2-Hương chủ; 3-Hương sư; 4-Hương trưởng; 5- Hương chánh; 6- Hương giáo; 7-Hương quản; 8-Hương bộ; 9-Hương thân; 10-Hương hào; 11-Xã trưởng; 12-Chánh lục bộ.
Từ 2-5-1882 đã có Hội đồng địa hạt, mỗi Tổng có một nghị viên Hội đồng địa hạt nhiệm kỳ 3 năm khác hẳn với miền Bắc bảo hộ có những chức vụ khác như Thượng thư, Chánh lý, Lý trưởng.... Nghị viên Hội đồng được bầu là người Việt và cũng như tất cả các chức vụ hành chánh khác phải thuộc nhà có tài sản, biết tiếng Pháp.
Dinh Thống đốc Nam kỳ lúc đầu được xây bằng gỗ (1863) và kế đó ngày 23-2-1868, Thống đốc Nam kỳ La Lagrandière khởi công xây lại dinh mới tại Saigon và lạ lùng nhất lại lấy tên dinh Norodom, quốc vương Campuchia, cho đến thời Ðệ nhất Cộng hòa mới đổi tên là Dinh Ðộc lập.
Nhưng ngày nay đến thế kỷ thứ 21 nầy rồi, ta vẫn còn thấy những tòa dinh thự uy nghi từ Bắc đến Nam do người Pháp xây cất, trường học mà chương trình giáo dục truyền bá đến các tỉnh làng, những đồn điền cao su cà phê họ tận lực khai phá, các sự kiện nầy cũng làm ta một chút trầm tư suy gẫm, kẻ xâm lăng cũng có người có chút lòng mang đến nền văn minh mới, kẻ khác bất nhân tham lam cưỡng chiếm biến nước nhỏ láng giềng thành tỉnh chư hầu củng cố mộng bá chủ thế giới.
Như mạn sông nước miền Nam chằng chịt, thế hệ 30 sống liên tục trong hoàn cảnh bị động của đất nước như chiến tranh không ngừng, lại được đúc kết nên từ nền giáo dục ngoại bang, tinh thần giằng co giữa phong tục tập quán truyền thống và ảnh hưởng phúc lợi của nền văn minh Âu Tây, tiếp cận với bao dân tộc khác, sống trong vùng đất rộng sông dài, phì nhiêu tài nguyên phong phú không chỉ do thiên nhiên ban tặng mà còn chính là do công ơn của ông cha ta trong cuộc Nam tiến cùng với bao di dân khác khai phá mở mang.
Thế hệ 30 miền Nam một phần của thế hệ 30 trong ba miền, lại là thế hệ từ mới ra đời đã phải sống gọn lõn trong hoàn cảnh cá chậu chim lồng, thời kỳ cao điểm bình định miền Nam thành thuộc địa. Về giáo dục, đặc biệt là phái nữ cũng được khuyến khích đi học như phái nam, họ bị bắt buộc học theo chương trình Pháp, sử Pháp ?Nos ancêtres sont des Gaulois?, chào cờ Tam Tài với ba màu Xanh biểu hiệu Tự do, Trắng là Bình đẳng, Ðỏ là Bác ái, và hát quốc ca Pháp La Marseillaise.
Thời kỳ học ở Tiểu học, họ đã nhận biết phần nào thế nào là thân phận của dân lệ thuộc, cuộc đấu tranh châu chấu đá voi chống ngoại xâm qua các cuộc tản cư về miền quê trốn đạn bom, trường học phải đóng cửa, dời nay nơi nầy mai nơi khác để nhường chỗ cho đồn binh trại lính giặc tạm trú, chứng kiến bao cuộc bố ráp của lính lê dương đánh thuê đủ loại màu da ruồng bắt tiêu diệt phong trào ái quốc chống Tây. Một trong hậu quả là bao nhiêu con rơi đủ giống màu mà một thiên tình sử may là có hậu giữa một quân nhân viễn chinh Pháp chung thủy Jean Bedel Bokassa và cô gái quê Nguyễn thị Huệ đã làm tốn bao nhiêu công sức giấy mực và nước mắt thời Ðệ nhị Cộng hòa để tìm lại được con gái chung của họ là Martine Bokassa nhờ trung gian của nhà báo Việt Ðịnh Phuơng của báo Trắng Ðen thời bấy giờ. Jean Bedel Bokassa sau nầy trở thành Hoàng đế Trung Phi (1966-1979) mà ngày 1/12/1977 cố nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã đưa đoàn văn nghệ sang Cộng hòa Trung Phi trình diễn nhân ngày Hoàng đế Trung Phi Bokassa I đăng quang.
Rồi lại tiếp đến nền đô hộ không đầy một năm của Nhật sắt máu dùng lúa thay than đốt, ruộng vườn trồng toàn cây bông vải cây đay làm cho gần triệu người miền Bắc chết đói, vựa lúa miền Nam kiệt quệ, nhà nhà phải cử người đi học tiếng Nhật. Vậy là thế hệ nầy vừa vào tuỗi trưởng thành đã trải thêm kinh nghiệm cuộc xâm lăng mới của quân phiệt Nhật.
Cách mạng tháng Tám 1945, phong trào Thanh niên Tiền phong đầy khí thế với tầm vông vạc nhọn với những bài hát kháng chiến làm nức lòng dân ta trong những ngày đầu mới được độc lập tự do.
Ai là cựu nữ sinh Gialong chắc còn nhớ Lễ trộn đất các miền đất nước do các phái đoàn đại diện nữ sinh miền Bắc mặc áo dài xanh lá cây, nữ sinh miền Trung với quốc phục màu vàng, miền Nam màu xanh nước biển, vùng Cao nguyên với các cô gái Thái trắng với quốc phục riêng của họ rất đẹp, mỗi đoàn mang một bọc đất vùng mình đến dự lễ hòa trộn đất chung nhau thống nhất thành một khối tại Nữ Trung học Gialong, thời kỳ Quốc trưởng Bảo Ðại.
Tiếp theo đó là những cuộc thanh trừng những ai mà chế độ Việt nam Dân chủ Cộng Hòa lên án là ?Việt gian?, thủ tiêu cho ?mò tôm? cường hào ác bá, tay sai lính kín theo Pháp.
Riêng ở miền Nam, vì Pháp còn trở lại 1946 nên chương trình Pháp vẫn tiếp tục cho đến 1950. Do đó sinh viên học sinh miền Nam còn là chứng nhân trực tiếp các cuộc biểu tình chống Pháp và các cuộc bạo động cùng với dân chúng Saigon, làm reo bãi khóa 10 trường công tư, tuyệt thực ở Pétrus Ký, Gialong,... cao trào nhất là cái chết và đám tang của Anh Trần văn Ơn ngày 12 -1-1950 dưới thời Thủ hiến Trần văn Hữu.
Trong thời kỳ học ở Trung học, tuổi bắt đầu trưởng thành, cứ mỗi lần tình hình đất nưóc thay đổi thế hệ trẻ nầy đều trải thêm bao kinh nghiệm quan trọng mới . Họ đã học văn chương văn minh lịch sử Pháp, tất nhiên cái tầm nhìn và suy nghĩ của họ không thể hoàn toàn giống như ông cha ngày trước vì cái hào quang và tiếng sét đổi đời của Cuộc Cách mạng Pháp 1789 giải phóng chống lại phong kiến độc tài lập nền Cộng hòa mới trẻ độc lập tự do.
Song song với việc mở mang dân trí miền Nam, người Pháp còn ru ngủ tinh thần ái quốc dân ta bằng cách mở các tụ điểm ăn chơi, hút xách, mại dâm, như Ðại Thế Giới ở Chợ lớn, sòng bạc Kim chung ở khu vực Cầu Muối, Trường Ðua Phú thọ. Các bạn cựu học sinh Pétrus Ký niên học 54-55 chắc không quên ngày quân đội Ðệ I Cộng hòa ngày 20 tháng 4-1955 tấn công vào vị trí Bình Xuyên ngay tại trường Pétrus Ký, dưới thời Thầy Hiệu trưởng Phạm văn Còn.
Rồi lịch sử lại đổi thay. Thế hệ 30 nầy đến 1954 đã ra đời sinh hoạt, họ lại chứng kiến cảnh chia đôi đất nước lần thứ hai ở vĩ tuyến 17, cầu Hiền lương trên sông Bến Hải làm bức tường ngăn cách ý thức hệ. Hơn một triệu đồng bào miền Bắc di cư trốn chạy bằng mọi phương tiện, bằng tàu há mồm, phi cơ, đường bộ tị nạn vào Nam, bao gia đình miền Nam ly tán tập kết ra Bắc. Thế là từ cái ấn mốc chia rẽ đất nước thành hai nước Cộng hòa, Việt nam Cộng Hòa ở miền Nam với đồng minh Thế giới tự do, Việt nam Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với Thế giới Cộng sản.
Từ đó, thế hệ 30 miền Nam lại được pha trộn thêm kinh nghiệm sống khác lạ thân phận người của miền Bắc, với đầy đủ thành phần nhưng phần lớn là những trí thức, thượng lưu, đầy đủ nghề, có đạo dưới chế độ Cộng sản. Bấy giờ thế hệ 30 miền Nam thống nhất nầy quả là tổng họp sức mạnh của thế hệ trẻ đang trong thời kỳ đầy nhiệt huyết tràn sức sống và có lý tưởng xây dựng lại đất nước.
Họ đang là thế hệ nối tiếp nồng cốt giữ vai trò chủ động trên mọi mặt mọi cấp xã hội chính trị văn hóa quân sự tôn giáo dưới thời Ðệ nhất Cộng hòa với Tổng thống Ngô đình Diệm và Ðệ nhị Cộng hòa thời Tổng thống Nguyễn văn Thiệu .
Như chúng ta đã biết, sau thế chiến thứ hai, Việt nam ta đã trở thành một địa bàn mà các cường quốc Âu Á thi thố các thủ đoạn trong cuộc chiến tranh lạnh và phổ biến rộng ảnh hưởng của thế giới tự do và Cộng sản, và thế hệ 30 miền Nam trước kia đã từng sống đưới thời thực dân Pháp nay biết trực tiếp thêm chú Sam với cái nhãn hai bàn tay nắm tay nhau và các nước đồng minh trong thế giới tự do. Sự hiện diện của lực lượng đồng minh và nhất là dân quân Mỹ trực tiếp hoạt động thời bấy giờ cũng thay đổi quan niệm truyền thống của vùng đất mới nầy một lần nữa, hậu quả khó lường.
Thêm vào đấy, đất nước đang thời kỳ bình yên nhất, mọi hoạt động đang vào nề nếp xây dựng đất nước tiến bộ thì tình hình nội bộ lại rối ren phe phái, tôn giáo đưa đến sự sụp đổ của Ðệ I Cộng hoà, và sau đó đến sự giảm viện trợ và rút quân của Mỹ thời Ðệ II Cộng hòa gây thất bại để rồi đất nước ?thống nhất?. Thời kỳ nầy chính thế hệ 30 là thành phần đóng góp nhiều nhất trong mọi địa bàn xã hội từ thành thị đến thôn làng, gia đình nào bằng cách nầy hay cách khác cũng dự phần vào việc bảo vệ miền Nam và hy vọng giải phóng miền Bắc thống nhất lãnh thổ.
Nội chiến từng ngày từng ngày giữa Bắc và Nam, do sự giựt giây viện trợ của các cường quốc khác nhau vì ý thức hệ, bao dân Việt hy sinh, đất nước bị tàn phá bằng mọi phương tiện giết người kể cả những hóa chất độc hại được thử nghiệm trong chiến tranh có ảnh hưởng giết lần chết mòn trong nhiều thế hệ trong tương lai.
Chưa dứt bất hạnh đâu, sau ?Cách mạng thành công 30-04-1975?, thế hệ 30 nầy trở thành ?ngụy quân ngụy quyền? ngụy dân mất hết quyền công dân dưới chế độ chiến thắng mới. Lần nữa họ lại là nạn nhân của thời thế khi tuổi đời chín muồi đầy kinh nghiệm sống suốt cả tuổi thanh xuân trưởng thành đã cống hiến cho xã hội gia đình miền đất nước tự do họ đang phục vụ giữ gìn bảo vệ đổi mới cách tân và hiện đại hóa cho sự phát triển Việt nam.
Trước kia, ông cha Việt ta đã làm cuộc Nam tiến và đã cùng bao lưu dân hay di dân khác như Khmer, Hoa, Chăm, Ấn biến miền Nam thành vùng đất mới trù phú có nền truyền thống văn hóa đa dạng được chấp nhận tận dụng cho sự phát triển đất nước đến ngày nay. Bây giờ cuộc Nam tiến lại đẩy ra khỏi đất nước hơn triệu người vượt biên bất chấp tính mạng hiểm nguy bằng mọi phương tiện hợp pháp, bất hợp pháp đường bộ tàu thủy, ghe xuồng phi cơ.
Ðáng thương vẫn là thế hệ 30 nầy, lý tưởng và hoài bảo, tài sản vật chất tinh thần đều bị tiêu tan đáng tiếc nhất là những kinh nghiệm sống và trình độ nhận thức cao của họ trong mọi lãnh vực văn hóa khoa học kỷ thuật tiên tiến hiện đại.
Những người ở lại trở thành dân ngụy bị bắt buộc học cải tạo từ Nam ra Bắc đi kinh tế mới, nhà cửa cơ sở kinh doanh bị tịch thu, họ cũng mất tất cả có khi còn lại vướng vào tù tội vì chưa biết gì về chế độ mới.
Ai ra được nước ngoài, gia đình ly tán, từ chủ thành tớ, có học thành thất học, không tiền ?không môi miếng, không chân đứng?, tuổi đời khá cao nhất là việc hội nhập vào nước định cư khác biệt về phong tục tập quán ngôn ngữ thật không dễ dàng gì. Từ đây, đối với chế độ mới họ mang tên Việt kiều với bao tĩnh từ xấu xa đính kèm và tưởng chừng như không bao giờ còn cơ hội trở về thăm lại quê hương.
Vậy mà cái thế hệ 30 nầy, từ hai bàn tay trắng họ đã thắng được hoàn cảnh đau buồn tột cùng của họ bằng lòng tự hào dân tộc, ý chí quật cường kiên trì, kinh nghiệm sống đã biết lùi bước để sống còn bảo vệ và xây dựng tương lai sáng lạn cho thế hệ con cháu. Hơn thế nữa, họ vẫn không quên bà con ruột thịt, bạn bè còn kẹt lại quê hương, chỉ cần nhìn vào số tiền họ đã gởi về trợ cấp hằng năm chứng minh điều trên.
Thật ra, thế hệ nào từ trước đến nay nhất là thời kỳ Pháp thuộc, cũng đều góp phần vào giữ và xây dựng đất nước nhất là Việt nam ta hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi về địa lý, khí hậu, nhiều tài nguyên chưa khai thác, vị trí bao lơn nhìn ra biển Ðông, bờ biển dài từ lâu đã có nhiều hải cảng nổi tiếng cho các tàu buôn ngoại, thềm lục địa đang khai thác mỏ dầu, đường hàng hải rộng mở giữa các nước Ðông Nam Á, các biển đảo trù phú gây sự thèm thuồng cho các nước lân cận và nhất là dân số gần 90 triệu càng ngày càng tăng, thông minh cần cù chịu khó, khéo tay và tiến bộ.

Tuy nhiên, thế hệ 30 miền Nam và sau đó gồm cả miền Bắc di cư 1954 quả là những nhân chứng trực tiếp dòng lịch sử thay đổi bất thường từ mới sanh ra đời dưới thời Pháp xâm lăng cho đến ngày nay. Chính họ là thành phần hy sinh nhiều nhất trong mọi biến cố thời đại vì họ là người trong cuộc chiến bảo vệ phát triển miền đất họ giành lại được để sống trong nền độc lập tự do. Với văn hoá Tây phương, miền Nam trở thành đi đầu trong việc đổi mới văn hoá, cách tân và hiện đại hóa đất nước sớm hơn mà thế hệ 30 là thành phần nối tiếp hữu hiệu nhất.
Vì thế, dù sống trong hoàn cảnh nào của đất nước, ở trong hay ngoài nước, thế hệ 30 miền Nam luôn cố giữ cái ?mình? của mình xứng đáng là người Việt dòng giống Rồng Tiên.

Ðã sống trong xiềng xích nô lệ nên biết thế nào thành quả tuyệt vời là độc lập tự do. Ðã thấy và sống với chiến tranh nên biết thế nào là giá trị của hòa bình.

Trần Thành Mỹ


Mục Lục


7. Thủ Ðức Một Thời Khó Quên


Nguyễn Qúy Ðại



Trước năm 1975, diện tích quận Thủ Ðức khoảng 200 km² với những cánh đồng lúa vàng trĩu hạt, những khu vườn cây ăn trái xum xuê, vườn cao su xanh ngắt và những nhà máy kỹ nghệ lớn nhất thời VNCH như: nhà máy Xi Măng Hà Tiên, nhà máy dệt VIMYTEX, nhà máy làm sửa hộp Foremost, nhà máy nước Ðồng Nai, nhà máy nhiệt điện Thủ Ðức, nhà máy kim khi VIKIMCO, nhà máy sản xuất tôle VINATON vv...ngoài ra có suối Xuân Trường, những khu nghỉ mát, hồ bơi lớn theo tiêu chuẩn quốc tế... Ðầu thập niên 70 Thủ Ðức lại có thêm một trung tâm giải trí lớn nữa là khu Ðường Sơn Quán bên xa lộ Ðại Hàn với sân trượt (patin) nổi tiếng và thu hút rất đông giới trẻ Sài Gòn vào mổi cuối tuần.

Thủ Ðức vùng đất Văn Hóa gần Thủ đô Sài Gòn, dưới thời VNCH về phương diện giáo dục là đơn vị hành chánh cấp quận duy nhất có đầy đủ các trường từ cấp tiểu học lên đến đại học. Ðại Học Khoa Học (Ban Vật Lý Ðịa Cầu) và Ðại Học Kỹ Thuật Bách Khoa. Nếu không có biến cố 30.04.1975, trường Ðại Học Kỹ Thuật Bách Khoa là đại học hiện đại có diện tích lớn nhất tại Miền Nam. Những trường trung học công lập: Thủ Ðức, Hoàng Ðạo, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trung Trực, còn có thêm trường trung học Kiểu Mẫu là trường dạy theo chương trình tổng hợp đầu tiên tại miền Nam với cơ sở đồ sộ và khang trang nhất. Ngoài ra còn có trường trung học Kỹ Thuật Việt Ðức ờ Ngả tư Xa lộ. Giáo Hội Công Giáo cũng có một số trường trung học như trường Lasan Mossard, trường Thánh Phanxicô, và thêm một trường nội trú dành cho nữ sinh.
Chợ Thủ Ðức theo lịch sử có từ hành trình xuôi về phương Nam của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào thế kỷ XVII. Người lập ra chợ là một thương gia người Hoa ông Tạ Dương Minh (Tạ Huy), hiệu Thủ Ðức, bỏ nước ra đi sau khi phong trào "phản Thanh phục Minh" bị thất bại. Nhân vật lịch sử đã góp phần khai khẩn, lập ấp vùng Linh Chiểu xưa và xây dựng ngôi chợ đầu tiên tại đây mang tên hiệu của ông là chợ Thủ Ðức.
Thủ Ðức là một vùng nữa chợ nữa quê hấp dẫn đối với người dân Sài Gòn, có những chỗ vui chơi giải trí thơ mộng, không ồn ào náo nhiệt. Cuối tuần nếu dân Sài Gòn không đi tắm biển Vũng Tàu thường đến Thủ Ðức tắm hồ, tắm suối, ăn nem nướng gói lá vông là một đặc sản nổi tiếng qua nhiều thập niên. Dọc các quán ăn, cửa hiệu ven đường, những chùm nem xanh tròn đầy treo lủng lẳng trông thật hấp dẫn, qua ca dao. ?tay cầm bầu rượu nắm nem, mải vui quên hết lời em dặn dò?. Tản Ðà thích thú khi đến ăn nem và tắm suối Xuân Trường làm thơ hồi tưởng

Thủ Ðức- Xuân Trường khách vắng đông
Ngồi nhớ người xa thêm nhớ cảnh
Xa xôi ai có nhớ nhau cùng...

Thủ Ðức còn có các quân trường nổi tiếng như: trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức (SQTBTÐ), Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia (CSQG)...Từ ngả tư xa lộ, đi về hướng chợ Nhỏ là làng Phong Phú sau năm 1940 đổi thành Tăng Nhơn Phú. Trường SQTB Thủ Ðức (Trường Bộ Binh) nằm trên đồi Tăng Nhơn Phú cách thủ đô Sàigòn 18 cây số về hướng Ðông Bắc. Trường SQTB Thủ Ðức có những dãy nhà mái ngói đỏ san sát dưới những hàng cây um tùm xanh mát. Ði trên xa lộ Biên Hòa nhìn về hướng đồi Tăng Nhơn Phú thấy một phần của trường và Học Viện CSQG có đại giảng đường với huy hiệu Cảnh Sát lớn ở mặt tiền, cổng và sân cờ có nhiều cây tùng xanh, cột cờ cao với cờ vàng tung bay trong gió lộng.

Theo tài liệu của Bộ Quân Sử ?các diễn tiến trong việc thành lập Quân Ðội Quốc Gia VN? trường Sĩ Quan Thủ Ðức là một trong hai trường đào tạo sĩ quan trừ bị do chính quyền Quốc Gia Việt Nam thành lập vào tháng 10 năm 1951 mang tên École d?Officiers de Réserve để đào tạo cấp chỉ huy người Việt cho Quân Ðội Quốc Gia VN trong Liên Hiệp Pháp. Trường được xây trên đồi Tăng Nhơn Phú, quận Thủ Ðức. Năm 1952 Trường sáp nhập với trường Sĩ quan Trừ bị Nam Ðịnh được chuyển từ Bắc vào. Trường Nam Ðịnh đào tạo chỉ một khóa sau đó giải tán.
Năm 1955 khi QLVNCH thành hình thì Trường Sĩ Quan Thủ Ðức lập ra năm ngành (trường) chuyên môn: Thiết giáp, Pháo binh, Công binh, Truyền tin, Quân cụ, Thông vận binh (Quân xa sau này) và Quân chánh. Năm 1961 khi chiến tranh VN ngày càng lan rộng, các trường chuyên môn càng phát triển và trường SQThủ Ðức với nhiệm vụ đào tạo chung nên trường đổi tên là Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức cho đến nền Ðệ Nhất Cộng Hòa thì chấm dứt.
Năm 1963 lấy lại tên tên cũ: Trường Sĩ Quan Trừ bị Thủ Ðức, chỉ đảm trách việc đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị cho toàn thể Lục Quân Việt Nam. Ngoài những khóa trên trường huấn luyện các khóa:

- Khoá hoàn hảo Sĩ quan Ðiạ Phương Quân
- Khoá Bổ túc Quân sự cho SQ Quân Y
- Khóa đào tạo Sĩ Quan Huấn Luyện Viên và huấn luyện quân sự hàng ngàn Sĩ Quan do các: Bộ Tư Lệnh Không Quân, Hải Quân và Cảnh Sát Quốc Gia gửi đến thụ huấn. (Năm 1969 CSQG thành lập Học Viện tại Thủ Ðức cũng trên đồi Tăng Nhơn Phú, Sinh viên sĩ quan được huấn luyện căn bản quân sự tại trung tâm huấn luyện Rạch Dừa Vũng Tàu, sau khi mãn khoá gắn Alpha về Học Viện học chuyên môn, không còn thụ huấn tại trường SQTB Thủ Ðức như những khoá đàn anh).

Học trình của Trường SQTB Thủ Ðức kéo dài 9 tháng. Những khóa đầu điều kiện học vấn cần có bằng trung học, thời gian huấn luyện ngắn hơn. Nhưng sau nầy nhập học (động viên hay tình nguyện) thanh niên từ 18 tuổi phải có bằng Tú Tài I (trước 1974 tại miền Nam trường trung học đệ nhị cấp phải qua 2 kỳ thi Tú Tài I & II). Sau khi ra trường mang cấp Chuẩn úy, sau 18 tháng quân vụ thì thăng Thiếu úy, hai năm sau lên Trung úy. (ngoại trừ những Sĩ quan vi phạm kỷ luật bị ?ký cũ? thì khó lên cấp bậc theo quy định). Mỗi đơn vị Quân Ðội có một Khu Bưu Chính (hộp thơ). viết tắt KBC, với 4 con số ghi sau chỉ danh đơn vị đó. KBC của Trường Bộ Binh là KBC 4.100 trực thuộc Quân Bưu Cục Trung Ương tại Thủ Ðô Sài Gòn.
Sau Tết Mậu Thân 1968, chính phủ ban hành một sắc luật Quân Sự áp dụng vào học đường, cuối tuần học sinh đệ nhị cấp phải học căn bản về quân sự biết xử dụng vũ khí, tập bắn tại các trung tâm huấn luyện. Nên khi họ vào trường SQ trừ bị Thủ Ðức đã có một phần căn bản về quân sự. Các công chức và chuyên viên kỹ thuật các ngành phải được thụ huấn quân sự xong có thể trở về nhiệm sở cũ làm việc, nếu có nhu cầu đòi hỏi của cơ quan ấy. Các giáo chức sau một vài năm trong quân ngũ đa số được trở về trường xưa tiếp tục dạy học. Ngoài những người được biệt phái đa số sĩ quan trừ bị Thủ Ðức phải ở lại Quân đội mặc dù nhiệm kỳ trừ bị 4 năm đã qua, nhưng bị lưu giữ lại vì tình trạng chiến tranh.
Năm 1972 lịnh tổng động viên (sụt một tuổi) sinh viên cũng như học sinh phải lên đường nhập ngũ, có 15 khóa SQTB thụ huấn tại Nha Trang và Thủ Ðức. Kể từ tháng 1-1968 đến tháng 12-1973, trong việc tiếp sức trường SQTB Thủ Ðức, trường Hạ Sĩ quan Ðồng Ðế, Nha Trang đã đào tạo được 12.000 Sĩ quan trừ bị. Khoá 1/68 Khóa 2/68, Khóa 2/69, khóa 1/72, Khóa 6/72, Khoá 9B/72 Khóa 11/72 học tại Nha Trang. Như vậy tổng số Sĩ quan trừ bị được huấn luyện tại Thủ Ðức, Nam Ðịnh, và Nha Trang trên dưới 100,000 người trong đó có những danh tướng xuất thân từ Thủ Ðức chiến đấu tới ngày cuối cùng như: tướng Nguyễn Khoa Nam, Tướng Lê Văn Hưng...tuẫn tiết không đầu hàng, (còn những hèn tướng ra lệnh cho cấp dưới, binh sĩ tử thủ chiến đấu trong khi họ cùng gia đình bỏ chạy từ 27.4.1975).
Thủ Ðức còn đào tạo những khoá Sĩ quan đặc biệt, giành cho Hạ sĩ quan có trình độ trung học và kinh nghiệm tác chiến, là một cơ hội tốt để họ tiến thân trong cuộc đời binh nghiệp như cố Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn.
Tôi thi vào ngành khác không bị động viên vào trường SQTB Thủ Ðức. Nhưng bạn bè, người thân trong gia tộc phần lớn được thụ huấn trong trường SQTB Thủ Ðức, được học đầy đủ kỹ thuật tác chiến, công tác chỉ huy, tham mưu, tình báo, vũ khí, chiến thuật, chiến lược ... Cuộc chiến đôi khi cao độ đẩm máu, nhiều người hy sinh, bạn thân của tôi trở về trong chiếc quan tài bọc kẻm, phủ cờ vàng trong chiều đông gió lạnh! Mẹ già ôm quan tài thương khóc...
Trường SQTB Thủ Ðức đã đào tạo Sĩ quan trẻ tài năng và đạo đức. Những cuộc hành quân Sĩ quan chỉ huy ra lệnh binh sĩ luôn tôn trọng sinh mạng, tài sản của dân, kính trọng người già, yêu trẻ con và luôn đứng đắn với phụ nữ... đối xử nhân đạo với tù. Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín là năm đức tính người chỉ huy phải rèn luyện hàng ngày.

Bởi vậy thời gian huấn nhục 8 tuần là giai đoạn rèn luyện thể lực và tâm lực cho tân Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ). Kiên nhẫn chịu đựng thi hành lệnh không nóng giận, chấp nhận gian khổ nếu bị khóa đàn anh phạt hít đất, nhảy xổm... Những bạn của tôi thời sinh viên sống lè phè, tóc dài nghe nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, nhưng sau thời gian được huấn luyện ra trường trở nên nghiêm trang, nước da đen, tóc ngắn, đi đứng mạnh mẽ, ăn nói đúng tư cách của một cấp chỉ huy. Cuối tuần được đi phép với bộ đồ tiểu lễ kaki màu vàng nhạt, vai đeo dây biểu chương màu vàng, đầu đội cascette, giầy botte de saut, bút nịt sáng chói, có xe GMC chở về gần sở thú, SVSQ đi dạo phố, hẹn với người tình, tận hưởng những ngày đẹp ở thành phố Sài Gòn thân yêu. Ngày ra trường họ sẽ đi khắp các phương trời, đến những đơn vị tác chiến trên núi rừng biên giới, ăn cơm sấy, uống nước hố bom... Làm gì có tô phở hay ly cafe thơm ngon bên người yêu với uớc vọng tương lai! phải chờ 15 ngày phép trong năm mới có thể gặp lại nhau. Cuộc đời của người trai thời loạn phải hy sinh tất cả ra chiến trường để bảo vệ cho miền Nam được tự do, mong ước chiến tranh chấm dứt để trở về mái nhà xưa. Mọi người hy vọng Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở VN (Agre ement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam) nhưng chỉ là một giấc mơ!

Sau khi Hiệp định Paris được ký kết và có giá trị kể từ ngày 27.01.1973, tất cả quân đội Ðồng Minh triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam. Trường SQTB Thủ Ðức dời về tiếp quản căn cứ của Sư Ðoàn Hổ Mang Thái Lan ở Long Thành. Những cơ sở trường ốc cũ được chuyển thành Huấn Khu Thủ Ðức, tập trung các Trường Huấn Luyện của tất cả các ngành lại một chỗ.
Gần một phần tư thế kỷ từ cuối năm 1950 đến giữa năm 1973, trường SQTB Thủ Ðức đào tạo Sĩ quan trừ bị cho Quân Lực VNCH. Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt đào tạo 4.600 Sĩ quan hiện dịch. (Khóa đầu tiên Võ Bị chỉ cần học vấn đến bằng thành chung, nhưng sau nầy phải có bằng Tú Tài 2 và chương trình học 4 năm ra trường cấp Thiếu uý).

Ngoài ra còn có thêm: Ðại học Quân y; Ðại học Chiến tranh chính trị; các trường Không quân; Hải quân? Phần lớn Sĩ quan xuất thân từ Thủ Ðức phục vụ Quân Lực VNCH hùng mạnh. Quân đội VNCH không thua trên mặt trận, nhưng chính phủ VNCH thua trên mặt trận chính trị ở Paris Berlin, Washington... Bạn của tôi từ các mặt trận trở về trên thân thể với những vết thương đã lành, nhưng vết thương lòng không thể nào quên, sau khi Quân Ðồng minh triệt thoái, quân lực VNCH phải trải mỏng lực lượng bảo vệ lãnh thổ, Hoa Kỳ chuyển giao võ khí quân trang, quân dụng, phi cơ... nhưng cắt viện trợ quân sự và kinh tế cho VNCH và gần như bỏ rơi miền Nam VN. Quân đội không được tiếp liệu đầy đủ, thiếu nhiên liệu cho xe hơi, xe tăng, tàu chiến, máy bay phải bỏ trong ụ vì không có phụ tùng thay thế, thiếu hỏa lực súng đại bác (105-155) đạn bị giới hạn bắn nhỏ giọt yểm trợ cho các cuộc hành quân...
Trong khi đó Liên Xô, khối Cộng sản Ðông Âu và Trung Cộng viện trợ tràn ngập quân sự cho Hà Nội. Bộ đội Bắc Việt được trang bị đầy đủ vũ khí, xe tăng tối tân. Bộ đội trẻ phải hy sinh rất cao ?sinh Bắc tử Nam? đánh theo chiến thuật biển người để tiến chiếm miền Nam. Tinh thần Quân Ðội VNCH chiến đấu hăng say tái chiếm An Lộc, cổ thành Quảng Trị, dù bị cúp viện trợ thiếu súng đạn nhiên liệu...
Việt Nam Cộng Hòa phải tự vệ chống lại cuộc xâm lăng của CS cho đến biến cố lịch sử 30.4.1975, tan hàng rả đám, Sĩ quan, Công chức VNCH bị tập trung vào các trại cải tạo, nhiều người đã chết trong các trại tập trung ở núi rừng miền Bắc. Số còn lại may mắn sau nhiều năm trong tù đói khổ, thiếu thốn trăm bề sống sót trở về được đi theo diện H.O (Humanitarian Operation) năm 1999 đến Mỹ nhờ sự giúp đỡ, vận động tích cực của Bà Khúc Minh Thơ. Hay những người đi vượt biển được các quốc gia thuộc thế giới tự do cho định cư. Những người còn trẻ đi học tiếp tốt nghiệp đại học, những người lớn tuổi thì con cái có cơ hội làm nên sự nghiệp vẽ vang nơi xứ người, không bị kỳ thị lý lịch. Nhà cầm quyền CSVN trả thù Sĩ quan, Công chức của VNCH đã đành. Nhưng những cựu chiến binh của họ, họ cũng nhẫn tâm bóc lột, lọc lừạ..nhiều người mang huân chương đầy ngực đi biểu tình, kêu gọi công lý vì bị cướp đất, cướp nhà nhưng tiếng kêu gào oan ức của họ đi vào hư không!

Thời gian qua tài liệu về cuộc chiến tranh VN được giải mã. Lời nói của cố danh tướng của Do Thái (Israel) Moshe Dayan ?Muốn thắng cộng sản, phải để cho cộng sản thắng trước?. Một người bạn trong nước đã nhận xét ?Nhận định nầy của tướng Moshe Dayan đến nay vẫn còn có giá trị tuyệt đối. Nhân dân Việt Nam ngày nay đã nhìn thấy rõ bản chất phi nhân bản của cái gọi là CHXHCNVN kinh dị buôn dân, bán nước. Nói theo ngôn từ của triết gia Arthur Koestler thì chế độ CSVN hiện nay giống như một dòng sông bị nhiễm độc, bao nhiêu thứ rác rến hôi thối từ dưới đáy sông lần lượt trồi lên trên mặt nước, đó là những bộ mặt nham nhở của những tên lãnh đạo đảng CSVN.?
Cố Tổng thống Mỹ Ronald Reagan nói: "Chấm dứt chiến tranh VN, không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ cái giá phải trả, cho loại Hòa bình đó, là ngàn năm tăm tối, cho thế hệ sinh ra tại VN về saụ"
Hồi tưởng lại những tháng năm đẹp, nhiều kỷ niệm ở Thủ Ðức với mưa nắng năm xưa trong quân trường qua đoạn thơ của Tuý Hà :

Tăng Nhơn Phú ta sẽ về thăm lại
Ðốt nén nhang thơm ta Ðất Trời
Ðã cho ta một thời hào sảng
Ðã luyện cho ta thành sắt thành đồng
Nhập cuộc chơi có tên Sinh Tử
Giưã làn ranh nghiệt ngã chiến trường
Ðã cho ta ngẩn cao đầu nhạo nghể
Thủ Ðức làm người không hổ thẹn lương tâm
Tăng Nhơn Phú đồi xưa ta trở lại
Cắm ngọn cờ vàng rực rỡ trời Nam
Ta sẽ về dù nương theo gió
Bởi thân tàn chí lớn vẫn còn nguyên
(Tăng Nhơn Phú Túy Hà)

Thời gian trôi qua gần 39 năm, những người từng tham gia trong cuộc chiến cả hai bên Nam - Bắc đã già yếu, nhiều người đã ra đi về bên kia thế giới vĩnh hằng. Nhắc lại khúc quanh lịch sử không phải để khơi dậy nỗi hận thù mà là nhắc lại nỗi thống khổ, đau buồn của cả dân tộc Việt Nam, để thế hệ mai sau biết được giá trị lịch sử trách nhiệm của mình với dân tộc. Chúng ta cùng đốt nén nhang lòng, tưởng niệm những người đã nằm xuống trong cuộc chiến Việt Nam.

Nguyễn Qúy Ðại

Hát trên đồi Tăng Nhơn Phú http://bit.ly/1bQWZq6
Liên khúc Sài Gòn cảnh cũ người xưa http://bit.ly/17dGGnz
Tài liệu tham khảo Bộ Quân Sử VNCH
Các Ðặc San Thủ Ðức, tài liệu và hình trên Internet
Rất nhiều Sĩ quan cùng binh sĩ VNCH đã tuẫn tiết ngày 30.4.1975, chúng ta vinh danh và không bao giờ quên họ, Hình cố Trung tá Nguyễn Văn Long CSQG được đăng tải rộng rãi:

Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long tuẫn tiết sáng 30-4-75 trước Hạ Viện, dưới chân tượng đài Thủy quân lục chiến. Ông là người luôn tận tụy với công việc, cả đời lấy phương châm chí công vô tư và quan niệm Cảnh Sát là công bộc của dân. Có phải chăng Ông nằm xuống là tạ tội với dân tộc. Ông nằm xuống, "Anh ngã xuống giữa Sàigòn để lại không đủ họ tên, nhưng lịch sử nghìn năm sau vẩn nhớ Trung Tá Long". "Tổ quốc nghiêng mình tiển biệt một người con".


Nguyễn Qúy Ðại


Mục Lục


III . Những Bức Thư Tình_____________________________________________

Thư Tình Tháng Này


DHH




Anh Yêu Dấu

Thế là năm 2014 lại đến, ngày xưa ta mong Tết đến, bây giờ ta mong thời gian trôi chậm lại, nói đúng hơn em không còn muốn đếm tờ lịch trên tường nửa. Bỡi lẽ gì nhỉ ? Phải chăng chúng ta đã sống quá đủ cho một kiếp người chăng ? Em đã nhìn thấy những người thân thương của mình đã bắt đầu rời xa mình anh ạ. Nên buồn hay vui cho sự chia tay? Vui cho một giấc ngủ an lành, buồn vì ta đã mất đi một người thân ?

Buồn vui tìm ở chính ta
Thời gian rồi cũng phôi pha tiễn chào
Còn chăng kỷ niệm ngọt ngào
Tân niên lại đến thương trao ân tình

Cứ mỗi cuối năm, em và nhóm bạn có tên BVT (Bạn và Tôi ) thường họp nhau lại, ăn uống vui chơi, cùng nhau kể những chuyện tếu lâm, những tiếng cười như pháo nổ thật hồn nhiên, sau đó chơi bài sì dách, bài cào dùa, bài tiến lên, chỉ có $1 tượng trưng cho vui, nhưng sự tranh chấp nhau thật sôi nổi, những tiếng hú, tiếng la khi thấy những lá bài xấu, để rồi khi đồng hồ đổ chuông, chúng em cùng nhau hướng về tivi, xem các nơi count down mừng năm mới. Cùng nhau mở champagne, cùng nhau chúc tụng những tốt đẹp, những an lành đến với nhau. Năm nay trong nhóm mất đi một người bạn, mất đi một khuôn mặt khả ái, khá trẻ vì chứng bệnh ung thư, mất đi một tiếng cười, mọi người cùng thắp những ngọn nến, tưởng niệm, thương nhớ về người bạn này. Thôi thì ráng cố gắng cùng trao nhau những nụ cười, chia sẻ nhau những buồn vui khi chúng ta đang có nhau đúng không anh ?

Ta viết cho người
Viết cho ta
Buồn vui yêu dấu tháng ngày qua
Một mai xa cách
Ai còn nhớ
Ðếm kỷ niệm nào, trong xót xa

Xin hãy cầu nguyện và chúc an lành cho nhau, mong rằng thế giới này bớt thù hận, thiên tai, chiến tranh. Ðể mùa xuân lại nở với những cánh hoa mai tươi thắm cho ngày, cho đời. Hãy cho nhau những nụ cười và những tiếng yêu thương anh nhé.

Viết Cho Giao Mùa
Jan 2014
ÐHH


Mục Lục



IV . Hộp Thư Toà Soạn ___________________________________________________



Nguyệt San Giao Muà xin cám ơn những thân hữu đã dóng góp bài vở cho Nguyệt San Giao Muà số 141 . Một số bài khác sẽ được đăng dần vào số tới. Mong mỏi sẽ nhận được những sáng tác của các bạn bốn phương để cho Nguyệt San Giao Muà thêm phần hương sắc trong tương lai.

Mục Lục


Thể lệ để nhận Nguyệt San Giao Muà: 1) Ðể vào danh sách của NSGM (subscribe), xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
2) Ðể rút ra danh sách của NSGM (unsubscribe), xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
3. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com 4. Mọi bài vở, đóng góp, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com Nguyệt San Giao Muà Homepage: http://www.GiaoMua.com Thể lệ gửi bài cho Nguyệt San Giao Muà: Mong bạn gửi Bài cho GM theo cách này là tốt nhất : 1. Dùng mẫu chữ Vietnet (VIQR) hay Unicode 2. Viết Hoa chữ đầu của bài và bút hiệu. Ví dụ: Giọt Mưa Trên Lácủa NS Phạm Duy 3. Gửi bài ngay trong email (không kèm file), để cho BBT khỏi mất công download xuống để đọc 4. Gửi tất cả các bài trong 1 tháng 1 lần trong1 email, nếu tiện. 5. Bài vở xin gửi đến trước ngày 25 mỗi tháng 6. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com Cám ơn bạn rất nhiều, vì nhân sự có hạn, BBT không thể ngồi đánh máy lại từng đề bài hay bút hiệụ

Ðịa Chỉ Liên Lạc:

Nguyệt San Giao Muà
P.O . Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA

Trang Nhà 

Web Counters
Web Site Hit Counter

Copyright 2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors