Số 142

Ngày 1 tháng 2 năm 2014

www.GiaoMua.com

Nguyệt San Giao Mùa
P.O. Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA

GiaoMua@hotmail.com


Thư Ngỏ



Thư Ngỏ

Mùa Đông năm nay ở miền Đông Hoa Kỳ thật dài đằng đẳng với những ngày dưới 0 độ F và tuyết phủ khắp nơi . Những năm tháng ở đây, từ tháng 11 cho đến tháng 3, hơn 4 tháng trời chỉ quanh quẩn trong nhà, ở sở và cuối tuần thì thêm các trung tâm mua sắm.

Ở thủ đô Hoa Kỳ, Hoa thịnh Đốn là nơi quy tụ người Việt đông nhẩt ở miền Đông Hoa Kỳ, một số hội đoàn đang tổ chức hội chợ Tết để nhớ lại hương vị mùa Xuân quê nhà và để nhắc nhở cũng như giới thiệu những truyền thống cũ cho thế hệ trẻ ngày nay. Gia đình tôi vẫn tiếp tục tiễn Ông Táo vào ngày 23 và cúng Giao Thừa vào cuối năm, nhưng không chắc gì thế hệ con cái của tôi trong 10, 20 năm sau có còn nhớ đến những ngày lễ đặc biệt này hay không ?.

Mấy tháng vừa qua, có dịp đọc một số trang web ở Việt nam, một số người trong nước đã và đang đi tìm những gia phả thất lạc hay qua những tài liệu còn giữ được từ các Từ Đường và qua các cụ cao niên, và qua những di tích lịch sử của các giòng họ di cư từ Bắc vào Nam từ những thời kỳ để truy tìm nguồn gốc và thế thứ của họ, trong đó có cả phái họ của tôi ở Huế.
Vào khoảng năm 1300 thì Thuận Hóa ( hiện nay là khu vực Quảng Bình đến Quảng Nam, bao gồm Huế) còn là Châu Ô và Châu Rí của nước Chiêm Thành được dâng cho Đại Việt như là món quà cưới của công chúa Huyền Trân. Và từ đó cho đến cuối đời Trịnh Nguyễn phân tranh (1796), nhiều cuộc di cư mà tổ tiên chúng ta đã lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rủn, vượt qua nhiều gian khổ và rừng thiêng nước độc để đi từ Thanh Hóa, Nghệ An, v.v. khai hoang miền đất mới ở vùng Thuận Hóa và Nam Bộ . Cũng nhờ vào các truy tìm nguồn gốc này, hy vọng có thể một ngày nào đó chúng ta có thể vẽ ra lại những chặng đường tổ tiên chúng ta đã đi qua trong những thời kỳ khác nhau.

Từ năm 1975 với hoàn cảnh lịch sử thay đổi, một số người Việt chúng ta đã phải ra đi lập lại cuộc đời ở một miền đất mới. Vật đổi sao dời, có bao gia đình đã ra đi tìm về miền đất hứa, giã từ Quê hương cũ để xây dựng một quê hương mới ở miền Nam Bộ hay ở các quốc qia khác như ở Úc, Âu Châu, Mỹ Châu.

Và một năm mới lại bắt đầu, thân chúc bạn đọc Giao Mùa một năm mới an khang và thịnh vượng.

Trường Như
Ban Biên Tập Giao Muà

Mục Lục

Bài vở trên Giao Muà là do các tác giả gửi đăng và Giao Muà không chịu trách nhiệm về nội dung. Muốn xin trích đăng lại, xin liên lạc với GiaoMua@hotmail.com.

I . Thơ _______________________________________________________________________

1. Xuân Hy Vọng ______Triều Phong Đặng Đức Bích
2. Kỉ Niệm Ngày Thơ ______Quang Phục
3. Ai Người Tri Kỷ ? ______ Mai Hoài Thu
4. Mưa ______Vânhà
5. Lục Bình Trôi ______ Nguyễn Thị Thanh Dương
6. Chân Dung Người Tình ______ Quỳnh Đỏ
7. Mùa Đông Cuộc Đời ______ Hàn Thiên Lương
8. Qua Ngõ Hoàng Hôn. ______Hoàng Yến
9. Mạch Xuân ______Sông Cửu
10. Cánh Thiệp Mùa Đông ______Jacaranda
11. Lên Non ______ Nguyễn Hải Bình
12. Thơ Kể Chuyện Đã Cũ ______ Chu Thụy Nguyên
13. Tình Đẹp Tựa NHƯ MÂY ______Tình Hoài Hương
14. Cũ , Mới ______ Vành Khuyên
15. Khe Khẽ ______ Trần Thành Mỹ
16. Lục Bát Xuân ______ Tuyền Linh
17. Đã Mấy Xuân Qua ______Nam Thảo
18. Tặng Em Một Đóa Hoa Hồng ______ Song An Châu
19. Lặng Buồn ______ Chung Thủy ­­ ­ ­
20. Xuân Cao Nguyên ______Sông Trà
21. Chùm Thơ Xuân ______ Hồ Chí Bửu
22. Chiều Xuân Không Hoa Nở ______ Trần Đan Hà
23. Mơ Ước Mùa Xuân ______ Mạc Phương Đình
24. Vọng Tưởng ______ Đoàn Minh Hà
25. Mùa Xuân Đuổi Giặc ______ Du Yên

II . Văn _______________________________________________________________________

1.Chuyện Làm Ăn ___________ Nguyễn Thị Thanh Dương
2. Xóm Cụt (truyện dài nhiều kỳ) ___________ Đỗ Thành
3. Hiến Chương Tình Yêu (truyện dài nhiều kỳ) ___________ Tình Hoài Hương
4. Tiếng Việt Của Tôi ___________ Vành Khuyên
5. Căn Nhà Sau Cửa Biển (truyện dài) ___________ Phan Thái Yên
6. Vua Quang Trung - Vị Anh Hùng Dân Tộc ___________ Triều Phong Đặng Đức Bích
7. Năm Ngọ Nói Chuyện Ngựa. ___________ Nguyễn Hoàng Yến
8. Tết Ở Quê Mình ___________ Hai Hùng SG
9. Tùy Bút mùa Xuân : Má Ơi ___________ Môi Tím
10. Ngựa Trong Khoa Học Và Đời Sống ___________ Nguyễn Qúy Đại
11. Cánh Đồng Nghiêng Nắng ___________ Đặng Thị Tú
12. Tết Ở Cao Lãnh ___________ Phan Thái Yên

III . Những Bức Thư Tình...________________________________________________________________

1. Thư Tình Mỗi Tháng _______________________________ DHH

IV. Trả Lời Bạn Đọc__________________________________________________

1. Nhắn Tin/Trả Lời Bạn Đọc _______ Ban Biên Tập

I . Thơ __________________________________________________

1. Xuân Hy Vọng  

 
Tiếng nhạc nao lòng khách viễn phương 
Quê hương xa cách vạn niềm thương 
Xuân về nắng ấm tươi cành trúc 
Hạ đến trăng thanh mát cánh hường 
Nhè nhẹ đồi cao mây quyện khói 
Lăn tăn hồ rộng nước vờn gương 
Xuân lai Xuân khứ Xuân hy vọng 
Đất nước hồi sinh ngập ánh dương

Triều Phong  Đặng Đức Bích

XUÂN  MƠ

Tết nhứt nhà ai cũng rộn ràng
Xuân về chan chứa ánh thiều quang
Lá hoa chen chúc khoe màu thắm
Ong bướm xôn xao lượn sắc vàng
Dân tộc hân hoan mừng Tết đến
Quê hương nhộn nhịp đón Xuân sang
Xuân mơ nước Việt giàu no ấm
Hạnh phúc dân vui sướng ngập tràn

                                                       
Triều Phong Đặng Đức Bích  
Mục Lục


2. Kỉ Niệm Ngày Thơ Ngày thơ chung lớp chung trường chung con đê vắng những chiều trường tan, đến khi khôn lớn nên người cùng chung một lễ tơ hồng nên duyên. Đường đời bao nẻo truân chuyên mười năm chung sống, nay ta xa lìa mặn nồng hương lửa bao năm giờ đây gối chiếc riêng anh u sầu. Em ơi em bạc làm chi ngày xưa tình đẹp ngày nay tình buồn. Uổng công xây đắp bao ngày Nay đà đổ vỡ thiên đường trong anh. Quang Phục Thơ Xuân Cho Vợ Hiền Em về quê để tránh lời đàm tiếu hay tránh anh, một kẻ tội đồ vẫn đam mê chơi bời trác táng khi mộng đời ta đã tròn câu. Em về quê bao giờ trở lại? Chín tháng trời dài lắm em ơi , đừng để anh mãi chong đèn chờ sáng đêm xuân dài, lạnh lẻo , cô đơn. Về đi em, anh giờ đà ngoan ngoãn ăn cơm nhà chờ quà vợ em ơi , chẳng thâu đêm, suốt sáng bạc bài chẳng bóng chày,đá gà, cá cược.... Về đi em anh chẳng còn tái phạm những lỗi lầm đó nữa đâu em, anh đã biết những đồng tiền lao động mới vững bền cho cuộc sống tương lai. Quang Phục
Mục Lục


3. Ai Người Tri Kỷ ? Thơ: Mai Hoài Thu Diễn ngâm: Nghệ sĩ Hoàng Đức Tâm Làm sao dập tắt lửa yêu đương? Âm ỉ nhớ thương, ốm liệt giường, Thiêu đốt lòng đau cào cấu ruột, Hương tình.... dậy sóng... biển trùng dương... Người đã vô tình đến thế ư ? Tim ta se thắt mộng tương tư, Mắt khô ngấn lệ mờ sâu thẳm, Sợ quá ! Chao ôi, tối mịt mù? Ai đã đem Thu thả hững hờ, Giữa hồn ngơ ngẩn cả trời mơ, Tuyết sương, băng giá, sầu che phủ, Một bóng ma thơ dưới nguyệt mờ? Trời hỡi bao giờ trăng vỡ đôi ? Cho ta một nửa vá tim côi, Nửa kia còn lại làm tri kỷ, Đắm đuối si mê chẳng muốn rời? Mây ơi, phiêu bạt bốn phương trời, Nhắn gởi giùm ta chốn nghỉ ngơi, Sông, núi, biển, hồ, mưa, gió, nắng? Rằng ta muốn ngỏ: ?bạn muôn đời??. San Jose, tháng 02/02/2012 Mai Hoài Thu *************** NHỚ HUẾ Thơ : Mai Hoài Thu Diễn ngâm: Nghệ Sĩ Hồng Vân MÙA ĐÔNG NHỚ HUẾ Thơ: Mai Hoài Thu Nhạc & hòa âm: Võ Công Diên Ca sĩ: Vân Khánh http://www.youtube.com/watch?v=dpRvjlMKEuM Mưa phùn mùa đông, nhớ Huế người ơi, Một người xa quê sầu dâng lên môi, Biết ai còn thương, ai còn ngóng đợi, Một người lỡ bước ngậm ngùi nơi đây... Nhớ Huế mùa trăng, mùa trăng Vỹ Dạ, Bên ni xa cách, xa cách đôi bờ, Tìm nơi mô, thùy dương rũ bóng, Tìm nơi mô, dòng Hương Giang lững lờ... Huế, Huế ơi ! Chiều ni mưa lạnh, Lòng thèm nghe hai tiếng: "Mạ ơi!" Ôi ! quê hương nghìn trùng cách biệt, Còn chi mô, bao ngày tháng xa vời... Nhớ Huế xưa, từng con phố nhỏ, Cầu Trường Tiền, áo tím ngẩn ngơ, Chút trầm hương Thiên Mụ bây chừ, Chuông chùa xưa còn vang giữa hồn ni ... Ơi, Huế ơi ! người đi rơi lệ, Cả hồn ni nhớ Huế tái tê, Cả hồn ni mưa mù giăng kín, Huế, Huế ơi ! mòn mỏi ngày về? Mai Hoài Thu San Jose, 01/18/2010 QUẢNG TRỊ ƠI! MIỀN TRUNG NHỚ MÃI Quảng Trị ơi! Bao giờ con về lại? Đêm nằm mơ thấy phố thị Đông Hà, Nơi quê nhà, ngày khói lửa chiến chinh, Cầu Hiền Lương chia đôi bờ Bến Hải? Quảng Trị ơi! Miền Trung nhớ mãi, Quê mạ nghèo, áo nâu cũ sờn vai, Bếp lửa hồng, mùa rơm rạ, sắn khoai, Ngày nắng cháy, đêm gió Lào thổi rát? Lúa trổ đồng, hương vàng thơm bát ngát, Xa ngái rồi, vắng nhịp võng đong đưa? Nhớ những ngày gian khổ gió mưa, Con thiếu áo, ba mạ ngồi run đói... Góc chuối già, rau tàu bay, lục lọi? Đọt sắn nồng, dằn bụng, tạm qua cơn, Nồi cháo bồi: măng, chuối, trộn khoai môn? Thương mệ lắm, chén cơm đầy sắn độn? Quảng Trị ơi! Nhớ ngày con mới lớn, Tám tuổi đầu, biết mót lúa, chăn trâu, Nước lũ về, lòng canh cánh lo âu, Cơn bão nộ, cuồng phong, đất trời lở? Quảng Trị ơi! Hồn con đang nức nở, Biết bao giờ về lại chốn quê xưa? Đêm mỏi mòn, khắc khoải bóng già nua, Rời quê mạ, năm con mười bốn tuổi? Biền biệt quê người, bôn ba giong ruổi, Ôi, nỗi nhớ nào, da diết, khôn nguôi! Lòng cứ nhủ, sẽ về thăm quê mạ, Sống lại những ngày nắng lạ khát khao? Nằm trên đồi nghe khúc hát Nam Giao, Tắm lại dòng sông, mưa rào dịu mát, Ngắm khói lam chiều, mây trôi bàng bạc, Tìm lại những ngày xao xác, lạc nhau? Thả mái chèo, khua sóng nước, giăng câu, Vào thăm Hương Giang, Văn Lâu, ngày cũ, Ghé quán cơm nghèo Âm Phủ, chùa rêu, Xoa dịu nỗi niềm lưu lạc cô liêu... Quảng Trị ơi! Mây trời xa vời vợi, Tuyết quê người che phủ kín tim côi, Làm răng về, ôm lại ánh trăng rơi, Ôi, quê mạ? ngàn đời tim đau nhói? San Jose, 10/20/12 Mai Hoài Thu *********** TRẮNG TRỜI ÁO TANG (Một ngày đẫm máu tại trường tiểu học ở thành phố Newtown, thuộc tiểu bang Connecticut, Hoa Kỳ - 12/14/2012 - Nguyện cầu linh hồn các cháu sẽ bình an nơi không còn súng đạn của kẻ bạo tàn. Ôi, thật kinh hoàng & xót xa quá!) Thơ Mai Hoài Thu Nghệ sĩ Thu Thủy diễn ngâm Nghệ sĩ Hồng Vân diễn ngâm Hồn nghèn nghẹn, tim se thắt lại, Nước mắt nhòa cuồng dại xót đau, Sân trường loang lổ máu đào, Em tôi ngã xuống, ứa trào lệ rơi... Cha tê tái, lòng buồn vời vợi, Mẹ vật vờ, dạ bối rối điên, Trời bày chi cảnh oan khiên, Trẻ thơ vô tội bỗng nhiên lìa trần ! Kẻ khát máu sát nhân nổi loạn, Mặt hung thần quờ quạng tanh hôi, Đông về đón Chúa Ba Ngôi , Trong, ngoài, tuyết đổ, trắng trời áo tang... Cả thế giới hoang mang hốt hoảng, Sóng tràn dâng tử nạn loan tin, Ôm con thương tiếc bất bình, Than ôi, khúc ruột thâm tình còn đâu? Màu áo trắng thay màu máu đỏ, Em hồn nhiên, bé nhỏ ngây ngô, Linh hồn về cõi hư vô, Vùi quên mơ ước bên mồ cỏ xanh... Thế là hết em anh sớm tối, Sinh Nhật Hồng, áo mới Mẹ trao, Còn đâu tiếng gọi xôn xao, Cha ơi, con đói... cồn cào ruột gan! Giáng Sinh đến, đèn giăng lủng lẳng, Tết chưa về, quà tặng ngổn ngang, Tương lai tươi sáng dở dang, Em về nơi ấy lỡ làng tuổi thở Chiều nay gió thổi bơ vơ, Hồn tôi chết lặng, ngẩn ngơ bàng hoàng ?!!! San Jose, tháng 12/14/2012 ***************

Mai Hoài Thu

Mục Lục


4. Mưa Trời mưa gió lạnh ngoài hiên Ta còn chăn ấm, mơ miền cỏ hoa Đêm nằm nhớ dáng ngọc ngà Đếm từng giọt nước vỡ oà trong đêm Trời mưa giọt rớt bên thềm Nghe như tiếng vọng êm êm vào hồn Nghe như ai ghé môi hôn Nồng nàn say đắm, vùi chôn đất trời Giật mình tỉnh giấc chơi vơi Trời mưa gió lạnh, tơi bời ngoài kia. Dec 9- 2013 Vânhà


Mục Lục


5. Lục Bình Trôi ( Cảm tác từ hình ảnh ) Bên này sông có một mình tôi, Chiếc cầu gỗ không một bóng người, Bên kia những mái nhà hiu quạnh, Ngọn gío đi hoang đến cuối trời. Lục bình theo con nước trôi mau, Chiều mây xuống thấp bay ngang đầu, Tôi bơ vơ giữa mây và nước, Hồn tôi như nước trôi qua cầu. Tôi muốn theo lục bình qúa giang, Lục bình và tôi cùng lang thang, Ta đi giữa hai bờ xa lạ, Ta gặp đò dọc hay đò ngang. Tôi biết có những ngày nắng lên, Dòng sông lấp lánh vui bình yên, Dập dềnh những sắc hoa màu tím, Hoa lục bình vừa nở trên sông. Và có những ngày trời đổ mưa , Nước sông dâng ngập cả đôi bờ, Ẩn chìm trong màn mưa trắng xóa, Lục bình lướt trôi như hồn ma. Có mệt mỏi không lục bình ơi? Về đâu cho hết một cuộc đời? Bao giờ hoa lá tàn rơi rụng? Lục bình khô ấy sẽ ngừng trôi? Tôi bước qua cầu sang bên kia, Chốc nữa tôi sẽ quay trở về, Còn lục bình vẫn trôi đi mãi, Giữa chợ đời hãy giữ tình quê. Nguyễn Thị Thanh Dương BIỂN CŨNG CHIA ĐÔI. ( Cảm tác theo: "Biển chia đôi, tại Hàn Quốc" ) Chắc gì có tình yêu suốt đời? Như anh đã hứa hẹn với tôi, Những điều không thể còn có thể, Vì biển cũng có lúc chia đôi. Tôi nghe như một chuyện diệu kỳ, Giữa biển xuất hiện một đường đi, Dù chỉ một vài giờ ngắn ngủi, Nối đảo này liền với đảo kia. Vẫn biết rằng biển sóng mịt mù, Kiếp người mong manh, thật phù du, Sóng vào bờ cuốn trôi tất cả, Vật chất, con người vào thiên thu. Nhưng người ta vẫn lấn biển khơi, Kiếm thêm từng tấc đất nhỏ nhoi, Vẫn chặn lại từng cơn sóng dữ, Tình biển và tình đất không nguôi. Biển rộng muôn đời xanh mênh mông, Có thuyền nào đi hết biển không? Ai dám mơ con đường rẽ biển? Chia làm hai: bến đợi, bến mong. Thì chẳng mơ gì chuyện tình yêu, Như lời anh hứa sẽ dài lâu, Trăm năm tình chỉ là cơn gío, Ai biết gío đi đâu? về đâu? Tình đẹp cũng có thể chia phôi, Như trời mưa, nắng. Chỉ thế thôi, Lòng người thì sâu xa như biển, Mà biển cũng có lúc chia đôi. Nguyễn Thị Thanh Dương


Mục Lục


6. Chân Dung Người Tình Tôi nhận ra, đau đớn hơn khi nghe anh nói anh, bản tình ca nghiệt ngã... ánh mặt trời đỏ rực thiêu đốt tấm thân gầy, vùi trong tuyết trắng tâm hồn giá như móng tay của loài thú hoang cào xé tấm lụa tình mong manh máu trong người chảy dần dật tôi tan trong im lặng anh đã khép những đêm trăng vườn hoang phủ sương lạnh buông mình trong nức nở côn trùng cất tiếng thở dài hố sâu chờ đợi oằn từng đêm xác hoa vùi trong nước mắt giấc ngủ trăm năm nắm trong tay hờ...! Quỳnh Đỏ 25-10-2013 NỖI ĐỢI Chiều nay trước biển, một mình tôi Gặm nhấm tâm can, nhớ rã rời Hình ảnh thân thương, hoài xa quá Bao giờ em sẽ, trọn trong tôi ??? Tôi vẫn thương hoài đôi mắt em Mênh mông, man mác, lấp sau rèm Nụ cười em đẹp như hoa nắng E ấp bao tình, tôi nhớ thêm Em ơi, sóng biển xóa thời gian Đợi em, đêm tối thẳm ngút ngàn Bao điều xót xa và mộng mị Cay đắng, ngọt bùi, vẫn chứa chan... Quỳnh Đỏ 29-7-2013 VỌNG VĨ CẦM ĐÊM Tâm trí em nhận ra. và xoáy sâu vào tiếng vĩ cầm réo rắt, giữa những ồn ã xung quanh đôi tay em. cố với lấy từng âm thanh vọng qua ngàn dặm nhớ từ gác xưa tới nơi em hiện tiền... anh thì thầm qua ngon gió - tiếng vĩ cầm hay quá, phải không em? Anh lang thang qua sườn dốc hoang sơ hai bên đường toàn hoa, cỏ dại sương đêm đẫm vai mang tiếng vĩ cầm réo rắt. vọng đêm qua... 3-1-2014 Quỳnh Đỏ


Mục Lục


7. Mùa Đông Cuộc Đời Chiều tháng chạp gió lạnh luồn qua tóc Bước dần đi còn xa lắm ngõ về Đường khuất núi hay rừng che mất lối Biết bao giờ thấy lại dấu chân quê? Đêm chưa xuống, quanh đây sao quạnh vắng Lòng thật mềm, tư lự, mãi bâng khuâng Ngày tháng trôi thêm dài niềm thương nhớ Chuyện tương phùng mờ ảo xa xăm! Bên đó em có còn xanh màu tóc Chốn tương tư mây tựa tóc em bồng Vườn sau nhà còn xanh hay lá úa Chiếc thuyền xưa có cập lại bến sông? Cuộc hưng phế làm đau hồn ly biệt Thương đời nhau rưng lệ buổi phân kỳ Đêm khó ngủ chập chờn trong cõi mộng Trách đời sao bày chuyện khổ sinh ly! Chim bướm chiều mùa đông xa biền biết Hoa lá tàn rơi, sương trắng mịt mờ Cớ làm sao mà mình không luyến tiếc Cảnh xuân thu thật mộng một màu thơ! Cuối cuộc đời mùa đông ta rất nhớ Buổi xuân thì tay nắm lấy bàn tay Nghe chim ca bướm vờn hoa rực nở Rượu hương tình chưa uống đã say say! Cõi vô thường ngày vui mau phút chốc Tuổi cuối mùa còn lại cảnh đông phong Ôi mỹ nhân đâu còn gương mặt ngọc Đấng nam nhi thôi hết chuyện anh hùng! 25-11-13

Hàn Thiên Lương
Mục Lục


8. Qua Ngõ Hoàng Hôn. Tuyết bay bay ngoài sân vắng, Sầu Đông phủ kín tâm hồn, Lạnh lùng một thân xứ lạ, Nhớ ngày qua ngõ hoàng hôn. *** Bàn tay em xinh, dáng nhỏ, Trong bàn tay anh bao dung, Gần, xa, nhớ thương , thương nhớ, Mười năm lòng lạnh khôn cùng. *** Miền Đông nhớ về Tây Bắc, Đêm nầy thức suốt rồi đây, Gió sao gió buồn hiu hắt, Tuyết vô tình vẫn cứ bay. *** Ước sao mùa Xuân nắng ấm, Hương Xuân ngây ngất lòng say, Gió Xuân mang niềm vui mới, Trời Xuân rực vàng sắc mai. *** Ngõ hoàng hôn thôi xa vắng, Gió vờn tà áo ai bay, Mùa Xuân nhớ thương ngõ cũ. Xuân đoàn viên ấm lòng này. Hoàng Yến
Mục Lục


9. Mạch Xuân Ngọn gió chướng trở mình Tình quê mòn năm tháng Chảy tràn dòng nhớ thương Én lượn từng trời cao Mùa Xuân xôn xao gọi Nỗi nhớ nào chưa quên Búp mai vàng xinh xinh Nghiêng nghiêng nhìn mây thẳm Úp mặt chờ bình minh Lung linh màn sương thưa Pháo giao thừa bừng sắc Mạch xuân cắt nỗi buồn! ? Ngẫu hứng đêm giao thừa Sông Cửu Gió Hú Chân Cầu Vi vu gió hú chân cầu xôn xao sóng nước vỗ đau mạn bờ nhắp nhô bia mộ chơ vơ người về trầm mặc lời thơ yên hùng Long lanh giọt nắng thủy chung rung chùm hoa hạnh mông lung mảnh vườn Nghe con chim hót cuối đường mà thương cánh Én dậm trường? gọi Xuân. Sông Cửu

Mục Lục


10. Cánh Thiệp Mùa Đông Đưa tay đón, cánh thiệp mùa hư ảo Dòng tâm tình, như chiếc áo đêm đông Khoác lên vai, ấm thêm lòng tri kỷ Ý chân thành ... ai biết lại hư không ... Ngày vẫn thế, cứ theo ngày mà đến Đêm vẫn đêm, bên ngọn nến thơ tràn ... Phủ cuộc đời, bằng những thoáng mơ hoang Suối đã cạn, sao Mắt còn mưa lũ ? Phượng đã chết, theo những mùa hạ cũ Thu khóc gì ? mà Lá phủ miên man Đông vì đâu, mà Tuyết lại bàng hoàng ? Đem lấp kín, cho khắp vùng ... tang trắng ... Mùa lạnh giá, sầu đông như giọt đắng Cánh thiệp người, như tia Nắng lung linh Khép bàn tay, ép sát lòng ngực mình Mà nghe gió, nhắn dòng tin ... người chúc ...
Jacaranda





Mục Lục


11. Lên Non Lên non một túi hành trang Hoang du lần bước theo tràng hạt nâu Hồng trần một cõi bể dâu Làm sao xếp lại nhịp cầu sông Ngân Chỉ là Một Thoáng Phù Vân Thương yêu xếp lại có ngần ấy thôi Một đời nước chẩy mây trôi Nương theo thiền nguyện lên đồi tĩnh tâm Áo tràng đã khoác lên thân Lối vào nhập định phai dần chuyện xưa Đường về một cõi hư vô Thân tâm an lạc xa mờ bến Mê Nov 6, 2013

Nguyễn Hải Bình
Mục Lục


12. Thơ Kể Chuyện Đã Cũ Vây vẩy hồn bướm xanh từng đôi mắt láy đen ngủ gật trong bức họa trợn tròn hương cổ tích. Họ khập khễnh trên đường cố vượt thoát quá khứ chính mình Những người làm thơ và bối cảnh xanh tím mãn mùa. Chắc gì cái bóng quá khứ rụng đã trăm năm và chẳng biết ai vừa dựng lại một đấu trường hãy còn quá mới. Những cái khiên và các thanh gươm tanh tưởi máu treo lơ lửng trơ xương xẩu thời gian. May ra còn thấp thoáng bóng các thiên thần lủi thủi buồn nương theo tâm bão lời bài thơ truyền tụng tự ngày qua Bài thơ khai quật từ hốc đá Ôi ! các màu mắt hoa cương và câu chuyện kể lúc các vần thơ rủ mình rười rượi bóng oan khiên ? Chu Thụy Nguyên DẤU BUỒN Nơi đã định liệu sẵn để trở về Nơi ta từng khoác lên vai tiếng thét làm hành lý. Ai đã tặng cho ta những tháng ngày rướm máu ? Những đoàn tàu vẫn qua đi rầm rập chẳng màng nơi nào là ga cuối. Còn những lạch khe nào may ra còn được quét qua chút ánh sáng hy vọng ? Tôi bất giác quay lại để thấy mình luôn cố cắp theo lịch sử chính mình. Dẫu có bị rẻ rúng như lịch sử hòn đá cuội như những cú đá thốc khiến lăn long lóc dưới chân người Thật hờ cơ thật tình cờ như giấc mơ lặng lờ ?

Chu Thụy Nguyên
Mục Lục


13. Tình Đẹp Tựa NHƯ MÂY Trèo lên trái núi Thiên Thai. Gặp hai con phượng ăn xoài trên cây Đôi ta được gặp nhau đây Khác gì chim phượng gặp cây ngô đồng! (ca dao) * Một buổi kia non cao trở giấc Lá thu về gieo cung bậc đường thơ Hồng NHƯ MÂY dìu dập thuở trăng mờ Bao tháng nhớ đợi chờ hương thơ rực rỡ Dây nhện tơ giăng vàng lưới nhớ Khách thi nhân chín đỏ vần thương Sương mây vì hoa lá ngát trầm hương Bầy én lượn ngóng đường về dạ khúc. Thơ phổ nhạc ươm hương thề hạnh phúc Tình đăng quang bao câu chúc tuôn trào. Thiên Thai* Lưu Nguyễn* năm nào Mừng ta kỳ ngộ tuổi cao bát tuần Bến mơ gác kiếm phong vân. * - Thiên Thai*= Tên cuả ngọn núi rất cao ở Huyện Thiên Thai, Tỉnh Chiết Giang, bên Trung Quốc. - Triệu Nguyễn Lưu Thần*= Vào đời Hán, có hai bạch diện thư sinh ở dưới quê khăn gói lò mò đi lên núi Thiên Thai xa xôi, để hái lá thuốc. Họ đã gặp hai nàng tiên, và trong lòng rộn rã mừng rỡ. Họ đã yêu và được yêu cùng kết duyên vợ chồng. Câu ca dao cũng ví như chim phượng bay hoài mỏi cánh, đã gặp cây ngô đồng liền sà xuống đậu. Tình Hoài Hương
Mục Lục


14. Cũ , Mới Nổi buồn cũ vẫn đâu đây. Nổi buồn mới lại làm đầy trong tôi . Nổi buồn cũ vẫn chưa vơi . Nổi buồn mới một mình tôi đối đầu. Nổi buồn nào sâu thật sâu. Nổi buồn nào sẽ còn lâu mới tàn. Tôi đi giữa những miên man. Nổi buồn cũ, mới xếp hàng bên tôi. Ngày tháng cứ nối nhau trôi. Giữa đời tôi khóc bỏ rơi phận mình. Vành Khuyên

Mục Lục


15. Khe Khẽ Khe khẽ mà nghe họ nỉ non, Than thầm than thở việc lớn con. Phen nầy quyết bán toàn khăn giấy, Xoa sạch dưới trên chẳng vết mòn. Khe khẽ nhìn xem họ khóc vang, Chào đời lúc chết cũng rình rang. Phen nầy lọ chứa châu sa hiếm, Cần quảng cáo chi vẫn đắt hàng. Khe khẽ mà xem họ choảng nhau, Bất chấp thấp cao cả trước sau. Phen nầy quyết bán riêng loại sách, ?Việt Võ mồm khoả chốc sụ giàu. Khe khẽ mà nghe họ rù rì, Bất cần sai đúng chẳng nề chi. Phen nầy buôn tráo chìa khóa mật, Khối kẻ mặt hoa xám xịt chì. Khe khẽ xem qua kẻ cười khan, Hì hà hỉ hả mặc ai than. Phen nầy độc quyền thời trang mới, Loại khẩu trang Hề đẹp hết can. Khe khẽ mà xem việc đổi dời, Tình người đen đỏ giống trò chơi. Phen nầy quyết học nghề phù thủy, Lắm kẻ tin theo ngỡ phép Trời. Khe khẽ mà nghe họ cầu xin, Tai qua nạn khỏi hết lòng tin. Bệnh tật tiêu trừ tâm quyết chí, Lời hứa bay đi lọ giữ gìn. Biết thế thôi thì chán nản chi, Cuộc đời là thế bởi ..tại vì. Bao giờ ai biết cho cùng tận, Chấm phá đời qua một tiếng... khì. Trần Thành Mỹ Mục Lục


16. Lục Bát Xuân 1. Thắp nhang nghênh đón giao thừa Nghe như năm cũ buồn chưa hết buồn Nhìn lên ngọn nến chập chờn Ngổn ngang tâm sự xói mòn nội tâm Khói nhang như khúc hành vân Nhìn làn hương tỏảmệnh phần về đâu ? Thương nhau đã lỡ thương rồi Chút duyên nghịch cảnh dạ sầu trăm năm Đời người được mấy mùa Xuân Tình ta có được mấy lần gặp nhau ? Dẫu không là mối duyên đầu Nghĩa tình cũng đã khắc sâu dạ rồi Thương cho vệt nắng hôn hoàng Sưởi hoài không ấm nỗi buồn biển khơi Ngày mai ngày mốt xa rồi Mùa Xuân rồi cũng chia đôi đất trời Chừ đây trong phút giao thừa Chúc nhau một tiếng chia hai nỗi sầu Chết theo âm tiết Xuân cười Biết còn khâu vá đời nhau tuổi chiều ! Lỡ mai nghịch cảnh chia lìa Bên ni động huyệt, bên kia khóc thầm 2. Xuân về từ tối hôm qua Sáng nay thức dậy thấy hoa nở nhiều Sao lòng buồn thỉu buồn thiu Tìm đâu ngọn gió dệt thêu tơ hồng Dã tràng dù biết hoài công Vẫn xây lầu cát bằng lòng thủy chung Thấy tình qua bóng trăng suông Trăng treo đầu núi, lòng buồn chân non Biết ai chung một hướng lòng Mà thương, mà nhớ, mà mong, mà chờ Gục đầu trên những trang thơ Tiếng thơ sóng vỗ mãi bờ biển xa Tuổi đà bóng xế chiều tà Tình yêu thì lại lúc xa lúc gần Ngẩn lên nhìn áng phù vân Mây đan tuyết chắn dễ chừng gặp nhau ! Bao giờ nối được nhịp cầu Cho sông gần núi, cho trầu gần cau Em ơi, không đánh mà đau Xuân nào để có một ngày thật vui ? ? ? 3. Tết về cố nở nụ cười Cũng không cười nổi với người với ta Mồng một rồi đến mồng hai Mồng ba, mồng bốn, lại là mồng năm Câu thơ cũng chẳng yên nằm Vướng chi cành liễu cho tằm nhả tơ Ôi thương?ôi nhớ?ôi chờ? Ôi em khuất nẻo xa mờ khói sương Nhìn con bướm trắng sân vườn Nhởn nhơ mà ước, mà mơ tương phùng Lâu rồi lệ vẫn cứ tuôn Bao giờ tôi mới hết buồn phận tôi ? Nhìn hoa mà những ngậm ngùi Mà tơ tưởng mãi nụ cười trầm hương Đêm xuân mơ thấy ai cười Ước chi ai gởi lòng thương nhớ về Giật mình ! Mình tỉnh hay mê ? Mà sao khóe mắt tràn trề giọt châu Hồn còn mãi tận giang đầu Mà Xuân đã tới, mà sầu đã dâng Tuyền Linh
Mục Lục


17. Đã Mấy Xuân Qua Xuân đến chiều nay tuyết phủ nhiều Đường chiều lặng lẽ bước đìu hiu Nhặt ánh hoàng hôn trời lữ thứ Sưởi hồn băng lạnh giữa cô liêu Chiều xuống mờ sương trắng cỏi hoang Bâng khuâng mây khói cũng mơ màng Hắt hiu kỷ niệm buồn theo gió Bóng lẽ xuân về dạ ngỗn ngang Xuân đến xuân đi đã mấy lần? Mấy lần xuân tuyết phủ đầy sân! Xuân như lá chết vàng thu rụng Rơi xuống tuyền đài giấc ảo chân Xuân về hờ hửng áng mây trôi Biển nhớ xa xưa dậm cuối đồi Hiên trăng gánh nặng tình quê cũ Mắt lệ nhòa ôi mấy độ rồi! Phố chiều phơn phớt giọt xuân rơi Phiên khúc mừng xuân bổng nghẹn lời Thuyền xa bến cũ còn lơ lững Mái mõi sông dài chưa nghĩ ngơi Đã mấy xuân qua đếm đợi chờ! Bên trời xuân lạnh lặng thờ ơ Tỉnh mê gối mộng đời tan vở Biết có xuân sang cảnh bất ngờ? Nam Thảo
Mục Lục


18. Tặng Em Một Đóa Hoa Hồng Nhân ngày Lễ Hội Valentinẻs Day, Feb. 14/2014 Nhân ngày lễ hội Tình Nồng Tặng em một đóa hoa hồng xinh tươi Suốt năm rộn rã tiếng cười Mặt hoa duyên dáng người người yêu thương Môi em xinh tựa hoa hường Tóc mây óng mượt như dường sông Ngân Mắt em ánh mắt thiên thần Ngàn sao vụt tắc khi gần bên em Lời em tiếng hát muôn chim Nghe như tình khúc dịu êm trong chiều Chân son bước nhẹ yêu kiều Ngàn hoa hồng thắm em yêủchúc mừng! Song An Châu Mẹ ơi! Xuân Này Con Chưa Về? Thêm một mùa xuân nữa Con chưa về thăm mẹ Đất khách buồn, ngồi vọng tưởng cố hương Nhang khói lạnh chiều 30 Tết Vì chiều nay con cũng phải lên đường Lo sinh kế cho chuỗi ngày buồn tẻ. Con không quên những ngày xuân đất mẹ Cây mai vàng nở rộ trước sân nhà Cha khéo cắt từng cành, từng nhánh đẹp Chưng vào bình để cúng lạy ông bà Me lăng xăng chạy lo nồi bánh tét Để kịp giờ cùng làm lễ với cha. Chiều 30 Tết, cháu con tề tựu Vang tiếng cười, sau lễ rước ông bà Hình ảnh đó, ngày nay con không có Chỉ mơ về đất mẹ bể bờ xa Ngồi vọng tưởng, rồi buồn nơi xứ lạ Đón xuân về, chỉ có một mình con Nhớ quá đi thôi, những tiếng cười giòn Của con cháu xum xoe màu áo mới Đã mất đi, ba mươi chín năm rồi Con buồn - Buồn quá! Mẹ Việt Nam ơi! GA, Chiều Xuân viễn xứ Giáp Ngọ- 2014 Song An Châu
Mục Lục


19. Lặng Buồn Chiều bãng lãng lá vàng rơi lã tã Trời tím buồn tia nắng cũng mờ phai Chút hơi ấm cuối ngày như tan biến Hoàng hôn sầu theo ngọn gió heo may Ta nghe lạnh từ cõi lòng trống vắng Nghe nghẹn ngào tê buốt tận trong tim Đem nhung nhớ trãi dài từng ca khúc Mượn lời thơ xoa dịu nỗi niềm riêng Thương cánh én một mình dang cánh mõi Không làm sao níu giữ được mùa xuân Thương bến cũ dãi dầu cơn mưa bão Nhìn con thuyền hờ hững cách xa dần Ta còn lại đoạn tình vừa tan vỡ Bởi nửa chừng đàn vội đứt dây tơ Trơ mắt ngó chim trời bay xa mãi Và mòn hơi với ngày tháng đợi chờ Chung Thủy Thản Nhiên Ta mãi miết không mơ hồ suy tưởng Mộng ước ảo huyền hoa bướm nắng mưa Tháng ngày qua ta một mình héo hắt Quạnh hiu sầu theo nỗi nhớ xa xưa Cõi lòng ta như bóng đen đêm tối Như khói lam tan biến giữa mây ngàn Bởi có lúc tưởng tâm hồn vụn nát Tiễn tình yêu quyện sương gió lang thang Sóng nhấp nhô đưa con thuyền rời bến Một lần đi là vĩnh viễn chia rời Ta lặng lẽ nhìn theo triều nước chảy Mắt rưng rưng những giọt đắng rơi rơi Nên còn lại khoảng thời gian sau cuối Sẽ bình yên với nửa đoạn thơ buồn Trút cạn hết chuỗi muộn phiền dai dẳng Thản nhiên chờ từng sợi nắng chiều buông Chung Thủy Niềm Riêng Một lời thương gởi cho anh Với bao nhiêu nỗi niềm riêng nghẹn ngào Với ngần ấy chuỗi bể dâu Viết nên những đoạn thơ sâu lắng buồn Anh như ngọn gió tha phương Lang thang phiêu bạt vấn vương mây trời Ta như cánh nhạn lẻ loi Giữa cơn giông bão lạc loài kêu đêm Một lời thương thật ngọt mềm Nhẹ len theo mạch máu tim cạn dần Nghe lòng khắc khoải bâng khuâng Thiết tha từng sợi nhớ nhung muộn màng Ngậm ngùi thương vệt nắng vàng Lung linh bóng xế buổi hoàng hôn buông Chiều rơi nhạt ánh tà dương Giọt sầu mặn đắng tím hồn giá băng Tình xưa đọng lại vết hằn Tìm trong dĩ vãng mấy lần xót đau Một lời thương trót gởi trao Đã như sương gió bay vào hư vô Chung Thủy ­­
Mục Lục


20. Xuân Cao Nguyên Vạn vật giao mùa nắng ấm Đất trời thay áo vào Xuân Đong đưa cánh hoa mũm mĩm Cao nguyên khoe ngực căng tròn Cao nguyên ngày Xuân hội ngộ Tôi hôn chiếc lá xanh mê Em tôi ?sân gả ngóng đợi Người đi thề hẹn quay về Bao la không gian thanh lọc Líu lo tiếng hót quanh tôi Lặng im, đôi chim quấn quít Vàng mơ nắng nhuộm lưng đồi Sông Trà Mộng Ngủ mê vỗ cánh lên trời Giật mình ta vẫn làm người thế gian Đứng trên bờ giếng cuối làng Gầm gừ chú chó sủa vang giữa hè (1) Sông Trà (1): Bóng in trên mặt nước, chú chó nghĩ là địch thủ của mình. Nụ Hôn Gió hôn, biển vẫn mênh mông Mây hôn, núi để bềnh bồng mây trôi Trần gian từ độ hai người Hôn nhau mắt nhắm hóa đôi bướm vàng Sông Trà Tôi Và Anh (1) Anh thì, từng ngụm trà xanh Tôi thì, câu chuyện để dành sáng nay Anh thêm một chút khôi hài Tôi thêm một chút đắng cay cuộc đời Hai người quê ở hai nơi Tôi dân Quảng Ngãi, anh người Quảng Nam Phiêu linh tôi kiếp cơ hàn Bôn ba anh thuở đồng hoang bom cày Ngày về, anh được một hai Tôi đi biền biệt chưa ngày cố hương Sáng nay, quán cốc bên đường Tách cà phê nóng, tha phương hai người Sông Trà (1) Anh Đặng Đình Kì Bán Thơ Bốn mươi năm một gánh thơ Bán hoài không hết mỏi bờ vai thôi Thơ tôi, bán rẻ như vôi Một đồng, một chục xin mời khách mua ?Mua gì, tớ cũng đều mua Riêng thơ, thì chẳng còn thừa tiền đâu!? Vì đời còn mắc nợ dâu Thì còn một gã ví dầu bán thơ Sông Trà
Mục Lục


21. Chùm Thơ Xuân ĐỘC ẨM CHIỀU CUỐI NĂM (1) Ta dụ ta, chiều nay ngồi uống rượu Vì ngày qua đã xỉn tới mây xanh Ta hư đốn chiều nay còn uống rượu Bởi vì ngồi mông đít đã tê xanh. Em có biết mấy đại gia làm toán Cộng tới cộng lui lòi một villa Ta dốt nát nên không thèm làm toán Cứ yêu đời và yêu hết người ta Em thấy không? Chiều cuối năm độc ẩm Cũng quẩn quanh một gác nhỏ quạnh hiu Cũng nhớ em, cũng thèm vòng tay ấm Cũng lẻ loi và buồn hết buổi chiều Nếu giả sử tình yêu là ly rượu Tay cầm ly ? chưa uống đã say rồi Bởi tình yêu thì đâu cần giá thú Vừa chạm vào đã cay xé bờ môi Và cứ thế, trượt dài theo số phận Ta bảo thầm lần cuối nữa rồi thôi Vì bất tài hay vì lưng quá cứng Nên con đường hoạn lộ ngắm mà chơi Chiều cuối năm, ừ thì sắp qua năm mới Tống cựu nghênh tân say hoắc cần câu Thiên hạ hả hê chờ giờ đại lợi Ta chỉ nhớ em, uống rượu quên sầu Chiều cuối năm và sắp qua năm mới Tự dỗ mình còn dài lắm cuộc chơi Tự dặn mình thôi đừng đùa với lửa Một chút thôi ? rượu lạt cũng quên đời.. ĐỘC ẨM CHIỀU CUỐI NĂM?(2) Có phải ta là tên nát rượu ? Sao trong thơ rượu cứ chảy tưng bừng ! Sáu mươi tuổi dường như chưa đủ Của một thời thương nhớ người dưng. Chiều cuối năm ta ngồi độc ẩm Cười một mình, nghe thiên hạ chúc nhau : Đại hỉ long môn ? thăng quan tiến chức Năm mới bước qua ? phát lộc làm giàu ?Đày tớ nhân dân? mà xe hơi, biệt thự Còn ?ông chủ? thì bán vé số nuôi thân Ta gẫm lại trò đời- cuộc chơi vừa đủ Để tự ta an ủi kiếp dân đần Ta chạm nhẹ vào tay cho rượu chảy Chẳng lẽ nào ta có máu du côn ? Nghe thiên hạ chúc nhau mà rõ dải Chẳng lẽ ta vẫn còn máu cô hồn ? Người ta ngày một thêm đông Thạch Sanh thì ít Lý Thông thì nhiều ! BÁI BIỆT 2013 Thơ của ta nhiều sắc màu lóng lánh Mà sao em vú ép một thiên tài? Thơ của ta có chiều cao chiều rộng Cớ sao em lại bảo : chẳng giống ai ! Hahaha - huhuhu- ta cười rồi khóc Chiều cuối năm thúi ruột một thiên tài Bởi trọn năm làm thơ cho em đọc Mà có cục đường em chẳng cắn làm hai..? Chiều cuối năm sao ta sầu chi vậy ? Vài ngày đây thêm một tuổi trên đầu Đêm cuối năm có người làm thơ quậy, Quậy đời mình sao nhiều quá bể dâu ! Ới ông táo, ông thần tài, ông địa, Lên chầu trời nói Nam tào Bắc đẩu tha con Con lỡ dại, cửa hạo nhiên. Con bịa, Tặng cho con một bà góa còn son ! Thời nầy, tìm Lục Vân Tiên hoài. Không thấy, Cứ ra đường là hằng hà sa số Trịnh Hâm Còn Lý Thông, ngoài chợ trời đầy rẫy Bởi Thạch Sanh bắt chằng lửa chôn lầm ! Chán như rứa, nên ta buồn một chút Làm đơn hoài mà Hội Chắc Ăn chẳng cho vô Tại thơ ta như nước mắm chấm dùi đục Tức cười chi ? Ta làm thơ tặng cho bồ.. XUẤT CHIÊU ĐẦU NĂM ! Giao thừa, ta đón xuân ngoài phố Phố ngủ chưa mà phố đã lên đèn Đi chân đất- đầu đội trời. Sương đổ Ướt vai mềm hay nước mắt nhớ em ? Nghe thắm lạnh, một chút còn năm cũ Nghe bâng khuâng một chút của xuân về Áo vắt vai- rớt công hầu khanh tướng Chân quàng xiêng tuột hết những đam mê ? Chẳng lẽ ta, Điền Bá Quang gác kiếm, Cứ lên chùa để mê một ni cô Chẳng lẽ ta cứ xưa hoài như diễm Chẳng lẽ ta vẫn còn máu giang hồ ? Nợ trót vay thì thôi đành phải trả Chút sông hồ sót lại cũng thành thơ Cứ chơi tới và không sao cả, Bởi cuộc đời vẫn đẹp như giấc mở PHỐ NHỎ MÙA XUÂN Rất lặng lẽ - một mùa đông sắp hết Gió giao mùa làm cái lạnh se môi Cũng lặng lẽ - một mùa xuân sắp đến Đến hay đi vẫn nhịp chảy dòng đời Ta xuống phố, nhìn tóc dài, tóc ngắn Có gì đâu ? Khi nhìn chậm một người Như giọt rơi đầu ngày ? cà phê đắng Bỗng thấy mình trở lại tuổi đôi mươi Đốt điếu thuốc cho cay xè đôi mắt Áo hoa vàng khi nắng rớt trên vai Thời tuổi nhỏ ta lao vào đuổi bắt Một cái gì không có ở tương lai Cô hàng nhỏ - ly cà phê uống vội Em thấy gì trong nắng mới mùa xuân Ngơ ngác làm chi ? cho ta thêm tội Tóc thề chi ? Ta lạc giữa muôn trùng Khe khẽ nhé, mùa xuân về rất chậm Bên góc đời ta ngồi nhặt hoa rơi Cứ nhầm tưởng tim mình như tĩnh vật Nào hay đâu vẫn rung động tuyệt vời.! XUÂN THÌ THẦM Tóc đang ngắn, nhưng sẽ dài trở lại Mái tóc thề xưa, ta đã nâng niu Em vẫn thế- với nét buồn hoang dại Đã làm ta ngơ ngẩn biết bao chiều Phố mùa xuân, đang ngập ngừng đếm bước Khi e qua hoa lá cũng thẹn thùng Ta cũng thế - ngập ngừng ?ai biết được Nói điều gì?nhưng tim đập run run Phố mùa xuân- rất nhiều tà áo lạ Nhưng chỉ áo em đẹp nhất trên đường Nhiều má hồng ? nhưng má em hồng quá Má em hồng hay tại nắng vương vương Ta làm thơ nên cả đời mơ mộng Những mộng mơ đem chứa cả ga đời L òng khinh bạc ? nhưng vẫn hoài hy vọng Nắng bên trời ? và nắng sẽ vàng thôi? Hồ Chí Bửu
Mục Lục


22. Chiều Xuân Không Hoa Nở Xuân về không hoa nở Chim cũng buồn không bay Bướm quên vườn xưa lỡ Nên vẫn đậu lạc loài Xuân nầy đã bao xuân Tuổi ngây thơ qua dần Nhìn quê hương ngăn cách Lòng chợt buồn rưng rưng Mưa về đậu bên song Nắng vàng chưa hé nụ Đêm dài bao đợi mong Ngày trở về quê cũ Nỗi nhớ như mưa lũ Cuốn trôi kỷ niệm xưa Dấu tích rêu phong phủ Thấy nhạt nhòa ước mơ Chút tình cũng xanh xao Trôi theo ngày tháng lụn Sầu chất ngất lên cao Trong hồn ta vỡ vụn Ôi đời sao lận đận Tìm chẳng có chút vui Nhớ ngày xưa đầm ấm Mà lòng thấy ngậm ngùi Chiều xuân không hoa nỡ Như cõi lòng tha hương Chỉ còn đây chút nhớ Và tấm lòng yêu thương Gởi về đâu tâm sự Đang đeo đẳng tháng ngày Cho những người xa xứ Khỏi nặng lòng đêm nay ?! Nẻo Xuân Cửa Đóng Then Cài Từ tôi lưu lạc phương nầy Đếm từng nổi nhớ nghe cay đắng hồn Nhờ đời nhiều nẻo gian truân Nẻo tôi hiu quạnh, nẻo anh tội tù Nẻo tình chừ đã hoang vu Nẻo về cố quận mịt mù tuyết bay Nẻo xuân cửa đóng then cài ! Trần Đan Hà
Mục Lục


23. Mơ Ước Mùa Xuân bên bếp lửa, nồi bánh chưng còn đó mùa xuân nào như những bóng mây xa mấy mươi năm đời trôi qua mấy ngỏ vẫn không nguôi nỗi nhớ một quê nhà đêm lầm lũi giật mình trong giấc ngủ tưởng quê hương về đợi dưới hàng cây sao cứ mãi vương chi bao chuyện cũ chút bình yên giấu kín một phương này có phải Mẹ hay Cha trên nét khói chiều tất niên thắp lại cọng nhang buồn dường như thoảng đôi lời Cha Mẹ hỏi có còn không ngày trở lại quê hương ? nén đau đớn khóc thầm đời viễn xứ nợ áo cơm ngưng đọng chút tình xuân đâu mơ ước đời qua cơn mông dữ bốn mươi năm đã đủ một xa gần Mạc Phương Đình
Mục Lục


24. Vọng Tưởng Mai sau trúc có tìm mai . Tìm hương trong tóc , tìm vai hạc gầy . Tìm tay đan ấm bàn tay . Mưa rơi sợi vắn , trắng tà áo bay . Mai sau gió có tìm mây . Hỏi cây đỉnh núi , hỏi chim vạc rừng . Hỏi sao nước mằt rưng rưng . Bóng xưa hình củ , tháng ngày tà dương . Mai sau hợp phố hồi hương . Dấu quên, lối lạ, phố phường buồn tênh . Vu vơ nổi nhớ không quên. Bạc phơ mái tóc, mênh mang nổi sầu . Đoàn Minh Hà
Mục Lục


25. Mùa Xuân Đuổi Giặc Tới nước Mỹ như một lần chạy trốn Quá khứ buồn, những họng súng trại giam Như cánh chim bầy lạc tan đàn Bỗng ngơ ngác giữa vùng trời xa lạ Từng bước chân, đếm nỗi sầu nghiệt ngã Người lính già, thân hổ lúc sa cơ Trong trái tim còn in đậm bóng cờ Nhuộm giòng máu từ bao đời lịch sử Mãi chẳng lành từ vết thương quá khứ Cuộc sống lao tù vắt cạn mồ hôi Tai vẳng nghe tiếng trống trận Ngọc Hồi Giữa mùa xuân Quang Trung đuổi giặc Xác quân thanh phơi thây trên đất Bắc Đống Đa, Ngọc Hồi trống trận rền vang Giặc xâm lăng tan tác lúc xuân sang Trang quốc sử muôn đời còn ghi đậm Giờ giặc Bắc đang từng ngày xâm lấn Mảnh dư đồ loang lổ vết trầm luân Chính quyền mù coi mạng sống muôn dân Như trâu ngựa, lưng còng thân thái thú Bắc bộ phủ? như một bầy dã thú Cắn xé muôn dân, vơ vét chẳng ngừng Hồ chí minh cho đến phạm văn đồng Dũng triết mạnh đất biển đem triều cống Nhớ thuở xưa, người anh hùng diệt tống Trang sử xanh ngăn giặc: Lý, Lê, Trần Đất Thăng Long xác giặc chất đầy sông Bản hùng ca sáng ngời trang giữ nước Đất cha ông dựng xây ngàn năm trước Đang lâm nguy vào tay giặc hán triều Rời quê hương hồn trĩu nặng trăm điều Riêng nỗi nhớ ờ nơi này xa cách? Vùng gió xoáy ? vào đông 2010 NGẮM CÁNH HOA XUÂN LẠI NHỚ NGƯỜI DuYên Cây red bud vườn sau hoa lại nở Những ngày xưa Em nói giống tim hồng Để hồn anh giờ mang đầy nỗi nhớ Nhớ từng ngày, suốt cả mùa đông! Cơn gió giật lao xao đùa cỏ úa Những hạt mưa còn đọng long lanh Đây cảnh cũ người xưa không về nữa! Đóa hoa xuân ủ rũ trên cành Nghe thời gian trôi cõi hồn buốt lạnh Còn tìm đâu tóc xõa với môi cười Nỗi đau riêng như hòa với đất trời Để một đời chờ đến ngày rã mục Nỗi đau riêng sao nói bằng bút mực Nhớ thương thành vết sẹo trong hồn Chẳng nhạt phai như giọt nắng hoàng hôn Khi mặt trời mờ dần giờ hấp hối! Em đã lạc vào bên kia thế giới Còn lại đây cành red bud xác xơ Anh gục đầu như một kẻ khù khờ Vì niềm vui Em mang theo trọn vẹn Thuở dấu yêu cùng bao nhiêu hò hẹn Đến bây giờ chỉ còn bước đi hoang Đóa hoa xuân trong nắng cũng ngỡ ngàng Nên dường như đã phai dần sắc thắm! Vùng gió xoáy ? Ngày lập xuân 12 KHÚC LƯU VONG DuYên Đã quên hết rồi sao? Ngày rời quê hương xót xa cùng tủi hận Trên con thuyền mong manh Biển mênh mông Biêng biếc một màu xanh Lăn tăn sóng gợn Bỗng đâu cơn sóng dâng cuồn cuộn Mây đen phủ kín tận chân trời Chiếc thuyền con bập bềnh trên sóng vỗ Ngút ngàn biển khơi Đâu là bến đổ Tiếng thét gào Hoảng loạn Con thuyền chồi lên hụp xuống Như chiếc lá giữa giòng Nước tràn vào theo từng con sóng Giòng nước như lưỡi đao Ngọt lịm Cắt nát tâm can Sấm rền vang Chát chúa Tiếng cầu Kinh Quán Thế Âm cứu độ Cầu Đức Chúa Trời Cầu Mẹ Maria Đám sinh linh khốn khổ Bỏ lại quê hương trốn chạy hung tàn Đã bao mạng người đáy biển chết oan Lòng đại dương mênh mông Rừng hoang vu thăm thẳm Có những người thoát nạn Giờ này đã vội quên Trở về góp thêm nỗi đau Nuôi mộng làm giàu Quên hết rồi, tủi nhục hờn căm Áo gầm về làng!? Về gây thêm đau thương cho quê Mẹ Mẹ Việt Nam! Sống trong nỗi cơ hàn Đổ mồ hôi kiếm ăn từng bữa. Mua vui trên thân xác Những mảnh đời cơ cực Tuổi đáng cháu con? Quên cả giang sơn giòng giống Tiên Rồng Đang hồi nghiêng ngửa! Thảm họa Hán triều Một ngàn năm Bắc thuộc Hãy tỉnh lại đi thôi Cùng chung vai cứu nước Để không hổ thẹn với tổ tiên Trả non sông toàn vẹn ba miền Sóng nước Cửu Long vang câu hò Lục Tỉnh Giòng Hương giang Lại dìu dặt điệu Nam Ai Bến Hồng Hà nô nức gái trai Tình tự bên nhau trong mùa vui Quan Họ Quê hương Việt Nam còn đó Đau đớn bởi những đứa con đánh mất cội nguồn Hèn hạ cúi luồn Nhận chút bả vinh hoa Quên cả ông cha Cắt đất biển nước non nhà Quỳ dâng bầy xâm lược Muôn ngàn năm xú danh trong sử Việt Tổ Quốc lâm nguy, thất phu hữu trách?? Hãy nắm tay đoàn kết cứu non sông Tạo sức mạnh cuồng phong Diệt tan bầy xâm lược Muôn dân Nam cùng hưởng phước Trả quê hương về một thuở thanh bình. Việt Nam tôi đâu?! Xin hãy trả lời Cho Việt Khang Những người tuổi trẻ hôm nay Huỳnh Thục Vy Nguyễn Phượng Uyên Minh Hạnh Và Nguyễn Hoàng Vi Trả lại quyền làm người cho các bậc nữ lưu Lê Thị Công Nhân Bùi Minh Hằng Phan Thị Thanh Nghiêm Và cho Tạ Phong Tần Những người con yêu tổ quốc Hãy cùng vùng lên cứu nước Hỡi bạn bè giờ ở khắp năm châu? Vùng gió xoáy ? Lưu vong khúc DuYên
Mục Lục


II . Văn___________________________________________________________

1. Chuyện Làm Ăn


Nguyễn Thị Thanh Dương


Kể từ ngày bị mất việc, chị Bông vừa ăn tiền thất nghiệp vừa chạy đôn đáo đi tìm cách kinh doanh.

Sau bao nhiêu năm làm hãng xưởng, chị chán chê những công việc này rồi. Hãng chị làm lâu dài, chăm chỉ, đi đúng giờ về đúng giấc, chị luôn tự hào tưởng hãng ?qúy hóa? chị lắm, vì đã qua mấy lượt sa thải công nhân đều không có tên chị.Vậy mà chị bỗng bị gọi lên văn phòng ông manager, với gương mặt ra vẻ trầm ngâm thông cảm như đang phân ưu tại một tang gia, ông manager của hãng đã thông báo tin ?lay off? chị .

Ngồi không ở nhà chị sốt ruột và lo cuống lên, dù anh Bông đã khuyên chị:

- Nhân dịp thất nghiệp này em cứ hưởng quyền lợi và nghỉ nhà một thời gian cho khỏe. Tha hồ ngủ cho chán chê mê mỏi, rồi ngắm bình minh lên và hoàng hôn xuống.

Chị thở dài:

- Ngày nào em cũng thức khuya ?đón giao thừa? và thức dậy ngắm bình minh từ 10 giờ sáng trở đi, gần đến giờ ăn lunch của người ta, chán rồi. Ngày tất bật đi làm thì mong ước được ngủ thả giàn như thế, nhưng bây giờ em lòng dạ nào mà ngồi chơi ngắm cảnh cơ chứ?Thời buổi kinh tế này xin được một việc trong hãng thích hợp với mình là một điều khó khăn. Thời hoàng kim của công ăn việc làm dưới thời của tổng thống Bill Clinton qua rồi . Em muốn lợi dụng lúc rảnh rỗi này tìm một việc nào đó để kinh doanh, mình làm chủ mình cho khỏe, không ai ?lay off? được mình cả. Bây giờ em ?thù?, em ghét cái từ ?Lay Off? này lắm.

Anh Bông vội vàng ngăn cản:

- Đừng, đừng?kinh tế khó khăn cho mọi nghề, từ hãng xưởng đến kinh doanh. Người ta thất nghiệp nhảy ra kinh doanh như nấm dại mọc sau cơn mưa, thiếu gì người sống dở chết dở em ơỉ

Chị cương quyết:

- Con người ta có số cả, em sẽ thử thời vận. Biết đâu trong cái rủi lại có cái may và số em phất lên ngon lành? Business mà phát tài em cho anh ?nghỉ hưu sớm luôn, ở nhà vừa phụ em vừa hưởng nhàn.

- Thôi, em cứ lo thân em trước đi, để anh yên chí đi làm, ít ra cũng có bảo hiểm sức khoẻ cho anh và em cho chắc ăn.

- Xời ! nhát như anh cứ đi làm thuê cho người ta thì cả đời không bao giờ khá được cả.

Thế là chị bắt đầu đi hỏi han bạn bè và lùng sục đọc báo nơi các mục rao vặt. Những tiệm sang lại nhiều nhất là tiệm nail. Chị không ở trong nghề nhưng chẳng lạ gì làm chủ một tiệm nail, nhìn bề ngoài người ta cứ đánh gía chung là ?dân? nail giàu, kiếm tiền dễ dàng, tiền típ tha hồ đi nhà hàng hay đi chợ v..v..Thật ra có thành công huy hoàng cũng có thất bại điêu tàn luôn.

Vì chị đã thấy cháu chị làm chủ tiệm nail rồi, hai vợ chồng cùng ?xanh xao hao mòn? suốt 2 năm liền trước khi sang được tiệm, tống khứ được của nợ đời.

Tiệm mới mở đang ?build? khách, hai vợ chồng nó thuê mướn thợ ăn chia nhưng chẳng ai chịu ở lâu dài để chờ khách tìm đến, cứ làm một thời gian thấy ít khách, lợi tức thấp là thợ nghỉ việc đi tìm nơi khác. Nếu chủ thuê bao thợ thì tiền đâu cho xuể? Vì ?build? khách phải thời gian lâu dài nếu được tín nhiệm. Thợ thuê bao ngồi chờ khách mà chủ sốt cả ruột gan, dù không có nhiều việc làm, cuối tuần vẫn phải trả lương bao cho họ.

Hai vợ chồng chủ đành cùng nai lưng làm cật lực, vì tiệm của mình nên mình phải lo toan, lúc thì cả hai vợ chồng cùng ngồi không, nhìn nhau, cùng đau, lúc thì khách vào liên tiếp mấy người, nên họ chẳng có 3 đầu 6 tay làm cùng một lúc, khách không chịu đợi bỏ đi tiệm khác. Thế là cái vòng luẩn quẩn thợ thuê bao đợi khách không có nên phải cho nghỉ việc, và khách vào nhiều không đủ thợ nên khách đi.

Bởi thế hầu như khách chẳng bao giờ build lên được. Tiệm nail của cháu chị ế ẩm, lai rai, thoi thóp?

Những nhà hàng cũng thế, chủ cần sang gấp vì ?hoàn cảnh gia đình, hay muốn về hưu sớm v..v.. cứ làm như nhà hàng đang làm ăn phát đạt nhưng vì lý do chính đáng nên chủ đành lòng phải sang lại mà thôi.

Ở đời đang miếng ăn ngon, hái ra tiền chẳng mấy khi người ta nhả ra mà rao bán, nếu qủa thật họ vì lý do nào đó không thể hành nghề nữa, thì nhà hàng đang đông khách ấy cũng được ưu tiên sang lại cho người thân gần xa hay bạn bè rồi, khỏi mất công rao ê hề trên báo.

Làm chủ nhà hàng thì ngay tại thành phố chị ở, có tiệm phở cứ hết qua tay chủ nhân này đến chủ nhân khác, lại quảng cáo rầm rộ, lại đổi bảng hiệu thay tên, tưng bừng khai trương và đóng cửa lúc nào không ai hay biết.

Nhà hàng ế ẩm, thức ăn cũ vừa đổ đi vừa xử dụng lại thì làm sao mà ngon mà lời cho được?? không đóng cửa sớm thì có ngày bán cả nhà ở mà bù lỗ vào.

Chị Bông đọc tới tiệm may sửa quần áo cần sang lại, chị lưu ý ngay, nghề này nhẹ vốn, không lệ thuộc vào ai vì chính bản thân chị cũng biết may vá nên chị sẽ là thợ chính đỡ lo cái khoản thuê mướn người như các nghề khác. Nếu tiệm đông khách, chị có thể ngồi chăm chỉ làm tới chiều tới tối để giao cho khách đúng hẹn, không như nghề nail phải có người làm cho khách ngay tại chỗ. Nếu tiệm ế khách thì những kim, chỉ, vải vóc kia vẫn còn y nguyên đó, chẳng hề bị hư hỏng, thiu chảy mất phẩm chất như những món ăn trong nhà hàng.

Chị thấy nghề này chắc ăn qúa và quyết định chọn nó.

Các tiệm đăng báo thì địa điểm không thích hợp hoặc vì nhiều lý do khác chị không ưng ý, nên cuối cùng chị đã chọn địa điểm trong khu phố gần nhà để build tiệm mới.

Chị sắm bàn máy may, máy vắt sổ, bàn ủi và các bàn ghế khác cùng quầy tủ kính để bày trong tiệm. Thế là chị đã có một cửa tiệm khang trang trong tay.

Thời buổi kinh tế khó khăn mật ít ruồi nhiều, tiệm sửa quần áo của chị chưa kiếm ra một đồng huê lợi nào người ta đã nhanh nhậy ngoài sức tưởng tượng của chị Bông, chị chưa kịp nghĩ đến việc quảng cáo thì người ta đã tự động đến chào mời, nào các tờ báo địa phương, các đài radio, nàoYellow page của phone book?

Chị nhận lời ngay để quảng bá cho cửa tiệm mới mở của mình.

Nhưng chưa hết, có một bà điệu nghệ hơn, mang một cái áo đến sửa làm quen, xong bà giới thiệu bà là người Do Thái, ở khu vực này cộng đồng Do Thái đông lắm, và bà ?mời chị quảng cáo trên Yellow page của người Do Thái do bà đảm trách. Nể khách đến sửa quần áo, chị Bông lại nhận lời .

Thế là chỉ phần quảng cáo đã tốn kém khá bộn rồi, nhưng chị hi vọng ?bánh ít đi bánh quy về? cửa tiệm của chị sẽ được nhiều người biết đến.

Tưởng đã yên thân, thì một hôm có anh chàng Mỹ trắng trẻ tuổi, dáng cao ráo sạch sẽ bước vào tiệm, chị tưởng khách sang vào may hay sửa đồ nên hớn hở chào đón:

- Anh ngồi xuống ghế đi, nào anh cần gì?? Tôi có thể may và sửa tất cả các loại quần áo.

Thì anh ta cũng?hớn hở mời chào lại:

- Tôi chuyên đi lau thuê cửa kính các tiệm và nhà hàng với gía rẻ. Tôi sẽ chăm lo cho mặt tiền cửa tiệm chị luôn bóng bẩy sáng sủả

Chị thở dài và nhìn anh chàng trẻ tuổi này, đáng lẽ anh phải ở trong trường đại học hơn là lang thang đi làm thuê những việc không tên vớ vẩn như thế này. Chị động lòng thương cảm và nhận lời vì muốn giúp anh Mỹ trẻ chứ cửa kiếng tiệm chị dù có mờ, có dơ chị cũng tự lau chùi được.

Quảng cáo tiệm chị đã đi khắp mọi nơi, từ cộng đồng bản xứ nói tiếng Anh, cộng đồng Do Thái tại địa phương và cũng không thể quên cộng đồng người Việt Nam của mình. Chị yên chí sớm muộn gì cửa hàng chị cũng đông khách.

Thế mà những tháng đầu tiên cửa tiệm chỉ lèo tèo mỗi ngày có vài người khách, dù chị làm khéo tay và chiều chuộng khách hàng. Sửa cái cúc quần, sợi chỉ có sẵn hơi khác màu một chút, mắt thường khó nhận ra, nhưng chị cũng sai anh Bông chạy ra chợ mua cho bằng được cuộn chỉ giống màu thật chính xác, anh Bông vất vả vì chị, mỗi chiều đi làm về anh lại ra tiệm xem có phụ giúp được gì cho vợ không? Hôm thì anh chạy đi mua cuộn chỉ, hôm thì mua cái zipper..v..v?

Mỗi tháng thu nhập của chị không đủ chi trả cho tiền thuê chỗ, tiền điện thoại, tiền nước, tiền điện?mà những thứ này gía dùng cho business đắt hơn gía người tiêu thụ nhà ở rất nhiều.

Chị Bông lo lắng qúa, mỗi ngày mở mắt ra là chị phóng ngay đến cửa tiệm, chỉ sợ muộn phút nào lỡ mất khách phút ấy. Những ngày nghỉ lễ, ngày cuối tuần chị cũng lê bước ra tiệm ngồi ?uống mấy lít nước và đọc ?một đống báo chờ khách, đọc báo chán chị mở computer lên net đọc tin tức và đọc mail bạn bè chat chit cho vui.

Thỉnh thoảng cho đỡ cuồng chân vì ngồi mãi một chỗ, chị chạy sang cửa hàng bán bảo hiểm của người Việt Nam bên cạnh, thấy bà bán bảo hiểm cũng đang bận rộn?.nói chuyện phone tán gẫu với bạn bè đường dài nào đó, nên chị lại quay về tiệm mình, một hình một bóng đơn côi.

Chị Bông suy nghĩ mãi, một cửa tiệm chị đã đầu tư cả tinh thần lẫn vật chất kỹ càng như thế này mà vẫn ế?chị đổ thừa mấy quảng cáo không hay ho, không hiệu qủa.

Chị sẽ tung ra màn quảng cáỏđợt hai, công phu hơn, tốn kém hơn. Làm business ở Mỹ quảng cáo là cần thiết không thể bỏ qua được.

Quảng cáo trên báo tờ, người ta đọc xong rồi bỏ, chị sẽ quảng cáo trên tạp chí đàng hoàng, một cuốn báo dù sao cũng dễ cầm, dễ giữ gìn hơn. Còn quảng cáo trên đài radio đúng là lời nói gío bay, người nghe đài nếu cần, có khi chưa kịp lấy bút giấy ghi nhớ số điện thoại hay địa chỉ của tiệm thì đã xong rồi, ai thì giờ đâu mà đợi nghe vòng trở lại lần nữa?, trừ khi mấy ông bà gìa về hưu lẩm cẩm không biết làm gì ngoài nghe đài, nghe đủ thứ tin cho hết thì giờ, cho đời đỡ buồn..

Chị nhờ anh Bông in một đống giấy flyer quảng cáo tiệm sửa quần áo này và mang ra các bãi đậu xe đông đúc, cài lên mỗi kính xe.

Thế là ngày nghỉ làm, anh Bông ôm một đống giấy , qua mấy bãi đậu xe và đi cài từng tờ flyer một lên xe người ta. Có lần anh đang làm nhiệm vụ này, thì một xe đậu vào cạnh chỗ anh, chủ xe lạnh lùng lên tiếng:

- Yêu cầu anh đừng cài giấy này vào xe của tôi.

Anh Bông ngượng ngùng, thấy tủi thân qúa, biết đâu những chủ nhân của những chiếc xe đã bất đắc dĩ nhận tờ giấy quảng cáo của anh, chốc nữa họ ra xe sẽ mắng thầm và xé bỏ tờ giấy xuống đường không thương tiếc? chuyện làm ăn sao lắm gian nan và cay đắng.

Chị còn thuê cả bảng quảng cáo to lớn, loại có bánh xe đẩy, anh Bông lại loay hoay xếp những mẫu tự của họ có sẵn thành câu quảng cáo như ý muốn của mình gắn lên bảng, rồi mới đẩy bảng quảng cáo ra một góc đường có đông người qua lại. Tưởng chỉ tốn tiền thuê bảng này thì ?ông? city lù lù xuất hiện đòi đóng tiền thuế chỗ cho city nữa.

Toàn là chuyện tốn tiền?!!!!

Cái bàn ủi chị dùng thuộc loại dùng cho thương mại, không phải dùng cá nhân như ở nhà, cũng làm chị tốn tiền, cần có chất cát đặc biệt để trong một bình nước to treo lên cao, có filter để lọc nước, giữ cho nước luôn trong vắt, qua một ống dẫn nối vào bàn ủi để khi ủi quần áo không làm hoen màu ra quần áo khách. Lúc nào cũng phải có sẵn cát lọc nước để chờ ủi lên quần áo, thỉnh thoảng chị Bông lại kêu lên với chồng:

- Anh ơi, cát vàng rồi, đi mua cát về thay đi.

Những nhà sản xuất luôn nghĩ ra cách móc túi khách hàng một cách hợp pháp và hợp lý. Họ sẵn sàng bán rẻ như cho không món hàng, nhưng món phụ thuộc của món hàng sẽ thật đắt, như cái máy in dùng cho computer rất rẻ, nhưng mực in thì không rẻ chút nào. Cái bàn ủi này cũng thế, cát để lọc nước không rẻ chút nào, dù ủi nhiều hay ít, hay không ủi tí nào thì cứ ngâm trong nước tới một lúc nào đó cát sẽ vàng đi và phải thay cát mới.

Tiền móc ra dường như vô tận, còn tiền thu vào thì giới hạn !!

Cửa tiệm sửa quần áo của chị vẫn ế ẩm. Thế mà thiên hạ thiếu gì người làm giàu bằng nghề này.

Ngày chuẩn bị mở tiệm chị hào hứng yêu đời bao nhiêu thì bây giờ chị chán nản bấy nhiêu. Chị không thể kéo dài tình trạng làm ăn lỗ lã như thế này nữa.

Một ngày chị đã đăng báo sang lại cửa tiệm, dĩ nhiên với gía rẻ hơn gía vốn chị đã xuất ra.

Thỉnh thoảng chị tiếp những cú phone gọi đến hỏi han, rồi phone đi phone lại, người kia tự động biến mất.

Có một người nghiêm chỉnh quan tâm nhất, làm chị mừng thầm, nhưng bà đòi đến tiệm 2 tuần để theo dõi tình hình của business trước khi quyết định sang tiệm, chị đành chấp nhận, và không ngớt tô vẽ một tương lai phồn thịnh của tiệm.

Sáng ra chị vừa mở cửa bà ta đã có mặt theo vào, và lù lù ở trong tiệm như ma ám, ghi ghi chép chép mỗi khi hiếm hoi có người khách bước vào tiệm sửa đồ. Cho đến chiều chị đóng cửa cả hai cùng ra về.

Ngày cuối cùng bà ta nói :

- Để tôi về bàn lại với chồng con rồi trả lời chị sau nhé.

Và bà ta biến mất, chị Bông thử gọi phone mấy lần nhưng bà ta không hề nhấc máy. Người Việt Nam mình cũng lạ, khi cần thì gọi phone hỏi dồn dập, không cần thì làm ngơ. Chuyện gì cũng có đầu có đuôi, thà rằng bà thẳng thắn trả lời ?Không? một tiếng cho đúng phép lịch sự, có ai trách móc hay thù ghét gì bà đâu. Thuận thì mua không thì thôi.

Thế là chị Bông lỗ tiền lo phục vụ ăn uống cho bà ta suốt 2 tuần lễ và uổng công phí sức nghĩ ra mọi đề tài để chuyện trò với bà ta cho vui và lấy cảm tình.

Hiện giờ chị Bông vẫn đang ôm cửa tiệm, ráng cầm cự thêm một thời gian nữa, chỉ mong kiếm đủ tiền trả rent và điện nước, còn sức lao động của vợ chồng chị coi như làm miễn phí?

Chị ngồi trong cửa hàng ế mà ?oán hờn chủ hãng cũ đã lay off chị, làm chị phải điêu đứng như thế này.

Chị nhớ đến lời khuyên của anh Bông mà ân hận qúa, gía cứ nghe lời anh nằm khểnh ở nhà ăn ngủ cho chán chê rồi đi tìm việc ở hãng khác, mỗi ngày đi làm 8 tiếng khỏe thân, không phải bỏ vốn, tính tóan hay lo lắng gì cả.

Mỗi ngày ngồi trong tiệm sửa quần áo, chị Bông lại mở tờ báo ra xem mục tìm việc làm tại các hãng xưởng, chị không thèm liếc qua cái mục rao bán hay sang nhượng các business nữa, vẫn đang đầy rẫy trên báo và biết đâu vẫn đang có bao người như chị vừa qua đã đọc và hí hửng tính chuyện làm ăn lâu dài?

Đọc báo chán, chị nhìn ra ngoài khung cửa, thấy mây trời lơ lửng hay thấy cánh chim bay, chị đều tủi thân tưởng như mình đang bị cầm tù trong cửa tiệm này, chưa dứt ra được để như áng mây ấy, như cánh chim kia thảnh thơi bay đi giữa cuộc đời

Nguyễn Thị Thanh Dương


Mục Lục


2. Xóm Cụt (truyện dài nhiều kỳ)

Đỗ Thành




Phần 35 Đưa chân gia đình tôi ra tàu lửa về Saigon vỏn vẹn chỉ có mình anh bạn ân nhân là người hàng xóm sửa xe, nhưng tôi thấy ấm áp vô cùng. Ở với nhau khá lâu, đối đầu với bao nhọc nhằn khốn khổ, cưu mang nhau thực tế bằng đổi đắp qua ngày, tôi mới thấu đáo về cái gọi là tương thân tương ái. Tôi nghĩ rằng nếu không có cơ duyên gặp được người tri bỉ tri kỷ là anh, chắc tôi đã không thể sống sót sau 20 năm kẹt lại đất nước.

Những vui buồn, tâm sự chúng tôi chia xẻ với nhau nói lên rành rọt nghĩa huynh đệ chi binh, không nỡ bỏ rơi, đánh đuối nhau những ngày mất mát. Cho dù chúng tôi không cùng một binh chủng, không từ chung một quân trường đào tạo ra, nhưng điều đó có hề gì khi mà nghệ thuật quân sự đều từ chung một màu cờ, sắc áo. Cho dù bất kể là đâu: Hòa Cầm, Sông Mao, Đồng Đế, Quang Trung, Nha Trang, Thủ Đức, Dalat, hay từ các trung tâm huấn luyện sư đoàn, Đồng Bà Thìn, Dục Mỹ, hay gì gì đi nữa thì người lính đều mang chung trên vai những chữ Tổ Quốc ? Danh Dự - Trách Nhiệm.

Những chữ ấy vỏn vẹn chỉ là những từ song nó là một sợi dây cột chặt lại những tấm lòng quả cảm, đói no, nguy hiểm, chết chóc, thương tích có nhau và cùng chia chung một lằn ranh mỏng dính giữa sự còn, sự mất. Trong chiến tranh cùng chịu chung hỏa lực và những đợt xung phong, bứt đồn của đối phương, khi hòa bình cùng ê chề nhận lãnh những vết chém xả nhục nhằn, bi thảm, những người lính bảo nhau cắn chặt răng mà nhận.

Bởi vậy cái tình mới lồng lộng ngất trời. Bởi vậy người tù nhân thất thế nào cũng đều được căn dặn khi nhận trao mảnh giấy phóng thích với lời hù dọa : về địa phương phải thực hiện lời đã hứa với chúng tôi. Lời hứa đó là gì: hãy báo lại tất cả những gì bạn bè ngày trước đến kể hay than van, dản dị chỉ có bấy nhiêu.

Thân tình hơn thì được nhắn nhe : chúng tôi biết các anh về dù sao thì thuộc cấp vẫn còn nể nang, đùm bọc. Hy vọng các anh hãy giúp chúng tôi để họ hiểu chân lý những điều anh học hỏi ở đây. Bởi vì chắc chắn chúng tôi có nói bao nhiêu cũng không bằng một lời các anh san sẻ với nhau lúc quây quần trò chuyện.

Đưa xong mấy đứa nhỏ, chuyển hết mấy cái bọc lên toa rồi mà anh bạn vẫn giùng giằng chưa chịu về. Tôi dăm lần bảy lượt giục anh chia tay, nhưng cái nắm bắt thâm sâu đã được trao nhau ít là vài bận mà anh vẫn náu nương nán lại. Tôi quả thật cảm động sụt sùi, chả lẽ lại rớm lệ với nhau nên xin anh xa để tôi đừng thổn thức. Anh vẫn giả ngây giả dại vâng vâng.

Tàu síp lê lần một, người trưởng tàu đi suốt dọc đoàn toa goong, phút chia ly lại gần thêm một chút. Lại nói nói cười cười, cố vỗ về nhau quên giờ biệt ly sắp đến. Tàu síp lê lần hai lại những câu gượng gạo thốt ra, trao đổi với nhau. Anh nói mà tôi hình dung như miệng anh méo xệch : chỉ ngày kia là ông thầy lên đường. Em rất tiếc không tiễn ông thầy tại phi trường, dù rất muốn.

Tôi nghe ướt át làm sao, hình như chợt cơn mưa hắt vào toa rào rạt. Anh quay qua đùa với mấy nhỏ : các cháu sang đó có còn nhớ đến mảnh đất biển này chăng. Bọn nhỏ nhao nhao : nhớ chớ, nhớ chớ và chắc là không quên được chú. Tôi thấy anh bạn lặng đi, bàn tay chợt thừa thãi, khựng mấy giây rồi òa ập xoa lên đầu từng đứa. Tôi lại giục : về đi, tàu sắp chạy rồi.

Lừng khừng, lừng khừng, người giục cứ giục, anh vẫn đủng đỉnh trụ lại trên toa. Chiều xuống sâu, sân ga đã lên đèn, con tàu nhanh mỗi chiều từ biển về Saigon chạy lúc 6 giờ, vừa vặn khi cái oi chớm bị hạ gục. Tàu síp lê lần ba, tiếng còi giục khách tiến đưa rời tàu. Anh bạn ân nhân chào lần cuối, xoa tóc lũ nhỏ và dợm thoát ra cửa. Anh vứt lại cho tôi một chiếc phong bì với lời dặn : gởi ông thấy chút quà đi đường. Tôi cầm nghe nằng nặng tay, gọi với theo, nhưng thoắt cái bóng anh đã biến mất sau dãy ghế.

Tôi vọt chạy ra theo, con tàu đã chuyển bánh, tốc độ rùng rùng. Mắt tôi nhòe đi, biết là mình đang khóc. Tôi đưa cái phong bì cho vợ, cô mở ra xem, một cái nhẫn và một rẻo giấy nhỏ : thầy cô cầm theo phòng hờ, lỡ có kẹt chờ tại đâu trong khi làm thủ tục đến chỗ mới, thầy cô dễ xoay sở. Chúc thầy cô và các em thượng lộ bình an.

Tôi thấy vai vợ tôi rung rung, tàu đang lướt ke ga rùng rùng khi bánh sắt nghiến lên các mối nối. Toa tàu lắc lư, tôi nhoài người ra, kịp thấy anh bạn ân nhân vẫn còn đưa tay vẫy. Bất đồ tôi có nhìn lầm chăng, dáo dác nơi cửa ga hai vợ chồng ông thương binh hưu cũng vừa đến và ngẩn ngơ vẫy.

Tôi thấy lòng trĩu buồn. Tàu qua cái ba ri e, lố nhố những người đi làm về, đèo bó rau sau boọt ba ga đang nhìn tàu qua lơ đãng. Thành phố biển vẫn miệt mài nín nhịn, con đường tàu đơn độc chạy về xa. Tượng Phật của ngôi chùa tỉnh vẫn nghiêm trang ngồi trên đỉnh dốc nhìn thế sự. Tôi thực sự biết đã bỏ mất quê hương kể từ phút giây này.

Tàu nhanh dần, tiếng còi toe toe như đập gãy tấm lòng tha hương thành từng mảnh vụn. Tàu băng qua những thủa ruộng, tàu rùng rùng lay động phía sau những ngôi nhà cất sát đường ray. Có ai đó đang ló mặt ra, không biết nghĩ suy gì, cả những đứa trẻ cởi trần cũng vội bỏ mâm cơm ra nhìn theo tàu ngơ ngẩn.

Tôi chợt nhớ lại hình ảnh tôi thuở bé ở Hà nội đi học nhờ trường Bùi Xuân Phái ở đường Thành, mỗi chiều cũng đừng ngơ ngẩn nhìn theo đoàn tàu chạy qua trên đường vượt, ước ao sao mau lớn để được một chuyến ra đi.

Bây giờ tôi sắp được đi, sao lại thấy buồn cùng cực. Tôi bỗng muốn nhắn nhủ với bầy em nhỏ vừa ngắm theo đoàn tàu : đừng dại, em ạ, chẳng có chuyến đi nào nhẹ tênh, thanh thản đâu em. Người ta phải đổi biết bao trầm luân khổ ải mới có, mà có rồi lại bắt đầu chuỗi nuối tiếc trùng trùng.

Tàu đã chạy rất nhanh, qua mấy nhịp cầu sắt nghe khua rổn rảng, con lạch nhỏ sắp nhòe dưới màu nước tối đen. Tim tôi đập dồn dập, mắt tôi cay sè, tai tôi ù đặc, cái khát như từ đâu ập đến thiêu đốt lòng tôi. Bóng đêm rớt nhanh, tàu vừa vào vùng núi rừng thì nhập nhoạng hết, thực mộng đan vào nhau, không còn cây, không còn cảnh, chỉ còn tiếng gió xé nhức buốc lê thê.

Con tàu băng băng như nghiền nát lòng người sắp xa quê thành những vụn cám tơi tả. Tôi tự hỏi lòng : bao giờ về. Câu hỏi như loãng tan vào mênh mông không dội lại một lời đáp trả. Người tôi bỗng nặng chịch, hai chân đâm lỏng khỏng, tay như mọc mầm, mọc nhánh. Bọn trẻ vẫn hồn nhiên ngồi dựa người vào nhau, tuổi thơ sao dễ thế.

Còi tàu chốc chốc lại hú lên lảnh lót, cái tiếng hú luễnh loãng, hun hút mà nghe sắc như lưỡi dao. Chúng đang cứa từng tế bào nơi thân tôi để dày vò tâm tư tôi nát khướu. Bà vợ nhìn tôi thương hại, nhắc nho nhỏ : ngồi xuống đi kẻo mệt, tàu xa biển lâu rồi. Tàu bổ ngửa bổ nghiêng, lắc lư như muốn bứt ngọn đèn trong toa cho rơi xuống. Tiếng cành cành nghe rợn cả người.

Cả đêm tôi không sao nhắm mắt. Tôi lấy cái bọc ra đặt ở lối đi, ngồi nhìn qua cửa sổ toa, dù chẳng thấy được gì. Bọn nhỏ ngủ cả rồi, sương đêm lác đác rụng nghe lành lạnh. Mắt tôi vẫn mở to, con đường xa nơi trú thân sao đi hoài vẫn không hết. Tôi cố moi móc sự đoán định để xem anh bạn sửa xe hiện đang làm gì, nhưng chịu, hoàn toàn chịu.

Ba giờ sáng, tôi thấy bà vợ ra cạnh nhắc : gần sáng rồi, ông nên ngả lưng một tí, còn lấy sức lên máy bay. Thấy tôi trĩu nặng buồn sầu, vợ tôi khuyên nhủ thêm : quê hương ai muốn đành lòng bỏ, song ở lại người ta có thích đâu. Chúng ta không được chọn con đường nào khác, đành phải chấp nhận éo le.

Đỗ Thành

Mục Lục


3. Hiến Chương Tình Yêu (truyện dài nhiều kỳ)

Tình Hoài Hương



Phần Thứ Nhất

Chương 7





Dáng Xuân Là Đà

(tại Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt)







Trường Võ Bị Võ Bị Liên Quân Viễn Đông Đặc Biệt của Pháp thành lập tháng 7-1946 tại Đà Lạt.

Trường Sĩ Quan Hiện Dịch thành lập năm 1948 bắt đầu ở Huế. Khóa 1 tháng 12 tại Đập Đá. & Khóa 2 tháng 9-1949.

Tháng 4 năm 1949 có một hội-nghị đồng thuận bãi bỏ chế độ thuộc địa (do Pháp cai trị ở nước Việt Nam).

Tháng 5 năm 1950 quốc hội Pháp thông qua dự luật: Cho phép thành lập một đội quân Việt Nam.Thế nên bước khởi đầu thì Thủ Hiến Phan Văn Giáo cho một số trường quân đội Việt Nam ra đời.

Sau ngày 20-07-1954 khi hiệp định đình chiến ký kết tại Genève, Thụy Sĩ; thì Trường Sĩ Quan Việt Nam ở Huế đã được chuyển lên Đà Lạt, bắt đầu Khóa 3, và gọi là École Militaire Inter-Armes de Dalat. (Sát nhập vào trường Võ Bị Liên Quân Đặc Biệt của Pháp. Ngôi trường Võ Bị Liên Quân Đặc Biệt của Pháp, nay đương nhiên phải trao trả lại cho Việt Nam). Trường chánh thức đổi lại thành Trường Võ Bị Liên Quân (sau khi người Pháp rời Việt Nam năm 1955).

Đầu tiên ngôi trường nầy lấy tên là: Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Cuối cùng Trường sĩ quan hiện dịch nầy chính thức đổi tên thành: Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt Việt Nam theo sắc Lệnh số 325-QP ngày 10.4.1963. Đất và Trường rộng mênh mông tọa lạc giữa vùng khu ấp Chi Lăng và khu Thái Phiên.

Gần cổng trường là doanh trại sinh viên, khu Văn Học, khu Bộ Chỉ Huy... Cổng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt Việt Nam còn có tên là cổng "Nam Quan", nơi nầy luôn náo nhiệt trong những ngày Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày hội, ngày lễ. Những lúc ấy tại Cổng Nam Quan trở nên vui vẻ náo nhiệt như ngày hội lớn, hân hoan tưng bừng hơn với những chàng sinh viên sĩ quan phong trần, và bao tà áo dài tha thướt e ấp tung bay trong gió lộng. Thỉnh thoảng ở phòng trực trong trường gọi tên sinh viên sĩ quan (được phát ra từ loa phóng thanh vang vang lên), thì sinh viên sĩ quan nào có tên gọi, hớn hở vui vẻ rảo bước ra Cổng Nam Quan: Đấy là nơi "gặp gỡ của tình thương".

Khu doanh trại sinh viên ở gồm: bốn dãy ba-ti-măng có ba tầng lầu. Mỗi ba-ti-măng có hai đại đội sinh viên sĩ quan cư trú. Hai bên nầy là sân cỏ của Trung Ðoàn. Gần dưới thung lũng là khu vườn luôn luôn đầy hoa đẹp và cây cối xanh tươi, do sinh viên chung vui tay trong tay góp công sức làm nên, tạo thành một khu vườn thật ngoạn mục.

Muốn gia nhập vào trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, thanh niên phải có:

- Học lực tú tài.

- Có sức khỏe tráng kiện.

Ban đầu thì sinh viên thụ huấn hai năm (sau nầy trường Võ Bị Đà Lạt đã tăng thời gian cho sinh viên sĩ quan thụ huấn lên bốn năm học). Bao gồm các bộ môn học như: Văn Học. Quân Sự. Thể Chất. Chương trình sinh viên sĩ-quan học gắt gao, rất nặng, ấn định có quy củ rõ ràng. Mỗi ngày, sau giờ học đầy căng thẳng trí óc; và sau bữa cơm chiều, là sinh viên có hai giờ: > từ 6 giờ tối đến > 8 giờ tối, thì sinh viên sĩ quan tự do đi những nơi giải trí tùy thích như: Bên trái là Hội Quán sinh viên có nhiều sofa và bàn ghế tươm tất, để cho mọi người ngồi với nhau thoải mái hàn huyên tâm sự; nghe nhạc sống do ban văn nghệ sinh viên sĩ quan đảm nhận, hay tập dượt văn nghệ. Hoặc giả sinh viên sĩ-quan vào Thư Viện đọc sách. Hay có sinh viên khác đi Câu Lạc Bộ ăn uống. Nhóm sinh viên đến Hội Quán thụt bi-da, uống cà-phê. Có người đi tới sân sau để chơi bóng rổ, bóng chuyền bóng tròn, bóng bàn, vân vân? Sau đó là giờ tự học. Tiếng kèn 10 giờ đêm là giờ báo đi ngủ. Một số sinh viên lo chuẩn bị đi gác. Trường có tám đại đội sẽ luân phiên nhau gác mỗi đêm.

Sinh viên sĩ quan đi bộ leo núi, luyện tập quân sự, chinh phục đỉnh Lâm Viên cao 2.163m rất lạnh giá, ngỏ hầu rèn luyện sinh viên sĩ quan dũng cảm kiên cường vượt thắng gian truân và chông gai. Khi các sinh viên sĩ quan đi tới đỉnh Lâm Viên xong, họ trở về trường; ấy là chuẩn bị ngày lễ gắn Alpha cho tân khóa sinh. Các cán bộ đến tại phòng của tân khóa sinh để trao: mũ cát kết, đai lưng màu đỏ, thắt lưng đại lễ, đôi găng tay trắng. Tân sinh viên sĩ-quan sẽ đọc lời hứa: Tôn trọng lá cờ của Trung Ðoàn sinh viên sĩ quan. Bảo vệ danh dự cuả Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam: "Tổ Quốc. Danh Dự. Trách Nhiệm"; thì khoá sinh ấy mới được chấp nhận đúng là sinh viên sĩ-quan của Trường Võ Bị Đà Lạt Việt Nam.

* * *

Hôm nay là ngày tất niên của trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt - Việt Nam. Tôi cùng Vân, Lan, Tâm, Mai bao chiếc taxi chạy thẳng vào ngoài cổng Nam Quan, thăm bạn thân. Đúng lúc đó, tôi gặp Oanh cùng Biên. Hồng cặp tay Đáo. Thúy Mai và Tin Tấn ở Phạn Xá, (còn gọi là nhà ăn). Chúng tôi hân hoan khôn xiết, nói cười tíu tít biết bao chuyện buồn vui xếp lớp lăn tăn. Chưa dứt câu nầy, bạn đã hỏi câu kia dồn dập. Oanh chỉ vào bạn trai của cô:

- Oanh đã hứa hôn với Biên rồi.

- Hồng sắp làm đám cưới với Đáo.

- Cả Oanh và Thuận nữa. Ôi thật là vui quá vui.

Oanh mở miệng:

- Nầy, Thụy thì sao?

Tôi cười buồn:

- Oanh có bao giờ ghé qua ngỏ nhà thăm tui đâu, mà biết hỉ!

- Xin lỗi nha. Tại Biên hết đó.

- Thì phải mà. Có bồ, hổng đi đâu là đúng. Thụy chúc các anh chị sớm thành đạt trong tất cả ý nguyện. Nghe.

Họ cười tươi, cám ơn tôi với hạnh phúc hân hoan ùa về. Tôi đến điểm hẹn hò với Cảnh. Chàng nở nụ cười hồng rõ tươi, Cảnh hớn hở đón tôi nồng nhiệt lắm. Trên khuôn mặt qua ánh mắt Cảnh hiện rõ sự mãn nguyện khi chàng giới thiệu tôi với bạn. Cảnh hãnh diện vì có bạn gái xinh tươi, hồn nhiên mộc mạc, duyên dáng không thua những bông hồng biết nói khác trong đêm hội tưng bừng nầy. Cảnh nhẹ nhàng nắm bàn tay tôi nóng hổi, tôi run run như con chim gãy cánh. Nửa ngập ngừng ưng chịu siết tay chàng, nửa tôi toan muốn rút tay về. Đây là cái ?nắm tay thân tình đầu tiên?, từ khi chúng tôi quen biết nhau. Cảnh tinh ý nhìn thấy sự vô cớ dằng co và trầm mặc nơi tôi, chàng cố tìm hiểu nguyên nhân vì sao có sự thay đổi kia. Nhưng, tôi sẽ không kể cho Cảnh nghe, (kể cả những người thân yêu ruột thịt) về nỗi buồn đau vô hạn. Dù tôi rất muốn ngỏ lời tâm sự với ai đó, hầu vơi đi nỗi niềm dày vò, cay đắng ấy đang bóp thắt trái tim tôi. Sung sướng xiết bao, nếu tôi có thể viết lên trời tất cả suy tư của mình, mà có người khác đọc và thông cảm nhỉ! ít ra trong giai đoạn ngắn ngủi nầy, Cảnh là người xứng đáng nắm bàn tay tôi (đang run rẩy vì? sương gió giá rét?!). Chàng có hiểu phần nào về tâm tư, nguyện vọng, tình yêu của tôi không? Chàng có thể lấp được khoảng trống ráo hoảnh trong tâm hồn rét mướt, mà tôi hằng ngất ngây mong đợi cùng "ai đó" xe mộng tương phùng chăng?

Dọc hai bên đường dẫn lối vào chính điện, những sinh viên sĩ quan ứng chiến đứng gác rải rác dưới những chòm cây thông cao ngất và tối đen. Họ đội mũ lưỡi trai, mặc áo jacket, quần treillis xanh lá cây sậm, áo quần hồ ủi thẳng nếp, giày đinh cao cổ ôm hai ống quần thon gọn. Trên sân hội, những sinh viên sĩ quan thân hình thẳng tắp, mặc quân phục dạ hội mùa đông, nổi bậc găn tay trắng nõn, gù vai màu đỏ, dây biểu chương màu vàng nghệ pha kim tuyến đỏ? súng dài bồng lên tay, đôi khi tạo ra âm thanh do sắt thép khua vào nhau, nghe rập ràng đều đặn và chuẩn mực. Súng lại được vài phen kêu lên đều đặn, rập khuôn lúc bắt chào, và hạ súng xuống khi nào có những qúy khách đi vào khu đại lễ.

Đến giờ khai mạc đại hội thì buổi lễ long trọng được diễn ra tuần tự từng nghi thức bắt đầu và thủ tục cuối đã xong. Trước mặt các khán đài đang trình diễn các phân binh chủng: Nhảy Dù, Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến. Biệt Động Quân. Thiết Giáp. Pháo Binh, vân vân... diễn hành các xe hoả Thỉnh thoảng vọt lên trời những ngọn pháo bông đủ màu sắc rực rỡ, đủ hình thể khác nhau. Trông rất đẹp khi có mục biểu diễn nhảy dù tiếp theo. Bao cánh dù hoa bung nở, đủ màu bay lơ lửng trên không trung, lủng lẳng nhiều anh chàng Nhảy Dù bay bướm, trông quá tuyệt vời trên cao tít lưng trời bàng bạc hơi sương, gió rét căm căm cùng tiếng thông reo rì rào vi vu thoảng lại. Không Quân Việt Nam Cộng Hòa biểu diễn những đường bay quá điệu nghệ với dáng vẽ oai dũng riêng: Bay solo, bay ba, bay năm? bay vòng cung, bay vút lên và bay lộn ngược đầu? Ôi! Đủ thứ đường bay oai dũng mà lả lướt. Phi cơ kèm những làn khói đủ màu vẽ những hình ảnh lạ mắt, kéo dài sau đuôi tàu bay, rồi tỏa rộng trong bầu trời đêm lấp lánh ánh sao. Trông vô cùng hứng khởi, duyên dáng và ngoạn mục hết biết. Mọi người ngẩng đầu nhìn lên trời cao, mắt họ mở lớn, miệng xuýt xoa trầm trồ vui vẻ khen ngợi.

Những hàng ghế ở khu khán đài B kêu răn rắc, suýt gãy dưới sức nặng của khách ngồi xem mê mãi. Giàn quân nhạc sống vang lên rộn ràng làm huyên náo góc trời u tịch và giá rét. Tiếng hợp xướng, tiếng đơn ca, đồng cả vang dậy làm cho người đứng tuổi nghĩ nhiều về mình, đồng thời hồi tưởng lại quá khứ oanh liệt vàng son một thuở. Làm cho người vào độ tuổi tráng niên tạm lãng quên phiền nhọc, bực bội, lo toan, để ôn tồn thoải mái, vui vẻ hoà đồng với đám thanh niên trẻ trung tuấn tú, phong lưu hào hoa trong ngày hội lớn. Một số sĩ quan lão luyện tay bắt mặt mừng chào hỏi nhau, họ ung dung đi rải rác từng điểm hội, tuổi tác họ khác nhau. Đa số đàn ông có khuôn mặt đượm phong trần, sương khuya gió chiều khiến mái tóc lấm tấm muối tiêu và thân thể rắn rỏi hơn. Họ mặc quân phục đại lễ mùa đông trông khác nhau, ai nấy đều lịch lãm oai hùng, phong độ theo mỗi dáng kiểu của từng binh chủng riêng. Nam nhân có những bộ râu quai hàm, râu mép, kính trắng đạo mạo tô điểm cho vầng trán cao, tạo thành khuôn mặt rắn rỏi thêm phần trí thức và trang trọng. Miệng nhiều ông ngậm thuốc lá thơm, xì gà, hay ống điếu. Đó là những cấp lãnh đạo, những cấp chỉ huy có đôi mắt sắc sảo tinh tường. Họ giàu kinh nghiệm, bản lĩnh để hướng dẫn thuộc quyền. Kiễu dáng họ ung dung thong dong thư thả pha chút cao ngạo, đôi khi vương chút bình dịhoà đồng vào cuộc vui chung. Họ cũng biệt lập về kinh nghiệm chiến trường, và cách điều binh khiển tướng khi xung trận. Bên cạnh bao quân nhân là những mệnh phụ phu nhân kiểu dáng chưng diện quần là áo lụa ?đỏm đáng đài các? khác người. Cùng phụ huynh của sinh viên sĩ quan đa số thanh lịch, mềm mại, phục sức trông đoan trang mà giản dị, không lố bịch. Nhìn chung đa số quan khách cao sang, uyển chuyển qua nhiều kiểu cách hợp thời khác nhau.

Bỗng một tiếng nổ giòn tan xé màn đêm, nghe như tiếng lọ thủy tinh gián mạnh xuống nền gạch, rồi nhiều tiếng súng cối bắn đi đâu đó, khiến tôi giật nẫy người, nép sát vào lòng Cảnh. Chàng nhìn quanh cũng thảng thốt giây lát, vòng tay Cảnh vội ôm qua thân thể tôi lúc nào, không nhớ. Mọi người đứng lên đồng loạt vỗ tay và la to:

- Ấy dá dà?

- Tuyệt vời quá!

Họ cười vang, có nhiều tiếng hét to:

- Giao thừa.

- Tiễn biệt năm cũ, chào mừng năm mới.

- Chúc mừng năm mới.

- Mừng xuân đến.

- Tết Nguyên Đán đến rồi.

- Happy new year.

Giờ phút linh thiêng nầy thật trang nghiêm, trân trọng. Họ nhìn lên bầu trời sáng rực pháo bông đủ mọi màu sắc và hình dáng. Ồ! Thì ra bây chừ đúng là giờ giao thừa: Súng lớn bắn đi để đón chào dáng xuân hồng thắm ngự trên vạn vật. Chỉ có rứa mà cũng khiến tôi giật mình mất hồn mất vía, run rẩy à! Mươi phút sau bắt đầu thủ tục khai hội dạ tiệc trong đại sãnh sang trọng. Những thức ăn bốc khói nóng sốt thơm ngon. Chuyện trò râm rang khắp nơi. Đêm dạ vũ tưng bừng và long trọng đã khai mạc. Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt khoản đãi mọi người đến dự tiệc tất niên tống cựu nghinh tân vui vẻ náo nhiệt tưng bừng biết chừng nào.

Chúng tôi dìu nhau đi trong đêm giao thừa rộn ràng những tiếng pháo nổ rền vang khắp mọi nơi. Người người hứng khởi đón chào năm mới vui ơi là vui quá chừng chừng. Lòng tôi vui thích, say say theo cung đàn yêu thương, ngất ngây với nỗi ngọt ngào lâng lâng từ đâu ập đến. Một giao thừa và năm mới bắt đầu tuyệt vời nhất đời mình. Dù mai tôi sau có xa ơi là xa trong sự già thật là già, tôi vẫn trân trọng và mãi nhớ lần đầu tiên tôi vinh dự vô Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, để tiễn năm cũ và hân hoan đón chào năm mới, vui vẻ đón xuân. Chúng tôi dìu nhau đi thật chậm giữa khuya trăng sao muôn trùng rơi rụng, bên tai tôi tiếng pháo rộn rã nghinh xuân tưng bừng. Lòng tôi cảm thấy bình yên vui vẻ kỳ lạ khi bước chân hai người líu ríu đặt lên từng bậc cấp để vào nhà.

Trước thềm năm mới, Cảnh êm đềm trao tặng tôi nụ hôn nho nhỏ phơn phớt trên mái tóc nồng ấm hương xuân đầu năm. Tôi cảm thấy hạnh phúc nhè nhẹ len lén lâng lâng đến trong chân tơ kẽ tóc và trong đời sống riêng mình. Tình cảm ấy tuy nhẹ nhàng, đơn sơ, mà trĩu nặng ân tình trìu mến, thiết tha vẫy gọi nhau biết mấy! Niềm vui thật ngọt ngào trong sáng, cùng sự liên đới kỳ diệu của Trời cao giao hoà tuyệt vời với Đất thấp gợi tình, muôn hoa ngát hương, cỏ cây hoa lá đâm chồi nẩy lộc giữa thiên nhiên cẩm tú. Đà Lạt thoáng mát, thi vị, nên thơ, lãng mạn, mơ mộng, tuyệt diệu ươm mộng xuân tình từ: trên đỉnh Lâm Viên êm đềm rót xuống lòng thế nhân niềm vui chất ngất xiết bao!



_ * _




Tình Hoài Hương

Mục Lục


4. Tiếng Việt Của Tôi


Vành Khuyên

Tôi tình cờ đọc được ý kiến một bạn đọc viết dưới bài của tôi phàn nàn về cách tôi dùng chữ. Tôi đã dùng chữ chất lượng thay vì có thể dùng chữ phẩm chất theo người đó là đúng hơn. Khi đọc những dòng chữ này, tôi biết ơn bạn đọc này vô cùng, không phải vì bà ta đúng khi sửa tôi mà tự tận đáy lòng tôi biết ơn trăn trở và suy nghĩ của bà ta trong việc sử dụng ngôn ngữ không chỉ cứ trong bài viết của tôi mà có thể trong các bài viết khác, của các tác giả khác, thế nào và không thể tránh là bạn đọc sẽ gặp phải cái gọi là " sạn " mà tác giả nào đó dù không cố tình đã cho bạn một cảm giác không "đã" hay " chói tai " vì chữ hay từ đó trước năm 75 người ta không dùng.

Khi tôi vào đọc tin tức thế giới trên mạng, cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt, nhiều bài viết tiếng Việt thật sự làm tôi bất mãn, dùng chữ rất là sáo rỗng, nhưng rồi sao, người ta có quyền viết như thế, tôi không thể cho tiếng Việt của tôi là thuần tuý rồi đổ cho tiếng Việt hiện tại là sáo rỗng, cho dù 5, hay 10 năm nữa có thể tiếng Việt tại Việt Nam sẽ phát triến theo một hướng mà có thể làm tôi quyết định không dám đọc tin tức từ các mạng bên nhà. Điều đó hoàn toàn là lựa chọn của tôi, tôi tìm chỗ khác đọc chứ sao. Ngôn ngữ không tự nó quyết định sự phát triển mà động lực của nó là chiều hướng phát triển của xã hội, ngôn ngữ tự phát sinh ra những mới mẻ để thích hợp và đóng góp vào những đặc trưng của thời nó sinh ra. Tôi còn lạ gì.

Thật sự vào cái mốc 1975, tôi mới 10 tuổi, lúc đó tôi mới học lớp 4. Tiếng Việt có là bao hả bạn. Viết một bài luận tả ngay chính người mẹ mình còn chưa xong. Tôi ở Việt Nam cho tới 24 tuổi thì đi định cư. Tôi có 14 năm tiếp cận với xã hội của chế độ đương thời tại Việt Nam. Phải nói cho công bằng rằng, dù cùng chế độ nhưng xã hội lúc đó rất khác với xã hội tại Việt Nam bây giờ và tôi cũng không thể quy đồng hai giai đoạn khác xa nhau này của cùng một chế độ. Cũng như tôi nghiệm ra nét văn hóa trước 75 mà đa số bạn đọc của Việt báo tiếp cận cũng khác rất xa những gì tôi tiếp cận khi tôi còn là cô bé 10 tuổi. Cũng như không quá đáng lắm nếu nói tiếng Việt của tôi chẳng giống ai. Mà tiếng Việt của bất cứ ai cũng có nét riêng do kinh nghiệm đời sống và văn hóa người đó tiếp cận, so sánh làm sao được. Bảo đừng dùng chữ này, chữ nọ, phải dùng chữ kia vì thời trước dùng như vậy, tôi thấy vô lý vô cùng. Điều đó phạm vào quyền tự do của con người. Tuy nhiên để nói cho công bằng, trong chừng mực nào đó tôi cũng không thể ngăn bạn đọc không có thiện cảm những chữ tôi hay người khác dùng được vì đó là tự do của họ.



Khi mới định cư, nếu bạn cho tôi thổ lộ, tôi sẽ nói với bạn rằng, khổ lắm, tiếng Việt không buồn nhớ, tiếng Anh thì không rành, tôi thật sự không biết mình sẽ tồn tại ra sao trong cái thế giới tôi không còn nhìn ra được chính bản thân tôi là ai. Ít nhất là 5 năm đầu tôi trăn trở vô cùng . Những bà giáo ESL rất tế nhị, không nỡ sửa đỏ loè bài luận tiếng Anh của tôi, nhưng tôi biết, dù có cả 14 năm học tiếng Anh tại Việt Nam, những bài luận đó của tôi còn thua xa một học sinh tiểu học. Nhưng có sao đâu à, tôi vẫn phải viết, vẫn phải tiếp cận, vẫn phải học và hiểu rằng tôi dù có muốn ngừng học cũng không được vì ngừng là chết liền.

Khi mới nhận việc tại sở xã hội, cô nhân viên người Việt trước tôi đưa cho bài thi thử việc là một bản đơn tiếng Anh đòi tôi bản dịch bản đó ra tiếng Việt. Thú thật cô biết tôi biết tiếng Việt chứ không phải không, biết theo kiểu nào, nói được, đọc được hay viết được cho người Việt hiểu, chứ không cần viết hay. Thử vậy thôi chứ khi tôi được nhận thì cũng chỉ là người ta đặt lòng tin đại vào tôi và vận may đến với tôi chứ chưa chắc tiếng Việt tôi hay hơn người khác. Nếu tôi không đọc, không viết tiếng Việt khoảng 3 năm lúc mới định cư và trong thời điểm tôi nhận việc tôi cũng chỉ dịch đại văn bản của bài thi họ đưa mà thôi. Bất cứ thứ tiếng nào cũng vậy, dù là tiếng mẹ đẻ, khi bạn không dùng thường xuyên nó cũng mai một đi. Ngoài ra ngôn ngữ là văn hoá, ít nhiều gì cũng có sự bất đồng, nhất là những gì từ thực tế, xã hội Việt nam không có thẻ xanh thì cái tiếng Anh họ gọi là Permanent Resident Card tôi chả biết dịch ra làm sao cả. Tôi dịch trong bản dịch thử việc là thẻ xanh còn đúng ra phải gọi là thẻ thường trú. Nhưng thẻ xanh hay thẻ thường thú gì cũng là theo nghĩa chữ, còn nghĩa về văn hóa, xã hội thì giữa hai đất nước không có tương đồng, ai đến định cư nơi đây mới hiểu thôi.

Hệ thống đơn từ cho khách đến xin trợ cấp dù có cố làm đơn giản thì cũng không tránh được những hiểu lầm, người bản xứ còn lầm chứ đừng nói chi người mới nhập cư. Ở đây tôi không bàn tới cái chuyện cố tình lầm. Khi được gửi đơn xin trợ cấp bằng tiếng Anh, những khách người Việt nam của tôi họ phàn nàn không hiểu đơn nói gì. Khi tôi đổi lại gửi đơn bằng tiếng Việt, họ cũng gọi tôi bảo chị ơi em không hiểu. Ủa vậy tôi phải làm sao. Ý họ thật sự là gì tôi không biết nhưng đây không còn là vấn đề tiếng Việt hay tiếng Anh mà là sự sẳn lòng cung cấp thông tin cho nhân viên xã hội chuyển tải vào hệ thống của nhà nước để ra lợi nhuận cho họ. Người Việt nam rất thông minh và sáng dạ, đôi khi sử dụng sự thông minh đó hơn mức cần thiết để nói ra những điều hơi ngớ ngẩn mà tôi chính tôi, trung gian của hai bên, khách và nhà nước, cũng phải kỷ luật và nghiêm minh với chính mình lắm mới tìm ra được cách giải quyết mà không sợ mất lòng họ hay không làm mất lòng tin của sở.

Có những điều trong đời không trắng không đen, dù tôi biết đen mà chưa ai biết đen, tôi tự học bài học không nói ra cho tới khi cái người đã từng cho không đen tự xác nhận là đen. Mắc chi tôi phải nói cho mất lòng ra. Tôi rất cám ơn sự tương đối rõ ràng trong luật trợ cấp của Mỹ có thể giúp tôi làm việc công minh mà không sợ bị đổ cho là không biết tiếng Việt hay không đủ tiếng Anh. Tôi có đủ cả, chỉ có người không thích quyết định của tôi nhận định khác đi để mong làm tôi nổi giận. Trước đây tôi cũng dễ nổi nóng, tôi buồn và rất buồn khi cả khách Mỹ, lẫn khách Việt khi quyết định của tôi không vừa ý họ dùng những lời lăng mạ bản thân tôi nhiều khi hơn mức cần thiết cho tôi hiểu tôi chả giúp gì cho đời sống đang khốn khó của họ. Tôi đau lòng lắm chứ, đau cho họ chứ không cho tôi. Họ nhìn họ có thể họ đang thiếu nhưng cái cách nhà nước bắt tôi nhìn họ là không thiếu. Như vậy vấn đề là sự khác nhau giữa hai cách nhìn thôi chả dính líu gì tới bản thân và tư cách của tôi cả. Nghĩ được như vậy, tôi mới ngồi ở công việc này tới tháng 6 năm nay là 18 năm rồi.

Cũng giống như bạn đọc bảo tôi dùng chữ của Việt cộng, thật sự tôi còn một chữ Việt nào để mà dùng tôi biết ơn chữ đó. Tôi đọc tin tức trên mạng mỗi ngày, chữ nào tôi thích tôi sẽ giữ đó để mà dùng hay có thể tự nó đã đi vào trong đầu tôi hồi nào không hay. Chữ nào tôi không thích hay bản thân tôi thấy không đúng thì có đọc và thấy cả bao nhiêu lần nói thật tôi cũng chẳng dùng làm gì.

Tiếng Việt tôi đang sử dụng nó mang bản sắc cá nhân tôi, con người tôi và lòng tự trọng tôi có cho tiếng mẹ đẻ khi tôi đang sống tha hương. Ai không thích chữ tôi dùng đều có quyền nói lên suy nghĩ của họ. Tuy nhiên khi thấy tôi dùng đi dùng lại xin đừng phật ý và cho đó là không đúng và quy tôi vào một thể chế chính trị nào đó. Lý do là vì vốn tiếng Việt đó là từ cá nhân tôi, bạn không dùng vì bạn cho đó là từ của Việt cộng là quyền của bạn. Chữ nghĩ nó chả có tội gì cả, nó chả mang một màu sắc chính trị nào hết, chỉ có con người gán cho nó màu sắc đó vì họ muốn mà thôi.

Tôi chẳng là nhà văn, nhà thơ chi, tôi chỉ nguyện làm một người Việt đúng nghĩa trên mảnh đất đã cho tôi rất nhiều cơ hội được hiểu chính tôi là ai trong cuộc đời này.

Xin cảm ơn một ngày nữa tôi có trong tầm tay, được viết, được đọc và được cảm tiếng mẹ đẻ cúa mình như ngày hôm nay.

Vành Khuyên



Mục Lục


5. Căn Nhà Sau Cửa Biển (truyện dài)


Phan Thái Yên

17 (tiếp theo).
Hiroshi đưa Nữ qua Tokyo thăm mẹ. Chuyến đi anh và mẹ già đã mong mỏi từ lâu. Họ rời Sài Gòn vào nửa khuya. Chuyến bay thâu đêm đưa hai người xuống phi trường Narita lúc mặt trời vừa hừng lên sau lớp lớp phố cao. Buổi sáng đầu mùa Xuân trời trong xanh hứa hẹn những ngày vui. Âm thanh rầm rập từ đoàn tàu điện uốn vòng tưởng chừng đang lướt lủng lơ trên nóc hàng anh đào chớm đầy nụ ươm hồng khiến Nữ nao vui quên cả suốt đêm qua gần như không ngủ và giây phút phiền lòng trên chuyến bay từ Đà Nẳng vào Sài Gòn.
Đã tới giờ bay mà hàng ghế đầu rước mặt Nữ và Hiroshi vẫn còn trống chờ vài người khách cuối lên tàu. Khu vé hạng nhất, ngoài Nữ ra toàn là thương nhân nước ngoài. Họ càng tỏ vẽ khó chịu lúc cô tiếp viên cho biết phải chờ một đoàn cán bộ thành ủy Đà Nẳng vào Sài Gòn công tác. Nhóm cán bộ mặt mày bóng lẩy sang trọng, ồn ào ngồi vào chổ trong lúc các cô tiếp viên xáo xác mời nước, trao khăn. Người cuối cùng trong nhóm còn đứng vì hết chổ. Ông ta vẩy tay gọi cô tiếp viên trưởng đến gần bàn tán xầm xì. Cô tiếp viên nhìn Nữ lưởng lự rồi đến gần hạ thấp giọng.
- Đồng chí trong ban thành ủy muốn đổi chổ với cô. Đồng chí ấy sẽ bù gấp đôi cho cô tiền mua vé.
Cô ta liếc nhìn dấu tay ra hiệu của viên cán bộ đang tự tin đứng chờ, nói nhanh không để Nữ kịp mở miệng.
- Đồng chí ấy nói gấp ba lần. Chưa tới hai giờ bay, nhiều tiền lắm đấy! Chị nhất trí đi.
Nữ cố gìm lòng, trả lời bằng tiếng Anh để Hiroshi có thể theo dõi cuộc đối thoại. Nàng từ chối lời đề nghị kẻ cả của gã cán bộ trung niên.
- Tôi sẳn lòng đổi chổ không cần tiền bù đắp nều khách là một người mẹ có con mọn hay người già yếu lớn tuổi. Nhưng ông khách này coi bộ còn khỏe mạnh hơn tôi, là một phụ nữ.
Nữ nhìn người tiếp viên đang trong cảnh khó xử, chưa chịu buông tha.
- Có thể là ông ta sẽ không đồng ý đề nghị này, nhưng nếu cô thương lượng đuợc với ông ấy chịu hủy chuyến đi, bước ra khỏi máy bay tôi sẽ trả cho cô gấp năm lần tiền vé máy bay.
Nhóm thương nhân nước ngoài cười ầm lên sau câu nói đùa ý nhị của Nữ. Gã cán bộ không hiểu tiếng Anh nhưng có lẽ đã đoán ra được câu trả lời. Anh ta hậm hực bước len qua những tràng cười nhạo báng, đi vào khu vé hạng thường.

Hiroshi kéo hai xách hành lý đến bên Nữ.
- Anh vừa nói chuyện với mẹ. Bà muốn ra đón em ngay ở bến tàu điện nên mình chỉ về tới ga Toshima rồi gặp mẹ ở đó.
Hiroshi lắc đầu cười nhìn Nữ, anh làm ra vẽ ganh tức.
- Bà chỉ hỏi thăm em mà không thèm nhắc tới con trai một tiếng nào? Nhìn em tươi tắn như thế chắc là đã quên chuyện bực bội trên máy bay ở Đà Nẳng.
Nữ gật đầu cười tươi hơn.
- Ý nghĩ mình đến xứ mặt trời mọc vào lúc mặt trời đang mọc làm em vui quá. Quang cảnh tươi sáng quanh mình, mọi người bận rộn với công việc mà ai cũng khiêm cung lễ độ làm em bớt bi quan khi nghĩ tới thái độ trịch thượng, vô cảm của những người tiếp viên lúc cư xử với hành khách trên chuyến bay nội địa. Văn hóa, giáo dục sẽ giúp con người thay đổi mà vươn lên phải không anh?
Hiroshi kéo tay Nữ chỉ về phía chân trời xa tít. Dáng núi chỉa ngọn phủ tuyết trắng phau vào nền trời xanh trong không một vẩn mây, trồi lên đơn độc uy nghi vào cuối tầm mắt. Nữ khích động reo tên ngọn Phú Sĩ, một trong ba thánh sơn của xứ Phù Tang.
- Phải đó em. Fujisan! Vài ngày tới mình thăm núi, lần đầu tiên trong đời em sẽ có dịp chiêm ngưỡng Thái Dương Thần Nữ vào buổi sáng. Hiroshi đăm đăm nhìn Nữ, nụ cười ý nhị nở trên môi? Còn anh thì may mắn được chiêm ngưỡng thần nữ mỗi ngày.
Nữ hiểu ra, mắc cở níu vai anh.
Hai chuyến tàu điện nối nhau dài hơn tiếng đồng hồ thả họ xuống ga Toshima.
- Mình về gần tới nhà rồi đó em.
Khu phố cổ, yên vắng, leng keng tiếng tàu điện chạy dọc trên đường. Bầy chim đậu rồi chấp chới bay trên những đường dây điện. Xứ lạ. Ngôi nhà lạ. Người mẹ hiền từ của Hiroshi nàng chưa gặp bao giờ. Nữ níu áo anh, rụt rè bước xuống lòng đường. Ký ức cũ như từ muôn năm vụt trở về, rón rén bước chân trốn giấc ngủ trưa liêu xiêu mái ngói âm dương thả bóng nắng vàng nâu xuống lòng đường trải cong theo chuổi vách phố rêu phong. Có điều gì hình như quen thuộc lắm đang sẹ bước vào hồn.
Nữ kính cẩn cúi đầu chào người đàn bà đang tươi cười hiền hậu nhìn nàng sau mái tóc bạc muối tiêu cắt ngắn. Nếu Hiroshi không chào mẹ trước có lẽ Nữ không thể nào ngờ được. Bà đẹp quý phái trong chiếc áo dài Việt bằng gấm thêu và khăn san tiệp màu.
- Chào cháu. Cháu đi đường có mệt lắm không?
Nữ như muốn qụy xuống vì kinh ngạc. Mẹ Hiroshi mặc áo dài Việt nam, nói tiếng Việt và phát âm đặc sệt giọng Huế. Nữ bật khóc, cuống quít thoi vô bụng Hiroshi trách móc.
- Anh thiệt! Răng anh không cho Nữ biết gì hết về mẹ rứa?
Hiroshi ôm bụng làm bộ đau lúc bà mẹ cười can gián.
- Tôi là Mitzuki. Cháu cứ gọi là dì Mitzuki, hay là dì Nguyệt càng hay hơn. Không phải lỗi của Hiroshi mô. Tại dì biểu Taro phải dấu cho tới lúc cháu tới Tokyo. Còn thêm vài ngạc nhiên nữa, về tới nhà rồi dì kể cho nghẻ Taro lái xe đi con. Để hai dì cháu ngồi sau nói chuyện.
Nữ nhìn Hiroshi hăm he.
- Tên Taro của anh em cũng chưa hề nghe anh nhắc tới bao giờ. Nhớ đó nghe! Em có lý do không cho anh biết ?nicknamẻ của em rồi đó.
Mẹ Hiroshi hóm hỉnh.
- Giữa đàn bà với nhau, cháu cho dì biết được mà !? Mình nói bằng tiếng Việt, Taro không biết đâu.
Nữ nhìn nét mặt phúc hậu của dì Mitzuki. Mối tình thân nở ra từ một quyến luyến không ngờ, mới mẻ mà sâu lắng. Một hệ lụy nào đó không lường đuợc, tràn đầy lòng tin yêu. Nữ vén chiếc váy dài, nghiêng người nói thầm vào tai dì Mitzuki.
- Ngày trước, ở nhà ai cũng gọi cháu là ?Nữ chân voỉ.
Bà thích thú cười nhìn đôi chân Nữ hé lộ dưới lằn vải.
- Voi này chắc là voi con thôi. Nhưng mà dì rất thích nhìn dáng đi đủng đỉnh của voi. Từ tốn, quý phái.
Hiroshi sốt ruột nghe hai người đàn bà thì thầm cười nói, anh hỏi vọng xuống.
- Mẹ đang nói xấu gì về con đó.
- Không đâu. Mẹ sắp kể cho Nữ nghe câu chuyện dân gian Momotaro, lai lịch về cái tên Taro của con đó thôi.
Nữ lắng nghe giọng kể chuyện lôi cuốn của dì Mitzuki về ?thằng bé trái đào? (momotaro).
- Dì thích chuyện momotaro từ lúc còn bé, nên khi có Hiroshi dì đã đặt ngay biệt danh này cho con. Việt Nam có câu chuyện dân gian nào như momotaro không cháu.
- Dạ, chuyện Phù Đổng Thiên Vương cũng gần gần như vậy. Có lẽ vì ách đô hộ thống trị của Tàu quá nặng nề, lâu dài nên dân gian Việt Nam đã mong mỏi nhiều hơn. Thằng bé trong chuỵên Phù Đổng Thiên Vương chỉ trong giây lát vươn vai thành tướng giỏi, cởi ngựa sắt vung gươm đánh đuổi quân xâm lược Bắc phương ra khỏi bờ cõi? Còn tên Nguyệt của dì từ đâu mà có rứa?
- Cô này nôn nóng quá, không chờ được cho tới khi về nhà.
Dì Mitzuki cười trách đùa Nữ, rồi bà nhắm mắt lặng chìm vào dòng suy tưởng. Suốt đời bà làm việc ở viện ngoại ngữ trường đại học Waseda nhưng mấy năm đầu thập niên bảy mươi ở đó vẫn luôn làm bà xúc động mỗi khi nhớ lại. Tin một cô gái Việt Nam là công nương của hoàng triều cũ đến Waseda theo học chương trình cao học về văn hóa và ngôn ngữ Nhật Bản khiến nhiều người bàn tán xôn xao, đặc biệt là những người có biết về mối quan hệ giữa truờng đại học với một hoàng thân triều Nguyễn sống lưu vong ở Tokyo từ những năm đầu thế kỷ trước. Bà Mitzuki hữu duyên tương ngộ rồi thành bạn thân với cô gái mảnh mai có nét đẹp đài trang của một công chúa tuy đang sống đời dân dã. Cảm tình về một đất nước Việt Nam luôn gần gụi trong tâm tưởng đã giúp Mitzuki chú tâm nhiều trong lúc học tiếng Việt từ cô bạn Shiori của mình. Trong một lần tra cứu ý nghĩa về tên họ người Nhật và Việt Nam, Shiori đã trở thành tên gọi của nàng công chúa Thơ Thơ. Mitzuki thì thưong ngay cái tên Nguyệt, thương luôn câu hát Shiori đã hát cho nghe. Bà Mitzuki luôn nhớ tới cảm giác thích thú khi biết câu hát cũng từ người nhạc sĩ tài hoa viết bài Utsukushii mukashi (Diễm xưa - TCS) mà bà thích ngay khi nghe lần đầu ở hội chợ Osaka.
Nữ xúc động sửng nhìn dì Mitzuki thì thầm câu hát. Tiếng ?Nguyệt? từ môi bà nghe Huế quá, thương quá. Nữ bất chợt hát theo câu hát nàng đã nghe biết bao lần lúc hồn thả quyện vào trăng, tan theo tiếng sóng, ?Từ khi trăng là Nguyệt??
- Dì Nguyệt nhớ hoài câu nói của Shiori. Cô ấy nói khi mô dì Nguyệt thấu được hết ý nghĩa lời ca của bài hát này thì lúc đó dì mới thật sự giỏi tiếng Việt.
- Rứa dì đã hiểu hết bài Nguyệt ca chưa.
Dì Mitzuki cười lắc đầu.
- Tôi thuộc nằm lòng cả ba mươi hai câu của bài hát, mà thấu hiểu thì chưa. Sau ba mươi năm tôi vẫn giữ cho mình nửa câu ca ?Từ khi trăng là Nguyệt?? và một nỗi buồn. Shiori trở về Việt Nam, lấy chồng là phi công bị tử trận. Mẹ và con nhỏ vượt biên, tàu chìm mất tích đã hơn hai muơi năm. Dì Mitzuki thở dài? Mỗi chúng ta ai cũng chờ đợi, tìm kiếm về những mất mát trong đời và nỗi hoài mong. Một nửa câu thơ, một nửa đời, một nửa quê hương mất còn thất lạc.

Nữ bước qua khoảng sân có nhiều cây kiểng cắt tỉa công phu. Kiến trúc ngôi nhà quen thuộc gần gủi với nhà cổ Nhật ở Hội An làm Nữ có cảm giác như đứa con đi xa trở về.
Dì Mitzuki trịnh trọng đốt trầm rồi thắp nhang trao cho con trai cúng lạy gia tiên. Nữ đứng khấn vái theo Hiroshi. Nàng kính cẩn nhìn từng ánh mắt nghiêm nghị lung linh sau hương khói từ những tấm hình rất cũ dựng trên bàn thờ.
Bà Mitzuki cố nén mối xúc động ấp ủ trong lòng suốt thời gian dài từ ngày Hiroshi cho biết Nữ sẽ cùng con trai về thăm nhà. Bà tin vào sự an bài của số phận. Bà đã mong mỏi trông chờ. Đứa con trai duy nhất qua tuổi ba mươi, rồi bốn mươi vẫn còn chưa chịu lập gia đình. Công việc tận Việt Nam xa nhà từ hơn một năm qua càng khiến bà lo lắng. Thế rồi Hiroshi gọi mẹ thường xuyên. Mẹ hiểu ra tâm tình của con qua giọng nói sôi nổi vui tươi mỗi khi Hiroshi nhắc tới Nữ. Bà muốn gặp người con gái đã mang tin yêu tới cho con mình. Người con gái Việt Nam bà vẫn mong chờ từ ngày chia tay với Shiori. Chờ được trãi lòng ra, cho vơi nỗi niềm thân phận bởi mỗi tấm hình trên bàn thờ là mỗi phần đời, là nguồn cội bà muốn có người nghe, kể lễ khóc cùng.
Hiroshi chỉ vào chân dung một quân nhân mặc đại lể đeo trường kiếm uy nghi.
- Bố anh là sĩ quan của Hải quân Hoàng gia Nhật thời đệ nhị thế chiến.
- Ông sống sót sau những trận hải chiến với Mỹ ở Thái Bình Dương. Chúng tôi gặp nhau sau chiến tranh, nhưng ông mất sớm lúc Taro chưa tròn tuổi.
Bà Mitzuki nhìn lên tấm hình lớn treo trên cùng, ở góc dưới khung hình là tấm hình nhỏ hơn, mờ nhạt hai người nam nữ đứng bên nhau.
- Đó là tấm hình duy nhất của ông bà Ngoại Hiroshi.
Bà Mitzuki cố nén xúc động, nghiêm trang hỏi Nữ sau tiếng ho khan.
- Nghe Hiroshi nói cháu đọc được chử Kanji. Cháu thử đọc hàng chử bên dưới tấm hình đi.
Nữ vận dụng mớ vốn liếng chữ Nho học được từ cậu Chấn đọc hết mấy hàng chử Kanji rồi dụi mắt không tin. Nàng đọc đi, đọc lại rồi quay nhìn dì Mitzuki ngờ ngợ.
- Nếu cháu đọc không sai thì đây là tấm hình chụp Kỳ Ngoại Hầu Cường Để với nhóm lưu học sinh Việt Nam đầu tiên ở trường đại học Waseda vào thập niên đầu của thế kỷ 20.
Dì Mitzuki gật đầu.
- Người đứng giữa chính là hoàng thân Cường Để. Cháu hảy nhìn kỷ lại chân dung của nhóm sinh viên.
Nữ càng nhìn càng hồ nghi mắt mình. Nàng run giọng hỏi.
- Hình như một trong chín du học sinh cũng là người trong tấm hình nhỏ, là?
Nước mắt lăn dài trên má dì Mitzuki, bà gật đầu.
- Người đứng cạnh hoàng thân là cụ Trần Đông Phong. Ông đã tự tìm cái chết dưới một cội thông trong chùa Tohoji vào độ tuổi đôi mươi với khí phách, tiết liệt của một võ sĩ đạo. Ông tuẩn tiết vì ?xấu thẹn? với bạn đồng môn, vì ?giàu có nhưng đất nước có bị diệt vong cũng không giúp được gì thì tôi còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ nữa?. Ông chết không hề biết người bạn gái Nhật đã cưu mang máu huyết mình trong bào thai. Mẹ âm thầm nuôi dì khôn lớn giữa bao dị nghị vây quanh. Cũng như bố của Hiroshi, bà ngoại sống còn qua bao cam khổ của mấy năm Thế chiến rồi qua đời không lâu sau ngày đám cưới của con gái.
Dì Mitzuki vuốt tóc, miệng nở nụ cười lúc mắt còn chưa ráo lệ. Bà nâng chéo áo lau nước mắt cho Nữ.
- Giờ thì cháu biết vì răng dì Nguyệt mặc áo dài Việt Nam rất tự nhiên rồi hỉ ? Suốt bao nhiêu năm qua, ý nguyện đi tìm thăm quê cha của dì vẫn còn là giấc mơ chưa thành. Giờ thì sẽ dễ dàng hơn nhiều, phải không cháu?
Nữ quay nhìn Hiroshi trách móc.
- Anh thiệt! ? Phải chi mà anh cho em biết chuyện.
Dì Mitzuki bước ra hiên nhà lung linh màu nắng tươi trên cành đào ươm nụ.
- Không sao đâu cháu. An bài của số phận lúc này là niềm hạnh phúc lớn nhất của dì. Tới đây về thăm quê cha mà có con dâu dẫn đường thì còn chi bằng. Sáng mai mình sẽ đi Zoshigaya thăm mộ ông ngoại.
Bà quay nhìn Hiroshi và Nữ đang nắm tay âu yếm đứng bên nhau.
- Kiyomi chọn hoa, còn Hiroshi thì nhớ sửa soạn xô và gáo nước chứ đừng quên như lần trước.
Bà phá lên cười thấy Nữ ngơ ngác nhìn Hiroshi.
- Kiyomi là tên Nhật của con đó mà!.


(còn tiếp)

Phan Thái Yên


Mục Lục


6. Vua Quang Trung - Vị Anh Hùng Dân Tộc


Triều Phong Đặng Đức Bích


1. Vinh Danh Anh Hùng Dân Tộc



Người Pháp tự hào về Napoléon Bonaparte. Ông là một thiên tài quân sự, đã chinh phục một phần lớn lãnh thổ Âu Châu, nhưng cuối cùng thất bại trận Waterloo tại nước Bỉ.

Dân tộc Pháp luôn luôn tôn kính ông. Du khách đến Paris thấy ở đầu đại lộ Champs Elisée, Khải Hoàn Môn được xây dựng, một công trình kiến trúc Văn Hóa Hùng Sử Pháp, để tưởng nhớ Napoléon Bonaparte, với những chiến thắng vẻ vang liên tiếp đã làm rạng danh trang sử Pháp.

Vào thời gian này, tại Mỹ Quốc cũng có cuộc cách mạng Hoa Kỳ. Chính George Washington, một chính trị gia lỗi lạc, một anh hùng dân tộc, đã đưa đất nước Hoa Kỳ đến chỗ vinh quang.

Việt Nam chúng ta có vua Quang Trung Nguyễn Huệ là kết hợp hai đặc điểm Thiên Tài Quân Sự của ông Napoléon Bonaparte và chính trị gia lỗi lạc của ông George Washington. Vua Quang Trung hành quân tốc chiến tốc thắng, biến hóa như thần, hiệu lệnh nghiêm minh, kỷ luật sắt thép. Từ khi làm Tướng, giữa lúc nước nhà ly loạn khắp nơi, đến khi ông mất, xông pha trăm trận bách chiến bách thắng, ông chưa hề biết chiến bại.

Chúng ta phải lập Khải Hoàn Môn Việt Nam để vinh danh vị anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ, là gương sáng cho thế hệ con cháu mai hậu noi theo. Chỉ trong 5 ngày chiến đấu ào ạt, Vua Quang Trung đã tiêu diệt 20 vạn quân Thanh, chiến thắng vẻ vang trong những trận đánh thần tốc oai hùng. Đây là một chiến công lớn lao, so sánh với chiến công của các danh tướng Đông Tây Kim Cổ trên thế giới, là niềm hảnh diện chung cho Dân Tộc Việt Nam.



2. Cuộc Cách Mạng Dân Tộc



Vào thế kỷ thứ 18, nhiều cuộc Cách Mạng Dân Tộc nổi lên khắp nơi từ Âu, Mỹ, Á. Cách Mạng Pháp 14/7/1789 lật đổ chế độ phong kiến tiếp nối qua nhiều thế hệ. Sự thống trị cha truyền con nối từ đời nầy sang đời khác bị đánh đồ, nông nghiệp phải nhường bước cho thương nghiệp. Nhiều nước đua nhau lập đội thương thuyền, tranh giành thị trường và chiếm thuộc địa.

Tại Việt Nam thời bây giờ, loạn lạc nổi lên khắp nơi như vụ loạn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Hoàng Công Chất?, quan quân địa phương dẹp không nổi.

Trong Nam, năm 1782 Nguyễn Phúc Ánh Nhà Nguyễn bị Nhà Tây Sơn đánh bại tại Ngả Bảy Thất Kỳ Giang không còn manh giáp, Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát thân ra đảo Phú Quốc. Trong trận nầy, Nguyễn Phúc Ánh cầu cứu một người Pháp tên là Manuel đem thủy quân đến giúp, nhưng không chống nổi, Manuel phải đốt tàu mà chết. Về sau, Nguyễn Phúc Ánh nhờ Giám Mục Bá Đa Lộc (Alexandre de Rhodes), đem con là Hoàng tử Cảnh đi cầu cứu nước Pháp, nhờ đem quân sang giúp, chống lại nhà Tây Sơn, khơi mào cho sự dòm ngó tìm thị trường và thuộc địa của Đế quốc phương tây. Một trăm năm đô hộ giặc Tây ! Dân Việt trải qua bao nhiêu sự đau khổ, bị áp bức, chết chóc, sưu cao thuế nặng.

Năm 1784, Nguyễn Phúc Ánh rước quân Xiêm La do hai tướng Xiêm là Chiêu Tăng và Chiêu Sương, đem 2 vạn quân và 300 chiến thuyền chiếm Rạch Giá, Ba Thắt, Trà Ôn và Mân Thít. Đi đến đâu quân Xiêm cướp bóc và quấy nhiễu đến đó, thật là tai hại.

Ở miền Bắc Trịnh Giang chuyên quyền, giết vua Lê, tàn sát các công thần. Họ Trịnh ăn chơi xa xỉ khiến công quỹ hao hụt, sưu thuế nặng nề. Cuộc tranh bá đồ vương Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài trên một trăm năm (1620-1775) làm dân chúng chết chóc, điêu linh khổ sở.

Năm 1788, Lê Chiêu Thống rước quân Tàu do Tôn Sĩ Nghị, Tổng Đốc Lưỡng Quảng, đem quân xâm chiếm Việt Nam, thiếu chút nữa nước ta bị quân Tàu đô hộ một lần nữa. Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, qua bốn lần Bắc thuộc, khởi đầu từ năm 207 trước Tây lịch, thiệt quá khủng khiếp! Người dân phải lên rừng tìm ngà voi, xuống biển mò ngọc trai, sưu cao thuế nặng dưới sự cai trị áp bức của quân xâm lược. Dân tộc Việt Nam, trải qua hàng chục thế kỷ bị đô hộ, với biết bao nhiêu sự phấn đấu vượt bực để khỏi bị người Tàu đồng hóa.

Giáo sĩ Diego de Jumilla viết: ?Để đáp ứng nguyện vọng của toàn dân, Nhà Tây Sơn đã đứng lên làm cuộc Cách Mạng Dân Tộc, lật đổ chế độ thối nát, đem công bằng và cơm no áo ấm cho dân chúng?.

Buttinger, nhà nghiên cứu lịch sử chính trị đã nói: ?Những lực lượng xã hội thời bấy giờ, như khách trú người Hoa, người Chiêm Thành, các giới nhà chùa Phật Giáo, Lão Giáo, Các Sắc Tộc thiểu số đều nhiệt liệt hưởng ứng và giúp đỡ, đưa phong trào Tây Sơn đến chỗ thành công?.

Jean Chisneaux, giáo sư sử học Pháp viết: ?Sự kiện lớn nhất đối với Nhà Tây Sơn là việc khôi phục, thống nhất đất nước, xóa bỏ việc chia cắt đất nước thành hai vương quốc Trịnh-Nguyễn đối địch?.

Trong cuốn Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu của ông Đặng Xuân Bảng, có đoạn viết: ?Trận chiến lúc bấy giờ giống như cái thế Tam Quốc bên Tàu: Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô. Ở Việt Nam Nhà Tây Sơn đã đánh Chúa Nguyễn, diệt chúa Trịnh, thống nhất đất nước?.



3. Binh Pháp Nguyễn Huệ



Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, ?Binh pháp Tôn Tử? nổi danh và được áp dụng qua nhiều thế kỷ. Các nhà quân sự phương đông và Việt Nam thường hay nghiên cứu và áp dụng binh pháp nầy, nhưng kết quả thành bại, phần lớn tùy vào khả năng và sự tài giỏi của người điều khiển.

Vua Quang Trung Nguyễn Huệ, xông pha trận mạc khắp các chiến trường, đánh vào phía nam, bốn lần bạt thành Gia Định, đánh ra phía Bắc, ba lần vào Thăng Long, thắng Chúa Nguyễn, diệt Chúa Trịnh, đánh bại quân Xiêm La, phá tan quân Mãn Thanh, áp dụng binh pháp thiên biến vạn hóa: Binh Pháp Nguyễn Huệ.

?Quân đội hùng dũng
?Kỷ luật sắt thép
?Tình báo chính xác
?Kế hoạch tinh vi
?Chuyển quân chớp nhoáng
?Chỉ huy dũng mãnh
?Trận đánh thần tốc
?Ân uy, độ lượng

Vua Quang Trung tổ chức một đội binh dũng mạnh. Ông thường nói: ?Binh lính cốt hòa thuận chứ không cốt đông, cốt tinh nhuệ chứ không cốt nhiều?.

Theo lời các nhà truyền giáo Tây Phương, quân đội của ông có tinh thần chiến đấu cao, kỷ luật sắt thép, không xâm phạm tài sản của dân chúng. Người lính được huấn luyện gan dạ, một chống nổi ba bốn nên đánh đâu thắng đấy.

?Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng?, nói lên tính cách quan trọng của tình báo. Vua Quang Trung có một đội ngũ tình báo tài giỏi, tháo vát, lại có thêm hai thủ lãnh người Hoa là Lý Tài và Tập Đình về giúp, tình báo viên len lỏi, xâm nhập vào lòng đất địch để lấy tin tức chính xác, biết quân địch muốn gì và đang làm gì.

Kế hoạch hành quân, tấn công chớp nhoáng vào địch quân là một chiến thuật thần tốc kỳ tài của Vua Quang Trung, thiên biến vạn hóa, áp dụng như thần trên các chiến trường Nam Bắc. Quân Xiêm La được Nguyễn Phúc Ánh rước về Nam Việt Nam và làm chủ tình hình Gia Định từ tháng 8 năm 1784. Nguyễn Huệ đem quân vào Rạch Gầm - Xoài Mút thuộc tỉnh Định Tường, áp dụng chiến thuật lùi để nhử địch vào các điểm chiến lược. Quân Xiêm đến, quân của Nguyễn Huệ tràn ra đánh cả hai mặt thủy bộ, quân Xiêm xoay trở không kịp, chết rất nhiều, chỉ còn vài ngàn người, tìm đường thoát thân chạy về nước.

Quân Tàu được Lê Chiêu Thống rước về Bắc Việt Nam qua ba ngả Nam Quan, Tuyên Quang, Cao Bằng và làm chủ tình hình Thăng Long từ tháng 11 năm 1788. Quân ta ít, quân Tàu đông, quân ta ở xa tới, quân Tàu đã xây đồn lũy, làm chủ tình thế. Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí viết, Vua Quang Trung tuyên bố: ?Lần nầy ta ra trận hành quân, phương lược tiến đánh đã có sẵn, chẳng qua 10 ngày là đuổi được quân Thanh?. Ông chia quân làm 3 đạo, với binh pháp Nguyễn Huệ, mẹo mực như thần, hành quân tốc chiến tốc thắng và chưa đầy một tuần lễ, đã phá tan đoàn quân xâm lược Mãn Thanh, quân ta chiến thắng vẻ vang, chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.

Một điểm khác, Vua Quang Trung điều binh rất nhanh. Ông chuyển quân vào Miền Nam, ra Miền Bắc quân thủy bộ đi rập với nhau, ăn khớp trong việc lập thế trận. Trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Trần Công Xán phát biểu: ?Người Tây Sơn hành quân như bay tiến quân rất gấp, xem họ đi lại vùn vụt mau chóng như thần, chống không thể được, đuổi không thể kịp?.

Vua Quang Trung cũng áp dụng đúng mức chiến tranh tâm lý, là để quân Xiêm La và quân Xâm lược Mãn Thanh, cướp bóc hiếp đáp nhân dân, tạo nộ sĩ trong dân chúng, với lòng căm phẫn quân thù bạo tàn. Ông là một tướng tài, một vị vua khoan dung độ lượng, lấy ân uy và đảm lược chinh phục lòng người, nên ai nấy đều kính sợ.



4. Cái Trí và Cái Dũng



Ông là người có một bộ óc thông minh lỗi lạc, một nhãn quan đặc biệt, một uy vũ khác thường. Sách Đại Nam Chính Biên Lược Truyện có đoạn tả chân dung của Vua Quang Trung Nguyễn Huệ: ?Ông ta tiếng nói như chuông, mắt lập lòe như ánh điện, là người thông minh kiên quyết, giỏi chiến đấu, người người đều kính nể?. Ngoài cái dũng của vị anh hùng tài trí, tiên phong nơi chiến trận, ông có nhiều mưu lược tùy cơ ứng biến trong các trận đánh khác nhau, từ đồi núi đến đồn lũy, từ bộ chiến đến thủy chiến, biến hóa không lường, chiến thuật điều binh chớp nhoáng, đem lại chiến thắng vẻ vang :


Đệ nhất anh hùng giữa thế gian
Dẹp tan xâm lược cứu giang san
Đống Đa giặc Mãn thây chồng chất
Xoài Mút quân Xiêm xác ngổn ngang
Kim Cổ vĩ nhân so xứng bậc
Đông Tây danh tướng sánh cùng hàng
Quang Trung thế hệ tài năng trẻ
Tô điểm nhà Nam rạng vẻ vang

Vua Quang Trung có nhiều sáng kiến đặc biệt, phát sinh từ một tinh thần Quốc Gia cấp tiến và sáng suốt về việc sử dụng chữ Nôm, một ý niệm Cách Mạng Tự chủ Độc Lập. Ông nghe ai tài giỏi hiền đức, lấy lễ Tân Sư, tức vừa coi là khách vừa coi là Thầy, mời tham gia việc nước Các bậc tài danh như La San Phu Tử Nguyễn Thiếp, Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích, Trần Văn Kỷ, Ninh Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn, Trần Bá Lâm, Võ Huy Tấn ? đều được mời tham chính. Ông chỉnh đốn triều chính, cải cách ruộng đất, cải tổ thuế khóa. Ông nghĩ ngay đến việc đúc tiền để độc lập về mọi mặt và đồng tiền ?Quang Trung Thông Bảo? được thay đồng tiền Cảnh Hưng khắp chợ cùng quê.



5. Niềm Tự Hào Dân Tộc



Dân Tộc Việt Nam tự hào về vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Thế hệ con cháu mai hậu sẽ xây Khải Hoàn Môn Việt Nam tại núi Bàn Sơn, nơi xuất quân ra Bắc đánh quân xâm lược, hay tại Gò Đống Đa, nơi chiến thắng quân Tàu để vinh danh ông. Ông là bậc kỳ tài dũng mãnh, với một thời gian ngắn kỷ lục, ông đã tiêu diệt 200 ngàn quân Thanh mau như chớp nhoáng, đến nỗi Vua Càn Long phải nể vì, mời Vua Quang Trung tham dự lễ Khánh Thọ Bát Tuần của mình được tổ chức tại Nhiệt Hà bên Tàu, để nhìn mặt thật sự và chiêm ngưỡng người đã chiến thắng vẻ vang Thiên Triều phương Bắc. Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện có đoạn nói Vua Càn Long Nhà Thanh rất vui mừng và phê ngay vào góc tờ biểu: ?Ta sắp được gặp nhau là điều mong ước lớn?.

Từ những chiến thắng vinh quang ấy, khi Vua Quang Trung tại vị, bãi việc cống người vàng thế mạng Liễu Thăng, mà nước Tàu đã áp đặt các vị vua Việt Nam, hàng năm phải triều cống từ năm Đinh Mùi 1427.

Vua Quang Trung đề cao tinh thần Quốc Gia Dân Tộc, dùng chữ Nôm thay thế chữ Hán trong các chiếu, biểu, sắc, dụ, thi phú. Những vần thơ trữ tình của Nữ Sĩ Hồ Xuân Hương, thiên trường ca Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu, bản dịch Chinh Phục Ngâm của Đoàn Thị Điểm là những áng văn chữ Nôm tuyệt tác, với sự đóng góp cơ bản thuần túy Dân Tộc vào nền Văn Hóa bắt đầu mang tích cách Độc lập, Tự chủ của Dân Tộc Việt Nam.

Hơn thế nữa, Vua Quang Trung còn chuẩn bị kế hoạch đòi lại 6 châu thuộc Hưng Hóa, 3 động thuộc Tuyên Quang, đã bị nước Tàu xâm chiếm trước kia, sát nhập vào Lưỡng Quảng. Công việc đóng tàu, đúc vũ khí, rèn luyện binh sĩ đã sắp đặt từ lâu. Sứ giả sang Tàu năm Nhâm Tý 1792, cầu hôn cưới Công Chúa Thanh Triều và đòi đất đai, là cái cớ đánh lấy lại đất, nếu Thanh Triều từ chối. Nhưng tiếc thay, khi phái bộ Sứ giả Việt Nam sang Trung Quốc thì được tin Vua Quang Trung thăng hà, sứ giả phải quay về.

Bài học Lịch Sử có đoạn:


Máu đào nhuộm thắm từng trang
Chỉ quen chiến đấu đầu hàng không quen
Em ơi nước mất bao phen
Mà phen nào cũng vang tên anh hùng

Nói lên những trang sử Việt Nam viết bằng máu và nước mắt. Nhiều vị anh hùng đã đẩy lui quân xâm lược phương Bắc như Lê Lợi, Trần Quốc Tuấn, Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ ?, nhưng chiến thắng Đống Đa của Vua Quang Trung là trận đánh kiêu hùng nhất, vẻ vang nhất, trong thời gian kỷ lục 5 ngày đã tiêu diệt 20 vạn quân Thanh, nhanh chưa từng thấy, làm quân Tàu hãi hùng khiếp sợ, làm rạng danh trang sử Việt Nam. Từ cửa ải Lạng Sơn trở lên phía Bắc, người Tàu già trẻ dìu dắt nhau chạy trốn, trên mấy trăm dặm tuyệt nhiên không có người và khói bếp.

Trong Sách Trí Thức Việt Nam cuối thế kỷ 18, ông Hồ Văn Quang viết : ? Vua Quang Trung mang một bản sắc đặc biệt, không chỉ riêng cho Dân Tộc Việt Nam mà cho cả thế giới. Đối với chúng ta, không có gì gượng gạo, là quá đáng khi ghép đằng sau tên ông những danh từ đẹp đẻ, kính trọng đầy thán phục như : Anh hùng, thiên tài quân sự, thiên tài ngoại giao, một chính trị gia lỗi lạc, một nhà cải cách xuất chúng, một vị Thánh, một vị Thần linh, vì chỉ có ông ta mới xứng đáng mang danh Đại Đế, đã đưa Dân Tộc nhỏ bé như Việt Nam có thể đạt đến đỉnh vinh quang sáng chói nhất tại vùng Đông Nam Á vào cuối thế kỷ 18 ?.

Vua Quang Trung là niềm hãnh diện và tự hào của Dân Tộc Việt Nam, là tấm gương sáng cho thế hệ tuổi trẻ tương lai, lòng tràn đầy nhiệt huyết, đang vùng dậy khắp nơi, nhận lãnh trách nhiệm đầy màu sắc hy vọng, tạo thành một sức mạnh đứng lên, đòi hỏi Tự do, Dân chủ và Nhân quyền cho Dân Tộc Việt Nam.





Tài liệu tham khảo :
?Đại Nam Nhất Thống Chí - Nguyễn Tạo
?Hoàng Lê Nhất Thống Chí - Ngô Thời Chí
?Đại Việt Sử Ký Toàn Thư - Ngô Sĩ Liên
?Việt Nam Sử Lược - Trần Trọng Kim
?Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu - Đặng Xuân Bảng
?Việt Sử Toàn Thư - Phạm Văn Sơn
?Trí Thức VN cuối thế kỷ 18 - Hồ Văn Quang
?L'hisfoire du Việt Nam - Philippe Devillers
?L'lmpire d'Annam - Gosselin



Triều Phong Đặng Đức Bích


Mục Lục


7. Năm Ngọ Nói Chuyện Ngựa.


Nguyễn Hoàng Yến


Văn chương Đông Tây Kim Cổ nói chuyện về ngựa cũng đã nhiều. Trong ký ức tuổi thơ của tôi hình ảnh con ngựa, chiếc xe ngựa vùng nhà quê dù cũ kỹ nhưng thật gần gũi và đậm nét nghĩa tình.

Từ Tân Niên Tây đi Gò Công hay về thăm quê Ngoại tôi ở Rạch Già - Tân Phước. Chúng tôi đều dùng xe ngựa. Tiếng nhạc lọc cọc, leng keng vang lên theo cách ngựa chạy nghe thật vui tai. Người ta thường tính theo đường dài để biết sức ngựa: " Trường đồ tri mã lực, sự cữu kiến nhân tâm."

" Đường dài mới biết ngựa hay,

Ở lâu mới biết con người có nhân".

Từ thời trước sức ngựa đã được dùng để tính cho các loại xe, loại máy như trong truyện của Nguyễn Vỹ có nhắc đến chiếc xe " Deux Cheveaux con cóc". Chắc không nói là xe song mã.

Ngựa thường dùng để cưỡi, để kéo xe thồ, để đua, để chiến đấu. ..

Đâu còn hình ảnh nào hay hơn hình ảnh các chiến sĩ xông pha vào trận tuyến một cách rất can trường trên lưng tuấn mã. Lúc gấp rút cần phải phi nước đại cho kịp thời điểm tấn công kẻ thù.Vì vậy, thời gian trôi qua mau người ta ví như" bóng câu qua cửa sổ". Hoặc để răn đời phải cẩn thận trong lời nói , sách xưa có câu" nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. ( Một lời đã nói , bốn ngựa khó theo.) Ngựa cũng được làm " đồng hồ" - Thí dụ mười hai giờ giữa trưa gọi là chính ngọ.

Chúng ta biết rằng : Cuộc chiến nào cũng có thắng, có bại. Nếu chẳng may ngã ngựa tử thương thì chí trai thôi vẫy vùng ngang dọc mà chiến trường da ngựa bọc thây. ( Có thể lúc đó chưa dùng quan tài?). Như Chinh phụ ngâm khúc đã chép:

"Chí làm trai dặm nghìn da ngựa..."

Trong cách làm việc , con người phải siêng năng cần mẫn trong công việc mình. Không được làm "cà lơ thất thơ " như người " cưỡi ngựa xem hoa". Nói nôm na là làm kiểu tài tử chứ không phải là chuyên nghiệp. Có khi để nhắn nhủ những người lười, làm việc qua loa cho có lệ hay quá ư nhàn nhã trong cuộc sống.

Hồi nhỏ, bà Ngoại tôi dạy cho tôi cách phân biệt màu các con vật như: chó, mèo, trâu, bò, ngựa để lâu lâu kêu lại đố.Rất vui! Mà đố có thưởng bánh kẹo. Trong tôi, tiếng Việt thật là lạ và dễ thương biết chừng nào. Bà tôi đố:

- Con mèo đen gọi là mèo gì?

-Mèo mun.

- Giỏi.

- Con chó đen gọi là chó gì?

- Chó mun.

- Sai! Chó mực. Nhớ chưa?

- Gà đen gọi là gà gì?

- Gà mực.

- Không phải! Gà ô.

- Con heo đen gọi là heo gì? -

- Heo mọi.

- Giỏi. Con ngựa đen gọi là ngựa gì?

- Ngựa mọi.

- Không phải. Gọi là ngựa ô.

Thưởng bánh kẹo cho mấy câu trả lời đúng.Bà tôi liền dạy tôi hát bài ..." khớp con ngựa ngựa ộ..Ngựa ô anh khớp...Anh khớp cái kiệu vang( vàng) ...vai mang khớp bạc... lục lạc đồng đen... búp sen lá dặm...

....Là đưa í a đưa nàng... anh đưa nàng...Anh đưa nàng.... về dinh. "

Giọng hát của bà già tuổi đã sáu mươi mà chưa hạ hơi làm tôi nghe mê tít. Nhớ luôn từ thuở lên mười. Thì ra, các thiếu nữ thời xưa đâu có lên xe hoa. Mà lên kiệu hoa hay bước xuống thuyền hoa để về nhà chồng. Nghĩ cũng thú vị thật.

Để nói đến phường vô lại ác tâm người ta dùng " đầu trâu mặt ngựa". Những người xấu thường tìm đến nhau, nhập bọn để làm điều ác. Đúng là" Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã " vậy!

Đối với những người trẻ người non dạ mà bản tính lại hung hăng được ví như "ngựa non háu đá". Còn với một người tính khí bất thường , không biết nghe theo lời khuyên đúng đắn cũng giống như hình ảnh "con ngựa bất kham". Người cứ phạm hết sai lầm nầy đến sai lầm khác, nhiều lần lập lại những lỗi lầm sẽ bị xem là " ngựa quen đường cũ".

Khi tức giận đến độ nguyền rủa nhau người ta thường cho đối phương là thứ chỉ đáng để cho " voi giày ngựa xé".

" Ngựa xé: là nhục hình dành cho tội nhân tại La Mã một thời. Nói lên tính nghiêm khắc của pháp luật. Về sau, người đời còn có hình phạt tàn khốc hơn " tứ mã phân thây": Người ta cột tay chân tử tội vào bốn con ngựa, rồi thúc cho bốn ngựa chạy về bốn hướng . Tử tội bị xé xác thành bốn mảnh. Cái chết đến nhanh và khủng khiếp là như vậy.

Khi con người càng văn minh, việc xét tội, luận tội, kết tội cũng theo trình tự rõ ràng hơn. Việc đầu tiên là người phạm tội phải đứng trước vành móng ngựa. Để khai tội rồi nhận tội và sẽ đền tội ở mức án nào đó. Vành móng ngựa là một cái khung được tạo dáng giống như hình cái móng ngựa. Sau này được hiểu nôm na là ra toà, đi hầu toà...

Trong cách đối nhân xử thế nếu chịu ơn ai chưa trả nổi người ta ước mong" Làm thân trâu ngựa đền bồi kiếp mai( sau).

Khi nói về một người một mình đối đầu với mọi khó khăn người ta hay dùng hình ảnh một người" đơn thương( thân) độc mã".

Chỉ về một người đang ở trong tâm trạng chán chường hay ê chề thất vọng thì nói : " Coi kìa! Làm gì mà cái mặt chảy dài như mặt ngựa".

Ngoài mặt thì vậy, nói đến tấm lòng quá ngay thật của một người thì được coi là" thẳng như ruột ngựa". Còn về những người có tài : sự sai phạm, lầm lỗi của họ dễ dàng được bỏ qua với lời biện luận: Thôi cứ cho qua chuyện này đi. "Ngựa hay lắm tật" mà.

Đoàn kết là cách sống tốt đẹp trong mọi lúc, ở mọi nơi và mọi hoàn cảnh. Được ví von trong hình ảnh: "Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ". Con người cũng cần học hỏi điều nầy: Hãy quan tâm, cảm thông, sẵn sàng giúp đỡ, yên ủi người khác.

Trong thơ Bà Quyện Thanh Quan có những câu mà tôi rất thích:

Lối xưa xe ngựa, hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài, bóng tịch dương,

..................................................

Nghìn năm gương cũ soi kim cổ

Cảnh đấy, người đây luống đọan trường.

Đó có phải là tâm trạng của người xa quê hương trong một lần về thăm chốn cũ? Tất cả đã đổi thay. Người xưa không thấy! Mãi mãi là hoài niệm xa xôi!

Đặc biệt vào ngày khai trương một cơ sở thương mại hay tiệc mừng nhà mới bao giờ gia chủ cũng nhận được bức tranh " Mã đáo thành công" . Có khi giát vàng. Có khi là tranh bút lửa, tranh sơn mài, hay tranh ghép gỗ. Những bức tranh như vậy sẽ được treo lên tường:Ở chỗ trang trọng nhất mang theo kỳ vọng của chủ nhân: Thành công trong việc làm! Để rồi khi mọi sự hanh thông, cuộc sống giàu sang phú quí lúc nào cũng " lên xe xuống ngựa".

Thời Tam Quốc có con ngựa quý mang sắc lông đỏ rất nổi tiếng gọi là ngựa xích thố. Mỗi ngày đi nghìn dặm nên còn gọi là thiên lý câu, là chiến mã giỏi do Tào Tháo đem tặng cho Quan Công. Quan Công đã cỡi con ngựa xích thố nầy qua năm cửa ải , chém sáu tướng giặc. Ngoài Lữ Bố là chủ trước và Quan Công ra, không ai dùng được con ngựa này. Nó rất trung thành. Khi Quan Công chết, xích thố cũng buồn, ít lâu sau thì chết theo....

Con ngựa có nghĩa vậy đó. Sao con người có lúc đối xử với nhau không tử tế? Trong tình yêu trai gái các bậc làm cha mẹ thường dặn dò con gái của mình:

" Chớ nghe quân tử ỉ òn,

Mà rồi có lúc ẳm con một mình."

Không hiểu sao con gái lại hay yếu lòng quá đỗi. Thành ra lâu lâu nghe có một anh chàng" quất ngựa truy phong". Thiệt là tệ!

Còn nữa! Những người vợ có máu Hoạn Thư thường gọi tình địch( kẻ thứ ba) là " Đồ... ngựa" hay là " ngựa bà".Quả là tội nghiệp cho con ngựa.(!)

Tương truyền rằng vào đời Hùng Vương thứ sáu, giặc Ân từ phương Bắc xâm chiếm nước ta. Vua sai người tìm những hiền tài ra giúp nước. Tại làng Phù Đổng (còn gọi là làng Gióng) có cậu bé xin Vua ban cho cây roi và con ngựa sắt. Chỉ một cái vươn vai cậu bé lớn lên như một người trai hùng. Cưỡi ngựa sắt, cầm roi xông pha tiêu diệt giặc Ân.Rồi bay thẳng lên trời.

Vua Hùng Vương nhớ ơn nên cho lập đền thờ và phong cho chàng làm Phù Đổng Thiên Vương.( còn gọi Thánh Gióng).

Lịch sử Việt Nam có chép:

Thời vua Trần Nhân Tông quân dân cả nước đã hai lần chống quân Nguyên. Mà theo sử gia Ngô Sĩ Liên : Vua Nhân Tông hai lần chiến thắng giặc ngoại xâm. Sau khi thắng trận Bạch Đằng Giang Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và Vua Trần Nhân Tông cùng triều thần đến hành lễ tại lăng mộ Trần Thái Tông, thấy chân các ngựa đá trước lăng lấm bùn nhà vua đã đọc hai câu thơ:

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,

Sơn hà thiên cổ điện kim âu.

Dịch là:

Xã tắc hai phen bon ngựa đá,

Non sông ngàn thuở vững âu vàng.

Có quá nhiều câu chuyện về ngựa nói làm sao cho hết đây.

Cha tôi rất sành uống trà. Người có bộ tách trà bé xíu. Gồm bình trà rất nhỏ. Hai cái tách cũng nhỏ. Ông thường uống trà với ông bạn già đầu phố. Ông bảo thời giờ đối ẩm thật là tuyệt trong đời sống ông.

Người có kể tôi nghe về loại trà thượng hảo hạng: Trảm mã trà. Ông bảo: Dù chỉ là nghe nói thôi chứ chưa hề được uống. Tưởng tượng đủ ngon.Bởi loại trà nầy chắc chỉ để dành cho các bậc đế vương. Phương cách chế biến quả là quá công phu và nghệ thuật. Rồi ông cười, nói tiếp:

- Này nhé , cho ngựa nhịn đói. Dắt ngựa đi chậm. Đi vào rừng trà bát ngát một màu xanh. Cho ngựa tha hồ ăn những búp trà non. Chém đầu ( trảm ) ngựa để moi bao tử lấy trà. Sao (sấy) cho thơm... Công phu thật.

Ở đây trà đàm không có, trà đạo cũng không. Thường là độc ẩm. Về sau này, cha tôi thường ngồi lặng lẽ uống trà một mình. Tách trà nhỏ quá. Những giọt trà đậm đặc như cô đọng nỗi buồn mênh mang của ông trên đất Mỹ.

Nguyễn Hoàng Yến


Mục Lục


8. Tết Ở Quê Mình


Hai Hùng SG


Hằng năm , cứ sau ngày lễ Noel khi cái không khí lạnh ùa về thành phố thì y như rằng mọi công việc chuẩn bị cho ngày tết Nguyên đán cũng dần dần xuất hiện , những vùng trồng trọt đã có các loại bông hoa như : Mai , Cúc .Vạn thọ, Mồng gà, Mãn đình Hồng .v.v...được các nhà vườn chăm sóc kỹ lưỡng nhằm tung ra bán đúng dịp tết , thức đêm thức hôm , tưới nước , bón phân cực khổ như vậy mà năm nào bông hoa có giá hoặc hút hàng thì nhà vườn có được cái tết tươm tất , năm nào thời tiết thuận lợi nên số lượng hàng hóa dồi dào làm cho giá các loại hoa tụt giảm thê thảm ,khiến họ bán mãi đến tận chiều ba mươi tết mà vẫn còn ê hề , nhiều người bán những chậu hoa này họ lặng lẽ ?chuồn êm? để lại bên vỉa hè những đóa hoa sầu muộn , thì cũng là lúc những gia đình nghèo nơi phố thị rủ nhau ra chợ ? Ẳm ? vài ba chậu về nhà chưng cho có cái không khí tết với thiên hạ , còn những kẻ bỏ của chạy lấy người kia trở về quê với nỗi buồn man mác để rồi ăn cái tết có khi với cả đống nợ trên vai , nghĩ mà thương cho những người một nắng hai sương làm đẹp cho đời mà đôi khi bị đời trả lại đắng cay và tủi nhục ..

Còn nhiều loại hàng hoá khác dành cho ngày tết nữa , nếu liệt kê ra đây tôi e rằng kể lể cả trăm trang giấy cũng không đủ , nên tạm thời kê bấy nhiêu thôi để còn thời giờ cùng tôi trở về những cái tết của thập niên sáu mươi trên quê hương mình các vị nhé .

* * *

Khi cái mùi khói nhang và mùi khét của giấy tiền vàng bạc , giấy Cò bay Ngựa chạy được đốt lên tiển gia đình Táo quân về chầu Ngọc Hoàng thì không khí tết Nguyên đán đã ngấp nghé bên thềm , và khi được cắn những cục kẹo ? Thèo lèo , cứt chuột ? và nhấp nháp vài ngụm trà sen , trà lài thì đám trẻ con chúng tôi ngày ấy mừng vui khôn xiết vì hồi ấy trẻ con nhà nghèo như tụi tôi mới thấy được hết cái vị béo của mè đen trong cục ? cứt chuột? , cái dòn dòn ngọt ngọt của những cục thèo lèo , thời bấy giờ tuy không phải bị thiếu ăn , đói khổ nhưng các gia đình nghèo chỉ dám dồn sức mua sắm cho ngày tết được tươm tất , còn trong năm thì ăn uống đạm bạc , chi tiêu dè sẻn mới đủ tiền lo cho mọi việc trong gia đình.

* * *

Rằm tháng chạp là cái thời khắc bà con có trồng cây Mai trong sân nhà thường hay lặt lá , nói như vậy thì cũng không được đúng cho lắm , vì còn phải tùy theo thời tiết , tôi nhớ không lầm thì năm nào mà trời se lạnh kéo dài thì đa số người ta lặt lá trước ngày rằm tháng chạp cả tuần , còn như trời nóng bức thì lặt lá sau ngày rằm một vài bửa để nhằm cho nụ hoa Mai đủ sức nở ngay vào dịp tết , chưa hết đâu cây Mai còn phụ thuộc vào nước tưới nữa, nếu chưa đến tết mà nụ Mai khá to thì hạn chế tưới nước vô gốc , chỉ dùng bình xịt phun sương vào nụ Mai cho có hơi ẩm để tránh nụ Mai khô nước sẽ bị rơi rụng , và điều cần thiết nhứt là cây Mai phải được trồng nơi có nhiều nắng , không được trồng trong bóng râm , vô phân tưới nước , tỉa cành và thay đất sau một hai năm sau tết để đất mới cung cấp đủ khoáng chất cho bộ rễ thì năm sau mới có được một chậu Mai tốt .

Tôi còn nhớ nhà bà bốn bên cạnh nhà ba tôi có trồng hai cây Mai , không hiểu ông Bốn trồng khi nào mà hai cây Mai này thân nó thật to và cao , cành lá thì sum xuê y như cây cổ thụ thu nhỏ , năm ấy trước rằm tháng chạp cả tuần , ông bà Bốn kêu con cháu trong nhà và những người hàng xóm gần đấy đến để phụ lặt lá vì cây quá nhiều lá gia đình ông làm không xuể , đến ngày hẹn hầu như cả xóm xúm lại quanh hai cây Mai đông nghịch , trẻ con như tôi thì bắt ghế đẩu vói tay lặt những cành gần dưới gốc còn thanh niên trai tráng lực lưỡng thì dùng thang tre dựa vào thân cây leo lên phía trên cao để tuốt những chiếc lá nằm cheo leo trên đó , chừng hơn hai giờ sau thì cây Mai chỉ còn trơ lại những cành khẳng khiu lay động trước gió ,ngạc nhiên về điều này thằng Cảnh cháu cậu Tư Tắc xi thắc mắc nói :

- Cây Mai lá tốt ghê mà ông Bốn cho lặt bỏ hết uổng quá trời luôn vậy đó .

Con Tốt cháu ngoại của bà Bốn lên tiếng chọc thằng Cảnh , rồi giải thích cho nó biết :

- Thôi khùng quá ông Cảnh ơi , nói như ông để y sì mấy cái lá trên cành thì tết
? Ma rốc ? cũng chưa có cái bông nào nở nữa nói chi là Tết .

Con Tốt đang nói nữa chừng rồi nó tằng hắng mấy tiếng làm ra vẻ trịnh trọng như cô giáo đang dạy đứa học trò của mình , sau đó con Tốt tiếp tục nói :

- Ông Cảnh biết không ? Ông ngoại tui nói : ? lặt lá cũng như thay áo mới cho cây để trong nách lá nó tức mới nhảy ra những cái nụ nhỏ , rồi nhựa sống trong thân cây thay vì nuôi lá nó bắt đầu nuôi mấy cái nụ này thì mới có hoa nỡ trong ngày Tết ? biết chưa ông kẹ ?.

Thằng Cảnh nghe con Tốt giảng giải như trên làm đầu óc nó sáng ra , nó lí nhí chống chế :

- Vậy hả ? Ai biết đâu nè tui tưởng ....

Thằng Cảnh chưa kịp dứt lời , thằng Thành nhảy vô họng nó liền ;

- Tưởng .. Tưởng cái con khỉ khô , cái vụ đó dễ ẹc mà ông còn không biết nữa , thì làm sao ông biết được những chuyện khác .

Nghe mấy đứa nhỏ ồn ào , ông Bốn xua tay ngăn lại rồi ông bảo :

- Thôi xong rồi mấy cháu hốt hết lá Mai đem lại chổ đóng un bà Bốn đang đốt kìa , bây tới cái lu múc nước rửa tay sạch sẽ rồi vô ăn bánh mì , ông có nước đá chanh nè,bửa nay ông mua được mấy chục ổ bánh mì ? lò đầu ? ngon lắm , có phô mai nữa nghe bây , cứ ăn cho ? Thải mái ? , tết nhứt mà lo gì thiếu thốn .

Đang ăn uống vui vẻ , mọi người bàn tán và chắc mẫm rằng :

- Hai cây Mai của ông Bốn năm nay vô địch luôn nghe mấy ông , trởi ơi tui thấy nụ nó mọc nhóc trên cành , Hoa Mai nở xong khi rụng xuống đất cánh Mai vàng cả khoảnh sân , ai có máy chụp hình lúc đó chụp vài pô kỷ niệm đẹp lắm đó .

Liền khi đó ông Bốn sai thằng Trọng cháu ngoại của ông chạy vô nhà bưng bộ lư đồng và hai cặp chưng đèn ra sân , ông Bốn trải chiếc đệm dưới gốc cây lê kiu ma làm nơi lau chùi bộ lư đồng , bộ lư của nhà ông Bốn cũng thuộc hàng đồ cỗ quý hiếm vô cùng , năm nào cũng có vài ba chú Chệt ở Chợ Lớn quảy gánh ve chai vô gạ gẫm ông Bốn để mua bộ lư này , xui cho mấy chú Chệt , ông Bốn là người giữ gìn chăm sóc những món đồ xưa trong nhà như của gia bảo , vậy mà mấy tay này dám đề nghị ông bán nó đi , khiến ông nổi trận lôi đình , đuổi mấy chú chạy ra khỏi nhà không kịp thở .

- Ngoại ơi , bộ lư còn bóng lắm lau sơ sơ cho sạch bụi thôi nghe ngoại .

Nghe thằng cháu ngoại ham chơi bàn ra không chịu lau chùi kỹ lưỡng theo ý mình , ông Bốn ? bố ? cho thằng Trọng một trận :

- Con sao hư quá , ông dặn sao con làm vậy đi , con làm dối thì bộ lư sao đẹp được , con coi bộ lư nhà chú ( Hai Cho ) kìa , con Hồng với chú Hai chùi mới tinh sáng loáng , vậy mới được chứ thôi lau nhanh lên đi rồi phụ bà ngoại con lau lá gói bánh tét nữa đó .

Mới mờ sáng hai mươi chín tết , tôi nghe tiếng con heo nhà bà Bốn kêu en éc,giật mình không hiểu chuyện gì nhưng trong bụng tôi thì nghĩ:

? Không chừng mấy ông ăn trộm vô khiêng con heo của bà bốn không chừng ?

Con heo của bà Bốn nuôi khá lâu , nhớ dạo nọ mấy bà ? di cư ? gánh hai cái lồng sắt mỗi bên ba bốn heo con , khi đi ngang nơi tôi ở mấy bà cất tiếng rao :

- Lợn con đây , giống tốt ? dọt sia ? thứ thiệt đây , mời bà con mua dùm

Các bà cất tiếng rao hàng lanh lảnh , đầu trên xóm dưới đều nghe , Bà Bốn chạy ùa ra xem hàng , sau một hồi sờ nắn ,vuốt ve cuối cùng bà Bốn nắm hai chân sau một chú heo rồi nói :

- Tui mua con này , mấy con kia coi bộ không mạnh bằng thằng Đực này đâu

Sau một hồi trả giá , kì kèo bớt một thêm hai , bà Bốn cũng có được thằng Đực con heo mà với bà nó mạnh nhất trong đám heo con kia . có heo rồi phải có chuồng nuôi nhốt nhưng ngặc một nổi nhà bà Bốn thì cũng không được rộng rãi cho lắm, chỉ có được cái sân nhỏ sau bụi chuối cạnh sàn nước nhà bà là còn trống , bà Bốn nhờ chú Năm Hải thợ hồ ngụ ở xó trên láng dùm một nền xi măng có trải một lớp hồ dầu láng mượt , chú Năm trồng bốn cây trụ sắt ấp chiến lược làm bốn cây trụ của chuồng rồi để đó , bà Bốn nhờ ông tư Tỉnh đạp xe ba bánh xuống trại cưa cạnh cầu Băng Ky mua mấy tấm ván bìa được xẻ ra từ những lóng cây to trên rừng mang về . Vật liệu đơn sơ như thế mà ông bà Bốn cũng đóng xong cái chuồng cho thằng Đực có nơi ăn chốn ở đàng hoàng , thằng Đực lớn nhanh như thổi bởi bà Bốn cưng nó vô cùng , bà nấu những nồi cháo thật to , nào là đầu tôm , cá vụn bà bầm nhuyễn ra nấu chung với cám gạo ,chuối cây , rau cỏ khi bà Bốn múc cháo đỗ vào máng thằng. Đực ăn nhanh chóng, và do bà Bốn siêng năng tắm táp chăm sóc thằng Đực như đứa con mình , khiến cho cô Sáu Láng con của bà Bốn ? cà nanh ? :

- Con thấy má quý cái thằng ng Đực này hơn con nữa nha , con gái má bị cho ra rìa rồi phải hôn ? .

Nghe cô Sáu trách mình bà Bốn cười móm mém , phun vội miếng trầu đang nhai rồi nói :

- Cái con này cha bây , thằng Đực này nó mau lớn bây nên mừng chứ ở đó mà cà nanh , tết nhứt là nhờ nó dữ lắm đó con .

Cô Sáu ngây thơ hỏi lại :

- Trời ! Nó là heo chứ đâu phải người ta đâu mà nhờ hả má .

- Chừng đó bây sẽ biết , thôi vô tắm rửa lo đi học đi con , mầy ráng học mai mốt má còn nhờ tấm thân nữa chứ ...

Thằng Đực được chăm sóc cẩn thận vô cùng , tôi ít khi nghe nó làm ầm ỉ vì. Nó chưa kịp đói thì bà Bốn đã cho nó ăn rồi , có lần nó la làng lớn nhất khi ông già làm nghề thiến heo leo vô chuồng thiến nó theo yêu cầu của bà Bốn . Vậy mà hôm hai mươi chín tết năm đó tiếng kêu thằng Đực vang lên đinh tai nhức óc , tôi chạy nhanh qua chuồng heo nhà bà Bốn , tôi hoảng hốt vô cùng vì đây là lần đầu tiên trong đời tôi thấy người ta làm thịt heo tại nhà ,bà Bốn thì ngồi thất thần trong góc bếp , tôi thấy trên gương mặt bà Bốn ràn rụa nước mắt , bà nuôi nó lâu ngày nên mến tay mến chân , nay cũng vì Tết nhứt mà ngyười ta đành hoá kiếp nó thử hỏi sao bà Bốn không khỏi đau lòng ?

Họ cạo lông , xẻ ra từng tảng thịt đỏ ối tươi rói , đầu , lòng chân giò được họ bỏ vào nồi nấu một nồi cháo thật to , họ cho huyết vào nồi cháo để chút nữa khi làm thịt thằng Đực xong thì họ cùng nhau thưởng thức nồi cháo huyết thơm lừng ...

* * *
Chiều Hai mươi chín Tết , tôi đang phụ ba tôi lau chùi , trang trí chưng dọn bàn thờ gia tiên trong nhà , khi trời nhá nhem tối thì công việc cũng xong , năm nay ba tôi mua mấy sợi dây đèn chớp tắt treo chung quanh bàn thờ , cặp đèn cầy trên bà thờ cũng to hơn cặp đèn năm rồi , bánh trái được chưng lên đủ màu thật vui mắt , nhưng tôi thích nhất là hai phong bánh in và cặp hộp trà và hai thước pháo , vì chúng được gói trong giấy kiếng đỏ , mà màu đỏ thì thích hợp với ngày tết vô cùng , chẳng hạn dưa hấu , pháo , bao lì xì , bông mồng gà, câu đối v.v.. Cái nào cũng màu đỏ , có lẽ theo quan niệm dân gian màu đỏ biểu tượng cho sự hên , sung túc , đầm ấm nên được mọi người ưa chuộng chăng ? .

Đang mãi nhìn cái thành quả sau những giờ phụ với ba tôi , thì ngoài ngỏ có tiếng gọi vang lên :

-Phương ơi ! đi chợ tết với tụi tui nè , chợ Tết đêm cuối đó , đông vui lắm đi cho biết với thiên hạ .

Nghe tiếng mấy đứa bạn trong xóm réo gọi phía trước nhà , tội lật đật xin ba cho mình theo đám bạn du xuân một chuyến cho biết cái không khí chợ tết về đêm ra sao . Ba tôi cho phép và không quên cho tôi một đồng để dằn túi , ba nói :

- Công việc nhà cũng xong hết rồi , con đi với mấy bạn cho vui , cầm tiền theo có mua gì chút đỉnh thì mua , nhớ về sớm , đi đứng coi chừng lẫn nhau kẻo lạc .

Tôi dạ rân sung sướng chạy ù ra sân , giống như lũ chim được quý bà quý cô mua từ những người bán ở lăng Ông bà Chiểu để phóng sanh , khi cánh cửa lồng vừa hé mở , các chú chim lần lượt tung đôi cánh mỏng vào khung trời bao la rộng lớn .

Cả đám chúng tôi gần chục đứa , tung tăng cười nói cùng nhau cuốc bộ lên chợ , từ nhà chúng tôi đến chợ cách chừng hai cây số , với trẻ con thời bấy giờ quãng đường như thế chúng tôi cảm thấy khá xa ,nhưng đêm hôm ấy nó thật gần , mới dăm ba câu chuyện với nhau trên đường thì chúng tôi đã đến gần chợ rồi , trên đường đi bà con đủ mọi giới đổ ra đường kẻ ngược , người xuôi đông đúc vô cùng , ngày thường đôi lúc tôi thấy họ di chuyển vội vã , nhưng đêm ấy dường như không gian dừng lại , mọi người chen chúc mua mua bán bán thật náo nhiệt , đến gần cổng chợ tôi thấy gần bến xe Thổ mộ , những giỏ hoa Vạn thọ , hoa Thược dược Hướng Dương được các chú ? sà ích ? chở từ vùng Thông Tây hội đem xuống , họ chất đầy hai bên vệ đường , những cây Mai được bứng lên mang theo cả bầu đất được dựng lên thành hàng , những nụ hoa Mai to và bóng lưỡng , chắc chắn sẽ nỡ kịp đúng ngày tết , nhiều người khách đến xem và mua , mọi người trầm trồ khi thấy một ông nhà giàu nọ ? rinh ? ra xe ?cyclỏ máy bốn gốc Mai già , ông ta trả cho người bán cả trăm đồng gì đó làm thằng Cảnh bạn tôi nó? lé mắt ? ghé vào tai tôi nó thì thầm :

- Cái ông này chắc nhà giàu lắm mầy ơi , cả trăm đồng nhà tao ăn chắc ba bốn tháng mới hết , xài gì sang thiệt ta ? Tao có tiền nhiều chắc cũng chẳng dám mua như ổng đâu .

Tôi xô nhẹ thằng cảnh ra rồi nói vừa đủ cho nó nghe :

- Người ta giàu mua nhiêu đó ăn nhằm gì mầy ơi , tụi mình nghèo thấy bạc trăm như cả gia tài , mầy ráng học đi , lớn lên làm công chức thì thiếu gì tiền mà xài .

Đang mãi mê ngắm nhìn những cây Mai có dáng tuyệt đẹp , tôi nghe đứa bạn kêu làm tôi bừng tỉnh :

- Nè ông Phương theo tụi tui vô chợ đi , ngắm gì ngắm dữ vậy , mấy cây Mai này thua hai cây Mai ông Bốn xa lắc hà ông ơi.

Tôi không hoàn toàn đồng ý với nhận xét của thằng Lập , tôi nói :

- Về gía trị thì cây Mai ông Bốn là vô địch rồi , nhưng mấy cây Mai này họ tạo dáng và uốn những cành rất nghệ thuật tui thấy nó lạ mới nhìn hoài đó chứ , thôi mình đi đi .

Đầu cổng chợ người ta trang trí cái cổng chào tuy đơn sơ nhưng nó gần gũi vô cùng,họ dùng Cỏ tranh , tre , lá dừa , dây lạt buộc thành cổng chào có cái mái tranh nhỏ bên trên trông thật đẹp , bước qua cổng chào những trái dưa hấu được chất đống cao nghiệu , những trái dưa thật to da xanh bóng lưỡng , khi đi ngang qua chúng tôi được bà bán dưa mời nếm thử , những miếng dưa xanh vỏ đỏ lòng ăn vào rất ngọt nghe mát cả trong lòng, ăn miếng dưa này tôi chợt nhớ lại truyện đã học ử trường về sự tích quả Dưa hấu , liên tưởng đến hòn đảo hoang vu nào đó nơi chàng Mai An Tiêm và. Công chúa bị vua cha đày ra đảo , những tưởng họ sẽ dần dà gục ngã khi không còn luơng thực để sống , vậy mà từ sự khám phá ban đầu , rồi những ngày gieo hạt chăm sóc cho đến ngày thu hoạch những trái dưa hấu thật ngon , họ đã được vua cha tha tội và cho đón về sống lại cuộc sống như xưa.

Rời hàng dưa sau khi mua vài trái chúng tôi lần lượt di dài dài vào trong chợ , hàng hoá phong phú vô cùng , bánh mức , lạp xưỡng , trái cây , quần áo . V.v ..

Đến gian hàng nọ hai ông ? Cắt chú ? bán những tấm nhựa in hình bông hoa sặc sỡ, có tấm in hình phong cảnh , mục đồng cưởi trâu thổi sáo , hoặc hoa văn lạ mắt vô cùng , tôi đứng tần ngần hồi lâu muốn mua một tấm nhựa để trải lên mặt cái bàn nước phía nhà trên , nhưng nghỉ lại với một đồng trong túi thì chắc chắn không đủ để tôi thực hiện điều mình muốn , thôi thì tôi sẽ nói mẹ tôi mua vào sáng ba mươi vậy .

Lòng vòng trong chợ cả buổi , chẳng mua sắm được gì thêm , khát nước khô cả cổ họng chúng tôi vào hàng bán nước đá bào si rô , mỗi đứa mua một cục , đứa thì thích mùi bạc hà , đứa thì thích mùi dâu , riêng thằng Cảnh thì chơi trội , nó gọi bà chủ bán cho một chai nước sá xị con Nai hiệu Phương Toàn , nó cầm cái ly sóng sánh đầy nước sá xị , bên trong vài cục nước đá va vào thành ly khi nó cầm cái muỗng khuấy nhẹ lên khiến rôi thèm thuồng được hớp dù một ngụm cũng đủ đã thèm , thằng Cảnh nó dốc cái ly vào miệng uống ừng ực , chừng thấy tôi chăm chú nhìn nó hình như nó đọc được tâm trang của tôi , bổng dưng nó ngưng uống và trao cho tôi phần còn lại của ly nước nọ nó nói :

- Đã thiệt , nè làm một miếng đi ông Phương , lâu lắm rồi tui mới được uống nước này đó .

Thật đúng là ? Buồn ngủ mà gặp chiếu manh ? , tôi đỡ lấy ly sá xị đưa lên miệng uống một hơi sạch cả ly , hơi gaz và mùi sá xị cay nồng nhưng ngon ngọt vô cùng , chưa kịp trả lại thằng Cảnh cái ly thì tôi nghe tiếng nó càu nhàu :

- Cái ông này ngộ ghê chưa ? Uống chút đỉnh cho biết mùi thôi , ông uống ráo nạo rồi còn đâu nữa cho mấy đứa kia nếm thử

Không thèm trả lời thằng Cảnh , tôi nói thầm trong bụng :

? Đưa người ta có chút xíu hà , uống chưa thấm giọng nữa lấy đâu cho mấy đứa kia uống ?

Đến cuối đầu chợ trên , ở phía ngả ba đường , nơi có Trường ( Chánh ) ngôi trường tiêu học thời bấy giờ , đối diện là Chùa Bà Thiên Hậu cổng chùa rộng mở , đèn duốc thắp sáng choang , những vòng nhang được treo trên cao cháy lập lòe khói tỏa ra mùi thơm nhẹ , bà con xa gần đến viếng chùa đông nườm nượp suốt từ rằm tháng chạp đến hết rằm tháng giêng, tôi nghe những cô bác lớn tuổi nói ngôi chùa này tọa lạc nơi đây hơn trăm năm và linh thiêng vô cùng , mỗi khi có chuyện oan ức , hoặc gặp khó khăn trắc trở gì đó bá tánh kéo nhau đến chùa để cầu xin phù hộ tai qua nạn khỏi , nghe nói có những người cầu nguyện được bà độ rất hiển linh nên họ mang vàng lễ , heo quay , vải vóc đến cúng tạ ơn bà ...

Đang loay hoay cả bọn chúng tôi chưa biết đi đâu , Bổng thằng Thành nó chỉ tay vào góc nhà Dây thép ( tức Bưu điện ngày nay ) có nhiều người ngồi chơi món ? Bầu cua cá cọp ) nó nói :

- Cái này chơi vui lắm , mình qua đó thử thời vận xem sao mấy ông ơi !

Chúng tôi xúm lại một bàn bầu cua , ông chủ mặt mày có hơi dữ dằn , tôi véo tay thằng Thành định kéo nó sang bàn bầu cua kế bên do hai người trung niên ăn mặc lịch sự làm chủ , nhưng con ma cờ bạc trong thằng Thành dường như nó xúi giục phải ở lại nên thằng Thành nó phủi tay tôi rồi móc tiền đặt lia lịa vào những con vật bên dưới , mấy đứa đi chung cũng hào hứng tham gia trò đen đỏ này , mỗi lần ông chủ dỡ cắi nắp ra , ba hột bầu cua như trêu người chơi , vì hể đặt con này thì nó ra con khác , ít khi người chơi đánh trúng con vật do chủ lắc Bầu cua dỡ ra , lần lượt các bạn tôi bị cháy túi mặt mày bí xị , riêng tôi phần vì có ít tiền , phần vì không quen với môn chơi này nên tôi vẫn còn giữ nguyên đồng bạc của ba cho , nhưng tôi cũng chơi bầu cua đó chứ , tôi thầm đặt tưởng tượng vào những ván bầu cua , lần nào ông ta dỡ cái nắp đều có con vật mà tôi đã chọn , thấy dễ ăn tôi định lấy tiền chơi thiệt một phen , nhưng biết đâu thắng đâu chẳng thấy nhưng thua cháy túi như mấy đứa bạn chắc tôi sẽ buồn lâu lắm , về sau này khi lớn thêm vài tuổi nữa thì tôi mới hiểu ra rằng , đã tham gia vào cờ bạc thì cơ hội thắng về cho mình rất mong manh , vì người đời có câu ? Cò gian , bạc lận ? ai vướng vô con đường này thì không sớm thù muộn mang lấy nỗi buồn khôn nguôi khi nhìn thấy tài sản của mình lần lượt đội nón ra đi , khi muốn dừng lại thì đã quá muộn màng , khi rời khỏi bàn bầu cua tôi lấy lời hơn lẽ thiệt an ủi mấy đứa bạn , tôi mong tết nhứt có thử thời vận thì chơi chút đỉnh cho vui , đừng nổi máu ăn thua mà vô tình mình cống nạp tiền của cho đám người chuyên nghiệp trong nghề cờ bạc các bạn nhé ...

* * *

Ngồi quay quần bên nồi bánh tét cao nghiệu của nhà ông Bốn nấu , chúng tôi nghe ông bà Bốn thay nhau kể chuyện dời xưa cho chúng tôi nghe , nào là Phạm Công cúc Hoa , Lâm sanh , xuân nương , Nàng út ống Tre ..v,.v...

Ngồi canh lửa canh nước cho nồi bánh tét , trời gần sáng thì con mắt chúng tôi đứa nào cũng lờ đờ , miệng ngáp dài ngáp vắn , vậy đó nhưng khi ông Bốn lột mấy đòn bánh đầu tiên xếp ra cái dĩa bàn to tướng , mùi bánh thơm hấp dẩn vô cùng khiến tôi có cảm giác có lũ kiến đang bò trong bụng . Khi ông Bốn nói cái câu :- Ăn thử bánh đi mấy đứa .Thì cơn buồn ngủ trong mổi đứa nó tan biến đâu mất , ông Bốn đãi chúng tôi những đòn bánh đầu tiên , cái béo của thịt mỡ , cái bùi bùi của nhưn đậu xanh , cái dẽo của nếp và mùi thơm đặt biệt của lá chuối khiến chúng tôi ăn một cách thật ngon lành ...

Khi cắn vào miếng thịt heo trong nhưn bánh , tôi chợt nhớ đến cái giảy giụa của Thằng đực , tôi nhớ lại khuôn mặt ràn rụa nước mắt của bà Bốn , chợt nghe mằn mặn trên môi , tôi thật sự chạnh lòng khi những hình ảnh của thằng Đực và bà Bốn của năm nào nó tái hiện lại trong tôi mổi khi tết đến xuân về , ông bà Bốn giờ đã thành người thiên cổ từ lâu , hương hồn của thằng Đực có lẽ nó đã được đầu thai kiếp khác , bây giờ cái đám trẻ chúng tôi đứa nào còn hiện diện trên cỏi đời này đều hoa râm đầu bạc , riêng cô Sáu Láng con bà Bốn mỗi sáng thường sách giỏ đi chợ ngang nhà tôi , tôi chận cô lại và nhắc lại câu nói ngày xưa của cô Sáu :

- Má cưng thằng Đực hơn con gái má rồi đó , con gái má ra rìa rồi phải không ?

Cô Sáu cười thật to và lấy cái giỏ nhựa để đi chợ quơ về phía tôi một cái rồi cô nói :

- Cái thằng quỷ Phương này nha , chuyện mấy chục năm rồi mà mầy còn nhớ hay thiệt , tết nay lại nhà cô , tao cho bây ăn bánh tét mệt nghỉ nghe bây.

Tôi cũng cười theo cô Sáu , bất giác hình ảnh xưa mấy mươi năn nó ngồn ngộn quay về , tôi thầm nói :

- Ôi thương lắm nhé Tết ở quê mình .

Nắng xuân chiếu rọi xuống mọi ngả đường , gió mang hơi lành lạnh lay động cành Mai trước ngõ , thêm một mùa xuân nữa Tết lại đến với quê mình .

viết xong chiều 26 tết Quý Tỵ 2013

Kính chúc bà con khắp nơi năm mới nhiều sức khoẻ , may mắn và thành đạt


Hai Hùng SG


Mục Lục


9. Tùy Bút mùa Xuân : Má Ơi


Môi Tím




Lại thêm một cái Tết nữa lại đến với chúng ta. Mùa xuân đến, lại thêm một tuổi , thêm một năm mới chất chồng những khó khăn của cuộc sống hiện tại.. Nhưng mỗi mùa xuân qua, nhìn khung cảnh rộn ràng chuẩn bị đón Tết đến.. lại đưa tôi vào những kỉ niệm ngày xưa của gia đình tôi .

Tôi là đứa con thứ sáu trong gia đình, sau tôi còn ba đứa em trai nữa. Cả lũ toàn là đực rựa lưng dài tốn vải ! Cũng giống như những gia đình đông con cái khác chỉ có đứa con đầu lòng và đứa út cuối cùng là được ba má cưng chiều hơn hết. Điều đó cũng không ngoại lệ trong gia đình tôi. Tôi cũng chẳng lấy đó làm điều bận tâm vì tôi là một người đàn ông, mà đàn ông thì đâu cần phải tính toán chi li ba má mình thuơng ai, nhiều hay ít.

Tôi rời Việt Nam đi vượt biên cùng thằng em trai út và gia đình ông anh cùng cha khác mẹ. Điều nầy thật bất ngờ với cả gia đình chúng tôi , khi từ đâu lù lù xuất hiện một ông anh có chung huyết thống của ba mà cả gia đình chúng tôi chẳng hề hay biết !

Anh tìm ra ba tôi trong lúc gia đình tôi đang náu thân ở vùng kinh tế mới với những khó khăn chồng chất mà bất cứ gia đình nào đi kinh tế mới cũng phải đương đầu. Khi đó, gia đình tôi, ba má tôi nghĩ gì và cư xử thế nào thì tôi chẳng rõ.. Nhưng chắc chắn đó là điều mà má tôi và cả đám anh em chúng tôi bất ngờ nhất về tư cách của ba tôi và ông anh từ trên trời rơi xuống!

Riêng phần tôi, tôi rất vui vì được thêm một nguòi anh nữa cùng chung huyết thống của ba , có nghĩa là có họ hàng với tôi !

Rồi anh đề nghị dắt chúng tôi đi vượt biên. Không biết má tôi nghĩ sao và vượt qua cú sốc ghen tương thế nào , nhưng cuối cùng má đã cho tôi và thằng út theo gia đình anh ra đi.

Rồi chúng tôi cũng đến được bến bờ tự do , đến được thiên đường Mỹ quốc sau ba năm ở Philippine. Những khổ cực, những hồi ức không vui đã rơi xuống vùng đất Phi khi chúng tôi ngồi trên máy bay và nhìn nó nghiêng cánh để lấy trớn bay lên vùng trời cao xanh. Vùng trời mà khi ấy tôi hy vọng là sẽ tràn ấp hạnh phúc và tương lai sáng lạn cho anh em chúng tôi.



**



Tôi và thằng em được định cư sang Mỹ - Thiên đường của bao nhiều người tỵ nạn , còn gia đình ông anh cùng cha khác mẹ lại đi Canada. Thời gian trôi qua, cũng giống bao đứa con khác, chúng tôi đã sống và làm việc cực nhọc để kiếm tiền gởi về Việt Nam cứu giúp anh chị em và bảo lãnh ba má sang đoàn tụ gia đình. Ngày ba má qua Mỹ, tôi thật vui mừng , cứ nghĩ rằng mình là người hạnh phúc nhất thế giới nầy vì mình sẽ được gặp lại hai người thân yêu ! Nhưng... Thế gian nhiều rắc rối đều bắt đầu bằng chữ " Nhưng " quái ác nầy đây !

Chuyện đau lòng đầu tiên mà tôi chứng kiến là chuyện tình của thằng Út bị ba má làm tan vỡ bởi vì một lý do nghe rất vô lý:

" Nó không đẹp và mất một trái thận thì làm sao sanh con, đẻ cái nối giòng , nối dõi cho mình.." Đó là lần đầu tiên tôi thật sự ngạc nhiên và phải suy nghĩ lại về ý niệm sống của ba má.

Ba tôi, người cha mà trong những năm xa xứ , tôi đã hết lòng nhớ thuơng và kính trọng.. Người cha đã dạy cho tôi luân lý ở đời. Người đã dạy cho tôi cách đào ao , thả cá , gánh từng gánh đất làm rẫy , lên giồng, đánh luống khi còn ở kinh tế mới.

Còn má tôi , người đàn bà tão tần với gánh chè nặng trĩu vai , cứ sáng đi , tối về cùng năm tháng để kiếm chút lời nuôi nấng bầy con của mình.. Người đàn bà với chiếc áo bà ba sờn vai , mái tóc rối vì những cực nhọc mưu sinh nay đã biến mất trước mắt tôi ! Má tôi giờ như thay hình lột xác, cũng son , cũng phấn, cũng dầu thơm, quần áo lụa là như bao người đàn bà khác ở Mỹ lâu năm. Tôi hoàn toàn không tin được đó là ba má của mình nữa !.. Hai con người ngồi chễm chệ trên salon dạy chúng tôi cách sống ở đời, cách báo hiếu mẹ cha, cách đàn ông yêu và cưới một người đàn bà cần có những điều kiện gì?vv và vv.. Họ lại hết lời chê bai người nầy nghèo, người kia thất học, cô gái nầy đẹp , cô gái kia không xứng với gia đình mình.. Đó là ba má của bao nhiêu năm trời mà chúng tôi thuơng nhớ hay sao? Đâu rồi một hình ảnh ba má nghèo nhưng rất đàng hoàng, chu đáo. Đâu rồi một người mẹ quanh năm chỉ có nước mắt khóc thầm? Đâu rồi người cha với cách sống đạo đức, hàng tuần đi lễ nhà thờ và bắt chúng tôi giử cho tròn luật đạo và những điều Chúa răn?

Tôi thật sự bất ngờ khi nhìn những gịot nước mắt của người con gái đó. Người đã lo lắng cho thằng Út, sống chung với nó gần mười năm trời, hết lòng ủng hộ Út để Út nhà tôi hoc thành tài và đỗ đạt. Người con gái đó , nếu như là ngày xưa , đã được ví như một Châu Long của Lưu Bình- Dương Lễ. Trước những dòng nước mắt đó mà nét mặt ba và má vẫn không thay đổi, không có dấu vết xúc động. Ba tôi, với những lời nói cứng rắn và áp lực đè nặng lên vai thằng Út.. Cuối cùng, thằng Út trước mặt ba và má đã nói lời chia tay, chia tay người bạn gái (gần như là vợ mình) sau nhiều năm chung sống, trước khi ba má sang Mỹ. Người con gái đã hy sinh tiền bạc, tuổi xuân của mình , thay thế má lo cho Út từng miếng cơm, manh áo, động viên Út khi buồn, chia sẻ khi vui.. Một người mà theo đạo lý ông bà xưa đã được công nhận là vợ của Út rồi bởi : ?Bán dạ phu thê , nhất dạ phu thể (nữa đêm cũng là nghĩa vợ chồng , một đêm cũng là tình chồng vợ ) từ ngàn xưa truyền lại.

Nhưng đáng tiếc, ba má tôi không nhớ đạo lý ông bà nữa vì bây giờ họ đang sống ở Mỹ. Đang học theo cách sống hiện đại, đang muốn theo kịp cách sống tân tiến, mỹ hóa: tình yêu phải đi kèm điều kiện, thì làm gì còn nhớ chuyện đạo nghĩa xưa lăng lắc của một người Việt có bốn ngàn năm văn hiến nữa ! Thế nên họ chẳng cần quan tâm đến công lao của người đã giúp con mình thành đạt. Lời nói chia tay không biết có làm đau lòng Út hay không.. nhưng nó đã làm tôi đau lòng khi nhìn người con gái bất hạnh vừa khóc vừa bước ra khỏi nhà ba má tôi ! Tôi muốn lên tiếng , nhưng ba tôi đã đe nẹt trước đó và bảo rằng không phải chuyện của tôi !



Kết thúc chuyện tình của Út bằng một cái đám cưới với người con gái khác, người mà ba má đã chọn , và ba má bằng lòng cho Út rời xa thành phố chúng tôi đang sống để về nơi gia đình vợ đang ở. Ý ba má muốn tránh mọi chuyện không hay từ gia đình người xưa của Út. Tôi không biết Út nghĩ sao và có cãm thấy hạnh phúc hay không với người mà ba má chọn?.. Tôi không biết có khi nào Út ân hận đã phụ rẫy người bạn gái từng chung chăn, sẽ gối với mình sau từng ấy năm trời.. Nhưng cũng kể từ khi ấy , tôi có những suy nghĩ riêng của tôi và cách nhìn của tôi về gia đình mình. Và cũng từ khi ấy tôi và Út hay cãi nhau vì những chuyện không đâu vào đâu ! Út cậy là đứa con có hiếu , biết nghe lời mẹ cha , được ba má cưng chiều và bắt đầu lên án cách sống của tôi. Ai đúng , ai sai thì tôi chẳng quan tâm.. Nhưng trong lòng tôi nỗi bực bội khi nhìn Út huênh hoang khoác lác với gia đình vợ mới , tôi cứ thấy ngậm ngùi xen lẫn sự xấu hổ với người con gái bất hạnh đã bị em mình ruồng rẫy !



***



Thời gian trôi qua.. Ba má tôi gia nhập vào những hoạt động cộng đồng của người Việt hải ngoại. Tham gia nhiều tiệc tùng hơn , quen biết nhiều hơn và dường như quên hẵn đời sống lam lũ ngày nào còn ở Việt Nam .

Bây giờ mỗi câu nói của ba là chức quyền , là vai vế. Mỗi lời trách móc của má là than phiền người nầy không tôn trọng má , kẻ kia ngu đần không biết phép lịch sự khi giao tiếp nơi công cộng... Má lại trách móc đàn con của má tốn công mang qua Mỹ mà chẳng lo gì cho má, nhắc nhở đàn con phải làm tròn chử hiếu, giử đạo thành tâm ! Chuyện của Út đã dần đi vào quên lãng sau một thời gian dài bị bà con đàm tiếu về tư cách đạo đức của gia đình tôi. Cũng kể từ khi đó, ba má hay hờn trách tôi không có hiếu như thằng Út, không biết nghe lời như Út.. và nhất là nghèo hơn Út vì không biết chọn gia đình vợ giàu sang, có vai vế trong xã hội , trong cộng đồng (?!).

Tôi nghe , nghe hết những lời đàm tiếu đó cũng như những lời chua chát của má, lời rầy la của ba giành cho tôi, và trong lòng tôi muốn được nói lên lời công đạo..Nhưng tôi không dám ! Thật sự lề thói Việt Nam áo mặc sao qua khỏi đầu cũng đã kềm hãm tôi , không cho phép tôi phản kháng lại về hành động và cách sống sai lầm của ba má dù bằng lời nói. Nhiều khi tôi tự trách mình sống mà cứ theo luân lý Việt Nam xưa, không chịu cởi bỏ tư tưởng củ để hợp thức hóa đời sống của mình trên đất Mỹ.. Nhưng tôi đã không làm được điều đó vì tên của tôi hãy còn là tên Việt..và tôi vẫn là con người với máu đỏ, da vàng.. làm sao có thể phút chốc mà tôi từ bỏ cội nguồn của mình?



Rồi lại đến ngày anh em còn ở lại Việt Nam được đoàn tụ đầy đủ qua sự bảo lãnh của Út và ba má . Tôi rất vui mừng khi nghĩ rằng có thêm anh em , gia đình chắc sẽ vui hơn , mỗi dịp họp mặt chắc ba má bớt phàn nàn về tôi , bớt so sánh tôi kém hơn thằng Út. Nhưng, (lại cũng chử ?nhưng? nầy ).. tôi đã lầm ! Mà lại còn là lầm to !

Anh em tôi , sống lại Việt Nam một thời gian dài, đã quen cách tráo trở, bon chen và hãm hại nhau như cộng sãn cho dầu là anh em máu mũ , cùng cha cùng mẹ. Người anh trước tôi , với bản tánh xấu xa , đê tiện như đàn bà , ganh tỵ từng chút với đàn em đã gây ra cảnh xào xáo , gây gổ với hai người em khác của tôi để đến nỗi thằng em kế tôi đã bỏ nhà ba má ra ở riêng chỉ sau có 4 ngày đến Mỹ và quăng lại câu thề: Không bao giờ trở về ngôi nhà của ba má nữa vì ở đây không có tình nghĩa anh em , cha me mà chỉ toàn là bất công với nó !

Trước những chuyện đó tôi không biết nói sao để can ngăn , khuyên nhủ và tôi thật sự bất ngờ. Bất ngờ vì những lời tự hào của ba má về đàn con mình là có học thức , là đàng hoàng đã bị chính những điều xấu xa mà anh em tôi làm ra, đã bôi lem bức tranh hoàn hảo về gia đình mà ba má đã vẽ lên cho mọi người chung quanh xem. Điều bất ngờ thứ hai vì thấy anh em mình quên mất câu:

"Anh em như thể tay chân

Gà cùng một mẹ , chớ hoài đá nhau !"

Chẳng lẽ nào cuộc sống và xã hội Việt Nam bây giờ đã biến đổi những tâm hồn mộc mạc, chân chất của đám anh em tôi như thế hay sao? Chẳng lẽ nào những bần tiện , toan tính của ông anh tôi lại phát xuất từ những tháng ngày bươn chải tìm miếng cơm , manh áo? Chẵng lẽ nào những từ ngữ bậm trợn, thái độ hỗn hào, du côn, du đãng mà thằng em tôi dành cho anh của nó là đã học từ mái trường xã hội chủ nghĩa? Lỗi tại ai đây và ai sẽ trả lời cho tôi câu hỏi nầy?..



Chuyện xào xáo nhà tôi còn dài , dài lắm... cho đến khi ba tôi mất, nó mới thực sự bùng nổ lớn hơn. Ngày ba nằm trong bịnh viện , tôi chảy nước mắt lặng lẽ khóc thầm khi thấy trước cảnh ba sắp lìa bỏ thế gian chỉ trong gang tấc. Giây phút hấp hối ba không nói được lời nào mà má vẫn bắt buộc thằng em kế phải xin lỗi anh em thì mới cho chịu tang ba tôịThằng em thì nghĩ mình chẳng có lỗi lầm gì vì đã bị cả nhà hà hiếp , không có sự giúp đở và thông cãm đến nỗi nó phải bỏ nhà ra đi chỉ sau vài ngày đến Mỹ, còn lạ nước, lạ cái ...Cứ thế mà giằng dai với nhau để mặc ba tôi nằm đó chứng kiến con và vợ mình xào xáo! Có ai giống gia đình tôi hay không? Câu xin lỗi rỗng tuếch lại cần thiết và quan trọng hơn giờ phút vĩnh biệt ba tôi hay sao?

Má tôi , sau những ngày khóc ba tôi , ngay sau khi từ nghĩa trang về ngày hôm sau đã lớn tiếng trách mắng tôi là không có tư cách để thay mặt má cám ơn những người đã đến tham dự tang lễ của ba tôi. Người có tư cách là ông anh từ trên trời rơi xuống của tôi và má mà thôi..!

Tôi không phân biệt con ngọai hôn hay con hợp pháp- bởi vì như đã nói- tôi là đàn ông..Anh em dù có cùng cha, khác mẹ thì vẫn là anh em. Nhưng tôi thấy má đang ép tôi đến đường cùng gần giống như thằng em kế . Như vậy trong mắt của má thì tôi chẳng là gì hết.. Tôi không phải là con má để có thể đại diện gia đình cám ơn người ta hay sao? Má làm tôi đau lòng quá khi cái cãm giác đứa con bị từ chối cứ bám lấy tôi kể từ khi nghe má tuyên bố điều đó ! Tôi rất muốn hỏi má tất cả những điều bất công mà tôi gánh chịu bao năm nay có phải vì tôi nghèo , vì tôi qua Mỹ đã lâu mà không có nhà to, xe đẹp cho má hãnh diện..Có phải vì những điều đó mà má trách móc tôi, quy cho tôi cái tội bất hiếu? Vậy thì.. tình nghĩa mẹ con, gia đình sẽ ở đâu trên thế gian nầy?

Và cũng giống như Út , má lại mạt sát và muốn tách lìa tôi ra khỏi cái hạnh phúc nhỏ nhoi cùng người đàn bà đang sống chung và lo lắng cho tôi bao lâu nay. Có người đàn ông nào mà chẳng từng đứng cửa giửa mẹ và người đàn bà mình đang yêu thuơng và sống chung hay không? Cái lằn ranh giữa hai người đàn bà cùng quan trọng trong cuộc đời mình thật mong manh. Bước chệch qua một li là sẽ mất một trong hai.. Tôi phải làm sao đây?

Tại sao bất cứ bà mẹ nào cũng gây khó khăn cho người đàn bà mà con trai mình yêu? Tại sao ở giữa họ lại có những gay go , tranh chấp mà tôi phải làm quan tòa bất đắc dĩ? Sao má không dùng trái tim người mẹ mà thu phục chúng bằng những yêu thuơng chân tình ? Bởi vốn dĩ má cũng đã trãi qua kinh nghiệm của một thời làm dâu rồi.. vậy thì tại sao má không thông cãm và yêu thuơng những đứa con dâu của mình như con gái ruột? Chỉ có tình yêu thuơng mới được đáp trả lại bằng tình yêu thuơng mà thôi ! Đay nghiến , bươi móc, nói xấu nhau rồi thì mình sẽ được gì? Sao đa số những người đàn bà trên cõi đời nầy lại không chịu hiểu điều đó nhỉ?

Má muốn tôi chọn ai bây giờ? Mà cho dầu tôi có sáng suốt và có hiếu với má thể nào thì tôi cũng không làm được như thằng Út nhà tôi để phụ rẫy và từ bỏ người đàn bà mà họ đã vì tôi bỏ hết mọi thứ chỉ để ở gần và lo lắng cho tôi mà thôi.

Tôi không thể làm như Út để rồi phải cắn rứt lương tâm suổt đời vì mình là thằng đàn ông tồi cỏtư cách tồi, cho dẫu sơn son phết vàng lên tư cách mình thế nào cũng vẫn bị đàm tiếu , khinh khi. Con cũng không thể để cho má vào giờ nhắm mắt vẫn còn ân hận mình đã sai lầm !

Má ơi..

Mùa xuân đến , Tết lại hiện diện với bao người.. con rất muốn được như ngày nhỏ, được má ôm vào lòng , được cùng ăn một bửa cơm tuy đạm bạc nhưng đầy đủ thi vị và dư huơng ngày Tết. Con không muốn như bây giờ, ở những buổi cơm họp mặt nhà mình là những chuyện gây gổ, mắng nhiếc lẫn nhau..Ở giũa những khoa trương mà má và những anh em khác đang hâm mộ chỉ có rỗng tuếch và vô vị !

Con không muốn, mỗi năm qua, tuổi hạc chất chồng mà má lại mang thêm nhiều đố kỵ hờn ghen nhỏ nhen để mất đi an lành , niềm vui tuổi già..Con rất muốn gia đình mình đoàn tụ trong hạnh phúc , trong bình an bên cạnh má. Con rất muốn chạy về ngôi nhà của ba má để nhìn má , nghe má bảo ban..Vì con biết rồi má cũng sẽ xa chúng con giống như ba mà thôi.. Rồi chúng con sẽ bơ vơ trước cảnh " mẹ già như chuối ba huơng. Gió lay, mẹ rụng... "...Rồi sẽ có lúc con bơ vơ trên cõi đời nầy, chỉ tìm được hình ảnh ba má trong mơ mà thôi !

Má ơi..

Vật chất , danh vọng là điều phù du.. Tình nghĩa gia đình, chồng vợ mới là quan trọng nhất cho cuộc đời. Nếu sống mà cứ toan tính thiệt hơn thì con người chẳng còn là con người với trái tim nữa. Giữa bầy vịt con , thì con là con vịt xấu xí.. Con nghĩ rằng người mẹ cần bảo vệ đứa con xấu xí đó vì nó là đứa bất hạnh nhất.. Không có người mẹ nào chỉ biết yêu thuơng và coi nặng đứa con vốn dĩ nó đã may mắn thành công trên đường đời..Nhưng.. má có làm điều đó cho chúng con chưa? Con rất muốn được như ngày xưa, cho dầu là nghèo khổ , chỉ bằng cái gánh chè mà má đã nuôi nấng chúng con.. Má đã yêu thuơng chúng con bằng tất cả tấm lòng người mẹ, không so sánh, không hơn thua.. Nếu biết gia đình mình sang Mỹ mà trở nên thế nầy thì con thà ở lại Viet Nam chịu nghèo để còn có má , còn có anh em.. Còn thấy những ngày xưa thân ái không bị đồng tiền và vật chất xen vào làm tan nát nghĩa tình. Ngày đó , Tết đến là ngày hội của lũ trẻ chúng con..Má ơi, con mong má hiểu cho lòng con.. Không có đứa con nào muốn mang tội bất kính với mẹ chạ.lại càng không có đứa con nào muốn lìa xa vòng tay mẹ..Nhưng để trở về với má bây giờ con cần có một tấm lòng bao dung. Một vòng tay mở rộng và một trái tim dịu dàng của Mẹ .. như chúa Jesus ngày xưa đã mở rộng tay đón từng con chiên lạc đàn trở về..

Má có hiểu cho con không, má ơi?



Jan 14, 2014

(Viết tặng một người)


Môi Tím


Mục Lục


10. Ngựa Trong Khoa Học Và Đời Sống


Nguyễn Qúy Đại


Trong thập nhị chi, con giáp thứ 7 là con ngựa hay Ngọ chữ Hán Việt là Mã ?. Tên khoa học: Equus caballus. Nếu ghép vào can chi thì có các năm: Giáp Ngọ, Bính Ngọ, Mậu Ngọ, Canh Ngọ và Nhâm Ngọ. Ngọ thuộc cực dương vì 12 giờ trưa là giờ Ngọ, tháng 6 là tháng Ngọ cây cối phát triển nhanh? Loài ngựa gắn bó với con người từ thời Thượng Cổ, con người bắt đầu thuần dưỡng ngựa vào khoảng 4000-4500 TCN. Khởi đầu ngựa hoang được thuần hóa ở miền nam nước Nga, nam Sibirien, các miền đông tây Á Châu và từ đó ngựa phổ biến trên khắp lục địa Á - Âu. Người ta thường nuôi ngựa làm phương tiện đi xa buôn bán với các bộ lạc khác nhanh chóng, thuận lợi hơn hoặc đi săn bắn xa và sau đó bắt đầu dùng ngựa tiến hành chiến tranh để cướp đất đai trong quy mô lớn.

(Bức họa của Holmes Sullivan William năm 1877 vẽ nữ Bá tước Godiva (Godgifu) cưỡi đi quanh thành phố Coventry, Anh Quốc năm 1040 để yêu cầu chồng là Bá tước Leofric giảm thuế cho dân)

Ngựa trong danh từ khoa học:

Giới (regnum): Animalia

Ngành (phylum): Chordata

Lớp (class): Mammalia

Bộ (ordo): Perissodactyla

Họ (familia): Equidae

Chi (genus): Equus

Loài (species): E. caballus

Chủng tộc ngựa có bốn nhóm: thoroughbred/Vollblut (giống ngựa nầy ở Á Rãp và Anh Quốc); warmblood/Warmblut; draft horse/ Kaltblut; ponies /Ponys. Mỗi nhóm, chi có đời sống tập tính khác nhau như: Ngựa vằn núi Bergzebras (Epuus Zebra), ngựa Quagga (Epuus quagga), ngựa Onager (Epuus hemionus) thuộc loại nửa ngựa nửa lừa) ngựa Przewalskipferd (Epuus Przewalskii) ngựa Steppentarpan (Epuus przewalskii igmelini) ngựa Waldtarpan (Epuus Przewalskì silvaticus) ngựa Westpferd (Epuus przewalskii robustus); ngựa ở Phi Châu Wildesel (Epuus asinus africanus); ngựa ở bắc Phi Châu Wildesel (Epuus asinus atlanticus)?.Tùy thuộc vào giống môi trường, thức ăn, nước uống v.v, ngựa có tuổi thọ khoảng 25 đến 30 năm. Ngựa cái mang thai kéo dài khoảng 335-340 ngày. Ngựa con vừa lọt lòng mẹ có thể đứng và đi ngay. Ngựa bốn tuổi được coi là ngựa trưởng thành, mặc dù chúng tiếp tục phát triển bình thường cho đến sáu tuổi, thời gian hoàn thành sự phát triển của ngựa cũng phụ thuộc vào kích cỡ của ngựa, giống, giới tính.Có loại ngựa dài 2.80m cao 1,5m?..Ngựa ăn cỏ, dạ dày ngựa chỉ có một túi và không thuộc bộ nhai lại như trâu bò, răng ngựa tốt, ăn và nghiền nhỏ thức ăn, ngựa đực có 40 cái răng, ngựa cái chỉ có 36 cái. Uống

nước mỗi ngày từ 30-60 lít nước. Tai ngựa rất thính, nhãn quan của ngựa rộng nhưng chỉ thấy rỏ về phía trước hơn, khuyết điểm không nhìn rõ hai bên, nên hay hoảng sợ khi nhìn thấy các di động hai bên, bởi vậy người ta dùng hai miếng da che hai bên mắt để ngựa kéo xe chỉ nhìn thấy phía trước. Ngựa có nhiều màu như lông màu trắng gọi là ngựa bạch, đen tuyền gọi là ngựa ô, đen pha đỏ tươi là ngựa vang, đen pha đỏ đậm là ngựa hồng, tím đỏ pha đen là ngựa tía, trắng sọc đen là ngựa vằn... Về cách đi đứng của ngựa có nhiều động từ để diễn tả như: đi, bước, rảo, chạy, nhảy, kiệu, phóng, vút, phi (bay), tế, sải, lao, vọt, phốc, phi nước đại, phi nước kiệu, phi rạp mình, ngựa lồng: ngựa chạy trung bình mỗi giờ từ 40-50 km, nhưng có thể chạy nhanh đến 90 km/ giờ. Người ta lấy sức ngựa (mã lực) làm tiêu chuẩn tính sức mạnh của động cơ Kilowatt (1 PS=75 mkp/S; hay 1 PS= 0,735498 KW).

Chân ngựa cũng có nhiều ngón, nhưng chỉ có một ngón giữa phát triển to ra, trên đầu ngón có một cái móng bằng chất sừng bao bọc ở mặt ngoài của móng ngựa, chất sừng rất dày cứng, nó gắn chặt với xương ngón chân, nhưng phần phía trong của móng là chất sừng mềm có tính đàn hồi co giãn được, nó có tác dụng làm giảm xung lực từ mặt đất khi ngựa bước đi. Vì móng ngựa là chất sừng cứng, khi ngựa đi lại trên đất, đá lâu ngày, lớp sừng bảo vệ bên ngoài sẽ bị mòn đến lớp sừng mềm bên trong. Ngựa bị đau chân không thể chạy nhảy kéo xe được Vì thế người ta đóng móng cho ngựa để bảo vệ cho móng không bị mòn. Có thợ chuyên môn rèn sắt đo ni lấy một cái vành bằng sắt có đục lỗ sẵn đóng móng cho ngựa, đã được sáng chế từ thời La Mã cổ đại.

Ngựa trong chiến tranh được gọi là Ngựa chiến hay chiến mã.

Hình ảnh ngựa còn là chủ đề cho các môn nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, thơ văn... Đối với văn hóa phương Tây, ngựa gắn liền với nhiều biểu tượng thần thoại. Quan hệ giữa chủ nhân và ngựa không khác gì đôi bạn thân, cùng nhau vào sinh ra tử, xông pha trận mạc. Bên cạnh chiến binh, ngựa được coi là chiến mã, tượng trưng cho sự dũng mãnh, thần tốc và lòng kiêu hãnh, các binh chủng kỵ binh, kỵ mã, kỵ xạ, thám mã trong chiến đấu, săn bắn? Người Ai Cập và Trung Hoa cổ đại sử dụng xe ngựa kéo, sáng chế ra yên cương và bàn đạp giúp tăng hiệu quả chiến đấu của chiến mã và giúp cho người cưỡi giữ thăng bằng, ổn định và không bị ngã ngựa. Các hiệp sĩ trên lưng ngựa mặc áo giáp với một thanh kiếm hoặc giáo thương, đại đao hoặc các vũ khí đánh xa khác? có sức chống lại mạnh mẽ và gây nguy hiểm cho hầu hết các loại lính bộ binh.

Việc sử dụng chiến thuật ổn định từ ngựa chiến được đóng yên cương và bàn đạp chân đã cho phép người Mông Cổ có thể tấn công và bắn tên hiệu quả từ trên lưng ngựa (nhất là các kỵ xạ), đồng thời đem đến cho họ sự linh động để chinh phục phần lớn các vùng đất đã biết đến trên thế giới. Thành Cát Tư Hãn/Genghis Khan phiên âm Hán: ???? (trị vì 1206-1227) là người sáng lập ra Đế quốc Mông Cổ. Vó ngựa quân Mông Cổ tung hoành khắp nơi, nhờ giống ngựa Mông Cổ với vóc dáng có phần nhỏ hơn, chân ngắn hơn, bờm và đuôi rậm hơn,

song chúng ít đòi hỏi chăm sóc, sức chịu đựng tốt, đặc biệt thích nghi tốt với khí hậu cận nhiệt đới. Quân Mông Cổ đã bành trướng xuống phía Nam, ngựa Mông Cổ có thể nói là phương tiện duy nhất để di chuyển đại quân từ Á sang Âu. Vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu thì cỏ không mọc được, đến đâu thì bình địa đến đó, máu chảy đầu rơi, xơ xác. Nhưng đến Việt Nam bị Hưng Đạo Vương đánh thua chạy dài về nước.

Theo truyền thuyết Đời Hùng Vương thứ Sáu nổi tiếng và đặc sắc nhất về ngựa là hình ảnh ngựa thần của Thánh Gióng, cậu bé làng Phù Đổng đã vươn vai thành người lớn cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt ra trận dẹp tan giặc Ân. Hình ảnh Thánh Gióng cưỡi ngựa thần bay lên trời tượng trưng cho sự tự do, bất khuất, lòng dũng cảm, ý chí kiên cường. Tại ngã sáu ở Sài Gòn còn tượng tưởng nhớ Phù Đổng Thiên Vương.

Ngựa thành Troia Hy Lạp Cổ đại: Người Hy Lạp sử dụng ngựa trong chiến trận. Lịch sử Hy Lạp cách đây hơn 3200 năm có chuyện ngựa gỗ thành Troia. Khi quân Hy Lạp đến bao vây thành Troie (Trojanische Krieg), dân thành này chống cự mãnh liệt, quân Hy Lạp không thể nào vô thành được. Theo mưu mẹo của Odysseus/ Odyssey chế ra một con ngựa gỗ rất cao lớn, bên trong rỗng ruột để quân lính chui vào nấp, sau đó giả vờ bỏ con ngựa lại chiến trường rồi ra lệnh tất cả thuyền bè rút ra khơi. Dân thành Troia thấy quân Hy Lạp rút lui, vui mừng kéo nhau ra khỏi thành hì hục đưa con ngựa gỗ vào bên trong thành như là một chiến lợi phẩm quý giá thu được từ Hy Lạp. Nửa đêm hôm ấy, quân mai phục từ bụng con ngựa chui ra chém giết lung tung, mở cửa thành cho quân Hy Lạp tràn vào. Thành Troia thất thủ, vua Priam bị giết, câu chuyện ngựa gỗ phá thành được chép lại như một thiên anh hùng ca trong các tiểu thuyết của nhà thi hào Homer. Phim cuộc chiến thành Troia http://bit.ly/1al8CEf http://bit.ly/1ciDXan

Ngựa trong đời sống bình dân

Ngựa là gia súc đóng góp to lớn trong việc mưu sinh và sự phát triển của con người. ngựa đối với người phương Đông còn là biểu tượng của lòng trung thành, sự kiên trì, nhẫn nại và cần mẫn. Trong thời bình ngựa giúp chúng ta cày bừa, chuyên chở hàng hóa, kéo xe, chở người di chuyển trên đường xa, những nơi hiểm trở. Ngoài ra ngựa là phương tiện di chuyển nhanh nhất thời xưa trong vấn đề liên lạc thư tín, công văn ?và tạo những niềm vui cho công chúng như đua ngựa, đi săn, cưỡi ngựa thi bắn tên, làm xiếc thú. Ngựa còn cho ta thịt để ăn và cúng tế, xương nấu cao ngựa làm thuốc, giúp các nhà y học chế ra các loại huyết thanh trị bệnh, huyết thanh chống nọc rắn. Viện Pasteur Nha Trang thành lập từ năm 1895, đến năm 1896 bác sĩ Yersin đã lên vùng Suối Dầu, thành lập một trang trại chăn nuôi ngựa lấy huyết thanh bào chế vacxin phòng chống bệnh dịch hạch. Và cũng từ trại ngựa này, Yersin đã sáng chế ra những loại huyết thanh cổ điển khác như kháng huyết thanh bạch hầu, uốn ván. Cho đến nay, với hơn 100 năm tồn tại và phát triển, trại chăn nuôi vùng Suối Dầu đã trở thành một trung

tâm sản xuất vacxin lớn trong khu vực, với số lượng thú nuôi phục vụ nghiên cứu khoa học đứng đầu trong cả nước gồm ngựa, thỏ, chuột lang, chuột bạch.

Tiếp bước theo công trình của bác sĩ Yersin, tập thể các cán bộ ở trại chăn nuôi Suối Dầu đã bào chế ra những kháng huyết thanh mới từ ngựa như kháng huyết thanh trị rạ, trị nọc độc rắn cắn, mới đây nhất là nghiên cứu phát triển loại kháng huyết thanh chữa ngộ độc cá nóc cho ngư dân, theo tinh thần mà ngày xưa bác sĩ Yersin đã đề xướng: nghiên cứu và phục vụ đời sống.

Nhiều giống ngựa đã tuyệt chủng, nhưng nhiều giống ngựa khác được lai giống to lớn có lông mai và đuôi dài rất đẹp, hàng năm lễ hội Beer Tháng Mười ở Munich nhiều ngựa to lớn kéo xe rất đẹp

Ngựa trong văn chương

Thời xa xưa đời sống hàng ngày chỉ sử dụng phương tiện di chuyển, kiệu, cán, xe kéo và ngựa. Ảnh hưởng đời sống nên truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du nhắc đến ngựa rất nhiều lần, hơn 24 câu nói đến ngựa. (1)

Trong đoạn thơ tả cảnh chị em Thuý Kiều, Thuý Vân đi lễ hội Thanh minh:

Dập diều tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.

Tác phẩm thứ hai có nhắc đến ngựa là Chinh Phụ Ngâm. vài đoạn thơ liên quan đến ngựa. Nói về nam nhi trong thời chinh chiến:

Chí làm trai đặm nghìn da ngựa

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao

Giả nhà đeo bức chiến bào

Thét roi cầu vị ào ào gió thu.

Rồi nàng phải tiễn chàng ra trận, cảnh chia ly thật buồn :

Ngoài đầu cầu nước trong như lọc

Đường bên cầu cỏ mọc còn non

Đưa chàng lòng vợi vợi buồn

Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.

Ngựa liên quan trực tiếp đến người chinh phu ở nơi xa xăm, chịu dãi dầu sương gió,

cùng những hiểm nguy của chiến trận, bên mình ngựa:

Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn

Giòng nước sâu ngựa nản chân bon.

Ôm yên, gối trống đã chồn

Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh

Hoặc:

Xông pha gió bãi trăng ngàn

Tên reo đầu ngựa giáo lan mặt thành.

Hay là:

Chàng ruổi ngựa dậm trường mây phủ

Thiếp dạo hài lối cũ rêu xanh.

Tác phẩm Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu cũng có câu nói về ngựa:

Vân Tiên đầu đội kim khôi

Tay cầm siêu bạc, mình ngồi ngựa ô.

Tác phẩm Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu cũng có nhắc xa mã:

Mùi phú quí nhữ làng xa mã

Bã vinh hoa lừa gã công khanh.

Ngựa vốn là loài vật gắn bó với con người. Nó nằm trong Lục Súc Tranh Công, 6 loại gia súc nuôi trong nhà như: ngựa, trâu, bò, dê, chó và heo. Người Á Đông đã thuần hóa thành công 6 loại gia súc này trước tiên. Bởi vậy có truyện Lục Súc Tranh Công, ngựa cũng tự khen mình, vừa kể công đánh Nam dẹp Bắc, giúp không biết bao nhiêu tướng tài, phò trợ xã tắc suốt trong lịch sử:

Ngựa nghe nói tím gan, tím phổi

Liền chạy ra hầm hí vang tai

Ớ này này tao bảo chúng bây

Đố mặt ai dài bằng mặt ngựa...

Tao đã từng đi quán về quê

Đã ghe trận, đánh Nam, dẹp Bắc...

Ngày ngày chầu chực sân rồng

Bữa bữa dựa kề loan giá.

Ông Cao Tổ năm năm thượng mã

Mới dựng nên cơ nghiệp Lưu gia.

Ông Quan Công sáu ải vượt qua

Vì cậy có Thanh Long, Xích Thố...

Các chú được ăn no nằm ngủ

Bởi vì ta cầm cán giữ gìn...

Các chú những nằm trong xó bếp

Tài các người ở chốn quê mùa

Đừng đừng buông lời nói khật khù

Bớt bớt thói chê bai giớn giác ?

Trong tục ngữ ca dao

Được đầu voi đòi đầu ngựa: nói về người có lòng tham không đáy

Ngựa chạy có bầy chim bay có bạn: nói lên tinh thần đoàn kết.

Ngựa Hồ gió bấc hay chim Việt ngựa Hồ: Ngựa xứ Hồ mỗi khi gió bấc thì hí, chim nước Việt chọn cành phiá nam mà đậu.

Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ: Nói về tình đoàn kết

Mã đáo thành công: Câu chúc may mắn, thành công

Ngựa non háu đá: Chỉ những người trẻ tuổi thường có tính cách hung hăng, thiếu chín chắn

Cưỡi ngựa xem hoa, chỉ thời gian ngắn đi qua chưa nhìn hết mọi vấn đề

Ngựa chứng là ngựa hay: nói những người có tài thường có những tật xấu

Ngựa quen đường cũ: Chứng nào tật ấy

Ngưu tầm ngưu mã tầm mã: Chỉ việc những người giống nhau thường tập hợp lại với nhay, tìm đến nhau

Đầu trâu mặt ngựa: Câu này dùng để chỉ những kẻ vô loại, kẻ đại bất lương.

Thẳng như ruột ngựa: Nói về việc không úp mở, thẳng thắn vào đề luôn

Da ngựa bọc thây: Câu này thời xưa dùng để nói về một người lính đã ngã xuống trên chiến trường

Đơn thương, độc mã (một ngựa với một cây thương): Chỉ người một mình chống lại khó khăn, không có sự trợ giúp của ai, giống câu một mình một ngựa

Một lời nói ra bốn ngựa khó tìm (Nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy): Câu này có nghĩa là một lời nói vô ý khi ra khỏi miệng rất khó có thể lấy lại được.

Tế ông mất ngựa: Chỉ trong cái rủi có cái may.

Có mặt nào dài hơn ngựa, trước pháp đình, tội nhân đứng trước vành móng ngựa. ?

Rồng chầu ngoài Huế, Ngựa tế Đồng Nai

Trong truyện thần thoại Tây Phương con ngựa cổ nhất là con độc giác là con bạch mã đuôi dài tha thướt như tóc một thiếu nữ, giữa trán mọc một cái sừng (Einhorn) và xoắn như mũi khoan phát ra ánh sáng, thêm con ngựa có cánh bay, các loại truyện thần thọai đã dựng thành phim hoạt hình. Những lăng mộ ở Ai Cập trên những bức phù điêu đều có chạm trổ hình những con ngựa, Tại Viện bảo tàng ở Cairo chưng bày những chiếc xe ngựa của các đời Vua được khai quật hơn 3000 năm. Trước sân các Đình Miếu ở Việt Nam cũng như Trung Hoa thường có tượng đá bằng ngựảVề Âm nhạc có các nhạc phẩm được nhiều người thích là: Vết thù trên lưng ngựa hoang, Lý Ngựa Ổhttp://bit.ly/1gDp7j7 http://bit.ly/KYkWnE

Ở Trung Hoa, có dòng họ Mã lấy theo tên ngựa, trong đó có nhiều người nổi danh như Mã Viện, Mã Đằng, Mã Siêu, Mã Anh Cửu, Mã Gián Sinh, Mã Bé? Ngoài ra thêm nhiều chuyện như ?trảm mã trà? cho ngựa ăn trà chém đầu mổ bụng lấy trà sao chế để uống, hay chuyện cho ngựa bạch lên núi cao tìm cỏ Phương Chi mọc trên đá cho ngựa ăn lúc mặt trời vừa mọc,

ăn xong cũng chém đầu mổ bụng lấy bao tử mang về chế thuốc phơi khô trị bệnh, bà Từ Hy Thái Hậu khoản đãi khách quý dùng loại thuốc đó nấu với Long Tu.

Dược thảo mang tên ngựa

Trong các dược liệu cổ truyền, hai khái niệm ngựa và mã thường được sử dụng để chỉ tên nhiều vị thuốc có giá trị, thậm chí là tên của nhiều họ cây thuốc. Xin giới thiệu một số thảo dược chính có liên quan đến hai khái niệm này.

Mã tiên thảo hay còn gọi là cỏ roi ngựa (Verbena officinalis L.), họ cỏ roi ngựa (Verbenaceae), trông hình dáng giống như cái roi ngựa. Vị thuốc là bộ phận trên mặt đất, thu hái lúc cây sắp ra hoa, phơi khô hoặc sấy khô, với liều 6 - 12g dùng trị các bệnh sốt rét, lỵ, ngứa lở hạ bộ, sưng đau tuyến vú, mụn nhọt, bế kinh, khí hư bạch đới.

Mã kế còn gọi là đại kế (Circus japonicus (DC.) Maxim), họ Cúc (Asteraceae), dùng toàn cây. Vị thuốc có vị ngọt, đắng, tính mát. Trị thổ huyết, máu cam, trĩ ra máu, tiểu tiện ra máu, băng huyết, chấn thương chảy máu. Khi dùng để cầm máu thường được sao đen. Trị băng huyết và kinh nguyệt quá nhiều

Mã xỉ hiện còn gọi là rau sam (Portulaca oleracea L.), họ Rau sam (Portulacaceae), mọc hoang hoặc được trồng để làm thuốc hoặc làm rau ăn. Có thể dùng tươi hoặc khô để trị lỵ trực khuẩn, giun kim, dưới dạng nước sắc 15 - 20g ngày. Dùng ngoài, trị ngứa lở, nước ăn chân, lấy cây tươi rửa sạch, giã nát, chấm vào chỗ bị bệnh, ngày 1 - 2 lần sau khi đã rửa sạch chỗ bị bệnh và lau khô

Mã đề còn gọi là Xa tiền thảo (Plantago major L.), họ Mã đề (Plantaginaceae). Hai chữ mã đề là ám chỉ ?móng chân của con ngựa?. Mã đề cho nhiều vị thuốc hay, toàn cây có tác dụng lợi tiểu, lợi mật, chống viêm loét, trừ đờm, chống ho, chống lỵ...Dùng trị bí tiểu, tiểu vàng, đỏ, tiểu ra máu, sỏi đường tiết niệu, viêm gan, mật...Từ mã đề có thể thu được các vị thuốc: bông mã đề, cụm hoa, hạt mã đề (xa tiền tử) có cùng tác dụng: lợi tiểu, lợi mật...

Mặt khác, xa tiền tử còn chứa nhiều chất nhầy, có khả năng bao phủ các vết loét, nhất là ở dạ dày, tá tràng. Do vậy, vị thuốc này cũng như tịch chiết lá tươi của nó được dùng để trị viêm loét dạ dày, tá tràng rất tốt

Mã đề nước còn gọi là Trạch tả (Plantago plantago- aquatica L. tên đồng danh Alisma orientalis Sam. Juzep.), họ Trạch tả (Alismataceae). Gọi là mã đề nước vì lá của cây trạch tả trông rất giống với lá của cây mã đề, song cây này lại mọc ở dưới ruộng nước. Y học cổ truyền dùng thân rễ của Trạch tả hàng năm thu hái vào khoảng tháng 4 - 5 để làm thuốc chữa bệnh phù thũng, viêm thận, viêm bể thận, tiểu tiện khó khăn, đái ra máu .

Cá ngựa hay hải mã là tên gọi chung của một chi động vật sống ở đại dương tại các vùng biển nhiệt đới. Cá ngựa có chiều dài 15 cm có loài dài đến 30 cm. Cá ngựa là cá biển thuộc chi Hippocampus và họ Syngnathidae vùng nước nhiệt đới và ôn đới ở khắp nơi trên thế giới. Đông y thường dùng hải mã khô trong những than thuốc nấu uống hay để ngâm rượu uống bổ dương. Khoa học chưa có tài liệu nào cho biết thành phần hóa học tác dụng dược lý?.. Cá ngựa và cá chìa vôi là 2 chi cá đặc biệt ở chỗ con đực "mang thai" và sinh con. Thời gian mang thai từ 2-3 tuần. Nó có vây ngực ở phía trên gần mang và vây lưng nằm phía dưới cơ thể. Một số loài cá ngựa có một phần thân thể trong suốt nên rất khó nhìn thấy.

Năm Quý Tỵ đã qua nhiều biến đổi, hy vọng năm Giáp Ngọ đến ?mã đáo thành công? sẽ đem lại Tự Do, Dân Chủ cho Việt Nam. Không còn bọn ?đầu trâu mặt ngựa? đàn áp đánh đập người dân biểu tình chống Trung cộng xâm chiếm biển đảo tịch thu ghe tàu, đánh đập ngư dân Việt Nam. Kính chúc thân hữu và quý độc giả năm mới bình an, thân tâm an lạc, may mắn và hạnh phúc .

Nguyễn Quý Đại www.hoamunich.wordpress.com

Tài liệu tham khảo

Tiere und Lebensräume (Das grosse Volks- Lexikom ) Bertelsmann.

Das neue Universal Lexikon

Thơ văn hình trên Internet và trang Wikipedia

Đọc thêm

1/ Kim Trọng xuất hiện và gặp mặt Kiều lần đầu, chàng cỡi ngựa:

Tuyết in sắc ngựa câu dòn,

Cỏ pha mùi áo nhuộm non da trời.

Nẻo xa mới tỏ mặt người,

Khách đà xuống ngựa, tới nơi tư tình.

Khi hai chị em Kiều sắp chia tay Kim Trọng, ngựa lại được nhắc đến:

Bóng tà như giục cơn buồn,

Khách đà lên ngựa người còn ghé theo.

Mã Giám Sinh, vội vàng ra đi bằng ngựa:

Đoạn trường thay lúc phân kỳ

Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh.

Nàng càng thổn thức gan vàng,

Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào!

Thúc Sinh, lúc chia tay cùng Kiều vào một mùa thu để về nhà thăm vợ nhà ?Hoạn Thử cũng đã ra đi bằng ngựa:

Người lên ngựa, kẻ chia bào,

Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.

Khi Thúc Sinh đã ra đi rồi, có một nhóm ác nhân ?đầu trâu mặt ngựa? đến đốt nhà nơi Kiều đang cư ngụ. Trong lúc bất tỉnh vì thuốc mê, Kiều đã bị bắt cóc đem đi bằng ngựa:

Thuốc mê đâu đã tưới vào,

Mơ màng như giấc chiêm-bao biết gì!

Vực ngay lên ngựa tức thì,

Phòng đào, viện sách, bốn bề lửa dong.

Từ Hải người đã giúp Kiều trả oán, báo ân, và đưa Kiều lên chỗ cao sang nhất của cuộc đời Kiều, cũng dùng ngựa. Đó là lẽ dĩ nhiên vì Từ Hải là một võ tướng:

Trông trời, trời bể mênh mang,

Thanh gươm, yên ngựa, lên đàng thẳng dong.

Khi cho quân lính rước Kiều về phủ đường một cách rất long trọng, Từ Hải đã tự mình cỡi ngựa ra ngoài để nghênh đón Kiều:

Kéo cờ lũy, phát súng thành,

Từ công ra ngựa thân nghênh cửa ngoài.

Và gần đến cuối của câu chuyện gian truân đời Kiều, người em trai của Kiều và người tình đầu tiên đã được làm quan Cả hai đã dùng xe ngựa:

Sắm sanh xe ngựa vội vàng,

Hai nhà cùng thuận một đường phó quan.

Thành ngữ ?đầu trâu mặt ngựa? để chỉ những người không lương thiện bắt nguồn từ Kiều:

Người nách thước kẻ tay dao

Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.

Thành ngữ ?làm thân trâu ngựa? để đáp đền ơn sâu cũng ở trong Kiều mà ra:

Tái sinh chưa dứt hương thề

Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.


Nguyễn Qúy Đại


Mục Lục


11. Cánh Đồng Nghiêng Nắng


Đặng Thị Tú


Đây là lần thứ hai tôi cùng chồng và con gái trở về thăm ba mẹ đẻ kể từ đầu năm. Cánh đồng làng tháng sáu lúa trổ đòng thấp thó.Gió mùa hè đưa hương lúa lên đê ngọt dịu. Nắng chiều chênh chao, ngả nghiêng chia nửa cánh đồng xanh. Tôi mơ màng như được trở về những buổi chiều năm nao. Ngày ấy tôi cùng Nguyên lang thang dọc bờ ruộng rút những ngọn nếp đòng chia nhau. Hai chúng tôi bằng tuổi, học cùng lớp, lớn lên bên nhau từ bé. Nhà Nguyên cách nhà tôi một con ngõ nhỏ. Hằng ngày thường í ới rủ nhau đi chăn trâu cắt cỏ rồi trải qua những năm tháng êm đềm như một câu truyện cổ tích. Tình yêu tôi dành cho Nguyên ngây thơ như bông cỏ may dọc triền đê chỉ đợi gió đến là khẽ rung rinh, xao động. Tôi yêu nụ cười của Nguyên, nụ cười có vẻ ngô nghê nhưng trong sáng và thánh thiện. Tôi thích nghe Nguyên hát, tiếng hát trầm ấm như vỗ về lòng tôi mỗi khi tôi thấy buồn. Nguyên chỉ hát cho tôi nghe. Nguyên vốn nhút nhát nên chẳng bao giờ hát trước đám đông. Có lần tôi hỏi Nguyên:
- Nguyên hát hay vậy mà chưa bao giờ Tâm thấy Nguyên hát trước lớp.
Nguyên nhìn tôi cười tủm tỉm:
- Nguyên chỉ thích hát cho mình ấy nghe thôi.
Ba tôi không thích Nguyên vì nhà Nguyên nghèo. Ba tôi bảo ba mẹ Nguyên kém cỏi, vụng về không biết làm ăn thì rồi con cái cũng thế, khổ riết khổ ráo, biết đời nào mới ngóc cổ lên được. Tôi không thích mỗi lần ba nói vậy vì tôi học cùng Nguyên tôi biết, Nguyên vốn là người rất sáng dạ. Nguyên học chắc nhất nhì lớp tôi. Mỗi lần có bài khó, tôi toàn đem sang hỏi Nguyên. Ban đầu thấy Nguyên dạy học cho tôi, ba rất hài lòng nhưng khi lờ mờ nhận thấy tình cảm giữa hai đứa ông cấm riết không cho tôi và Nguyên gặp nhau. Chúng tôi tốt nghiệp xong lớp mười hai, tôi rậm rịch chuẩn bị đồ đạc lên thành phố dư thi đại học. Nguyên vác cuốc ra đồng giữa trời nắng chang chang như đổ lửa. Mồ hôi rơi xuống mặn chát cả bờ môi. Tôi nắm chặt tay Nguyên mà khóc:
- Nguyên học vất vả như vậy không thể uổng phí được. Nguyên nghe lời Tâm đi thi đại học đi, nhất định Nguyên sẽ đậu mà.
- Cứ cho là Nguyên đậu đi thì nhà Nguyên nghèo cũng lấy tiền đâu mà học. Nguyên học thế được rồi.?
Nguyên không nhìn tôi đáp lại.
- Nhưng mình có thể tự học tự làm thêm kiếm tiền mà Nguyên?
Tôi vẫn gắng thuyết phục.
- Ừ, nhưng Nguyên cũng chỉ nuôi đủ bản thân mình thôi chứ lấy đâu ra tiền mà nuôi cái Hạnh ăn học đây. Nó năm nay cũng lớp chín sắp vượt cấp rồi. Ba Nguyên thì giờ không có sức khỏe chẳng làm được gì. Nguyên không muốn vì mình mà mẹ phải khổ thêm nữa. Nguyên không muốn cái Hạnh phải bỏ giữa chừng. Thôi Tâm cứ đi thi đi. Nguyên hứa với Tâm năm sau cái Hạnh lên lớp mười, Nguyên sẽ đi thi để lên thành phố học với Tâm được chưa.
Nguyên nhìn ra xa cánh đồng làng im ắng trong nắng đầu chiều gay gắt. Ánh mắt Nguyên buồn vời vợi choán ngập tâm hồn tôi. Tôi chỉ biết ngồi gần bên Nguyên để nghe nỗi buồn lặng thấm sang mình.
Năm ấy tôi đỗ đại học trên thành phố. Nguyên đi làm phụ hồ ở quê. Thời gian trôi đi, lời hứa năm xưa của Nguyên cũng trôi vào quên lãng. Nguyên đã bỏ hẳn ý định đi thi hoặc lúc ấy Nguyên chỉ vỗ về lòng tôi mà hứa vậy. Tôi hỏi Nguyên vì sao dần xa lánh tôi: Nguyên nói tôi quên Nguyên đi thì tốt hơn, vì chúng tôi khác nhau quá nhiều. Và thế là Nguyên lấy vợ. Nguyên đã đón nhận Lý, người con gái luôn dành cho Nguyên một tình cảm đơn phương nhưng cũng sâu sắc không kém gì tình yêu tôi dành cho Nguyên. Khi còn yêu nhau, cả Nguyên và tôi đều nhận ra điều đó. Học xong, tôi về công tác dưới thành phố và kết hôn với Nam cũng là người cùng làng. Anh hơn tôi hai tuổi và làm công việc kinh doanh đồ gốm. Ba tôi rất hồ hởi và hài lòng với cuộc hôn nhân này. Ba nói thằng Nam mới là đứa con rể lý tưởng của ba. Ba mong con gái ba sẽ có một cuộc sống viên mãn bên người chồng này.
Tôi đến với Nam bằng thứ tình cảm không hẳn tình yêu, vừa quý mến vừa nể trọng. Nam yêu quý và chăm sóc tôi như một bà hoàng thời gian đầu mới cưới. Nhưng rồi chúng tôi có con đầu lòng. Những vết rạn gia đình cũng nảy sinh từ đó. Nam là con một và ước nguyện của anh cùng gia đình là tôi sẽ sinh được con trai nối dõi. Nhưng Trà Mi đứa con gái đầu lòng của tôi ra đời không nhân được sự chào đón, vui mừng của cha và ông bà nội. Trà Mi được bốn tuổi tôi lại mang thai. Lần này mẹ chồng tôi rất cẩn thận, đi xin xỏ, cúng bái khắp nơi để cầu tự được thằng cháu trai. Đến tháng thứ tư, chồng tôi mang tôi đi khám thai và siêu âm. Kết quả lại là con gái. Không khí trầm lặng, u ám bao trùm gia đình.Mẹ chồng khuyên tôi đi phá bỏ đứa bé nhưng tôi không chịu. Đã con tôi mang nặng, dù nó có là trai hay là gái, khiếm khuyết hay không thì tôi vẫn nhất quyết sinh ra, vẫn yêu thương hết lòng. Chồng tôi đâm ra chán nản, và cáu kỉnh. Bố mẹ chồng cũng tỏ thái độ lạnh nhạt ra mặt, khác với sự chăm nom chu đáo trước đây. Nhà chồng tôi thực sự bỏ bê tôi cùng hai đứa nhỏ. Tôi một thân một mình phải gánh chịu tất cả nhưng tủi khổ nơi chốn phố phường xa hoa mà lạnh lẽo. Những lần xuống thăm thấy tôi gầy xanh đi, mẹ tôi chỉ biết ôm tôi mà khóc. Mẹ về rồi, tôi lại càng cảm thấy trống trải và cô đơn. Nhiều lúc tôi muốn ngã khụy nhưng nghĩ đến hai đứa con tôi đành phải kìm lòng, ngậm bồ hòn làm ngọt. Tôi than trách chồng:
- Mẹ con em có lỗi gì mà bị đối xử như vậy. Cứ cho là anh không thương em nữa, nhưng anh cũng phải thương lấy con chứ. Con nó có tôi gì đâu mà cả ông bà nội và ba đều hắt hủi thế.
- Tôi đã nói rồi. Cô bât lực không sinh được con trai cho tôi thì đừng có than trách. Tôi chán cái cảnh, mỗi lần về tới nhà là cả bầy vịt trời lại túa ra lắm rồi. Cô đã không có con trai thì tôi đi kiếm chỗ khác.
- Anh thật vô lý nhưng không có con trai đâu phải lỗi hoàn toàn tại em. Sao anh cổ hủ vậy.
- Thế ý cô là tại nhà tôi chứ gì. Dòng dõi nhà tôi từ trước đến giờ vẫn rất tốt. Chỉ tại dòng dõi nhà cô thôi, ba cô chẳng sinh ra cả đàn vịt trời còn gì.
- Anh quá đáng lắm rồi. Anh đừng đụng đến ba tôi. Dù là trai hay gái, đã là con ba tôi đều yêu thương hết lòng không tệ bạc như anh đâu. Anh cút đi.
Nam bước ra khỏi phòng đóng sập cửa lại.
Những lúc vợ chồng cãi nhau như vậy tôi chỉ biết ôm mặt khóc. Khóc cho tôi, khóc cho con tôi. Rồi không biết mẹ con tôi còn phải chịu cảnh này đến bao lâu nữa.
Đứa con gái của tôi đôi lúc hỏi:
- Mẹ ơi, ba không thương Trà Mi và em Cún phải không mẹ. Con lại ôm ba mà ba toàn đẩy con ra thôi.
Câu hỏi của con khiến tim tôi đau thắt. Nhưng vẫn phải nén lòng tươi cười với con :
- Trà Mi ngốc cuả mẹ sao lại hỏi vậy. Tất nhiên là ba rất thương chúng con rồi, nên ba mới cố gắng đi làm chăm chỉ để có tiền mua quần áo đẹp, đồ chơi cho hai chị em, rồi cho Trà Mi đi học chữ, học đàn nữa chứ, phải không? Bởi vậy Trà Mi và em Cún ngoan, đừng quấy ba mỗi lúc ba đi làm về mệt, để cho ba nghỉ ngơi con nhé.
Nói dối con xong tôi quay bước vào nhà trong nước mắt giàn giụa vì thương các con.
-----
Trà Mi lắc tay tôi gọi:
- Mẹ! mẹ nhìn cánh diều kìa. Cánh diều bay cao quá mẹ ơi! Lát nữa mẹ mua cho con cánh diều để con đi thả trên đồng nhé. Ba đi thả diều với con nhé.
- Diều với quạ gì. Có gì hay ho mà vòi vĩnh. Con gái con lứa không diều quạ gì hết. Nam cau có.
Tôi ngước nhìn cánh diều bay chấp chới xa xa như tuổi thơ và những ngày tháng êm đẹp đã trôi vào dĩ vãng. Bây giờ, tôi chỉ có một mơ ước các con tôi có một tuổi thơ đẹp, có cuộc sống hạnh phúc, được cả cha và mẹ yêu thương như bao đứa trẻ khác.Bởi vậy, Nam càng thờ ơ với Cún và Trà Mi bao nhiêu tôi càng ý thức mình phải dồn tình yêu thương và quan tâm đến các con của tôi bấy nhiêu.
- Ừ để rồi chiều mẹ bảo ông ngoại đi mua diều thả cùng con nhé.
- Mẹ ơi em kia bị tật hả mẹ.
Tôi nhìn theo cánh tay Trà Mi nhìn về phía triền đê nơi tiếng cười tiếng nói vang lên ròn rã.
- Để cha cõng con nhé. Con gái của cha giỏi quá. Diều có đẹp không con?
Tôi bắt gặp bóng dáng quen thuộc của ngày xưa. Nguyên đang đùa chơi cùng con gái bé nhỏ. Thấy vợ chồng tôi đi qua Nguyên mỉm cười gật đầu chào.
- Con ngồi xuống đây nhé. Nguyên nói với con gái rồi đặt cô bé xuống chiếc xe lăn. Cô bé mũm mĩn cười có lúm má đồng tiền giống hệt Nguyên ngày xưa.
- Hai vợ chồng cô Tâm về chơi với ông bà à?
Nguyên chào chúng tôi, rồi cúi xuống cầm tay đứa bé vẫy vẫy:
- Chào hai bác đi con:
- Dạ, cháu chào hai bác ạ.
- Uh, bé ngoan và đáng yêu lắm chốc bác cho hai chị xuống chơi với con nha.
Nguyên khẽ vuốt tóc con và nhìn chúng tôi mỉm cười. Vẫn nụ cười ấy cách đây mấy năm làm tôi xao xuyến, dành cho tôi những trìu mến thân thương nhất, nhưng dòng chảy của thời gian đã khiến chúng tôi trở nên khách xáo biết mấy. Đáp lại Nguyên, chồng tôi chỉ nở một nụ cười nhạt nhẽo, vô vị.
Chúng tôi vừa ngoặt xe rẽ vào ngõ, chồng tôi lắc đầu mai mỉa:
- Đấy, ngày xưa mà lấy hắn thì giờ đã ngày ăn hai bữa chăn bò. Nghèo rớt mồng tời còn sinh ra cái của nợ đời đến bao giờ mới ngốc mặt lên được.
Tôi tức tối quặc lại:
- Anh thôi kiểu nói khinh miệt người khác đi có được không. Vợ chồng Nguyên cũng làm kinh tế rất giỏi, đâu nhất thiết cứ phải nhà mặt phố, không chân lấm tay bùn mới là giỏi.
- Hay cô còn thèm cuộc sống ấy. Cô thì lúc nào mà chả nhân văn, đầu óc cô cứ như trên mây trên gió ấy.
Tôi im lặng không nói gì mặc dù mỗi lời của chồng tôi như mũi dao đâm xé vào tim. Nhưng sắp về đến nhà tôi không muốn ba mẹ tôi phải đón chúng tôi trong cái cảnh vợ chồng xích mích. Nam nói đúng, tôi đang thèm cuộc sống ấy. Tôi thèm một người chồng biết chia sẻ quan tâm. Tôi muốn các con của tôi có được một người cha xứng đáng, biết yêu thương, vỗ về chúng. Những thứ ấy so với xa hoa vật chất còn quý giá hơn gấp trăm ngàn lần.


Đặng Thị Tú


Mục Lục


12. Tết Ở Cao Lãnh


Phan Thái Yên


Trời mới vào tháng Chạp ghe đò đã tấp nập hơn trên chợ nổi Thới Bình bán mua sắm Tết từ lúc sương sớm còn lan trên mặt sông. Vợ chồng ông Tư Đáy ngồi uống trà dưới hiên nhà nhìn ghe xuồng kéo bầy về họp chợ, mặt trời chưa lên đã chống chèo đầy kín ngả ba sông. Dạo này nhờ con gái gởi tiền về hàng tháng, ông Tư cho mướn lại hàng đáy phía sông Trẹm, rảnh rang nhưng vợ chồng vẫn quen mắt thức giấc từ lúc trời chưa rợn sáng. Bà Tư nhìn không dứt những người mẹ trẻ dắt con gồng gánh trên cầu Chắc Băng. Bà chép miệng nhớ con nhớ cháu còn ông ngoại thì khấp khởi một chuyến đi. Ông Tư khoan khoái nghĩ tới cảnh ngồi nhâm nhi li rượu Tây trên sân thượng lầu cao nhìn xuống đường phố Cao Lãnh bên hai đứa cháu ngoại nhỏng nhẻo quây quần. Ông vào nhà mở tủ kiếng chưng ở gian giửa lấy ra cặp rượu nhãn đen cổ lùn, săm soi nhìn rồi cẩn thận cất vào chổ cũ.
- Con bé Lục Hà lóng rày chắc lớn bộn rồi.
- Tụi nó lớn nhìn không kịp! Lục Bình mười ba, còn bé Hà sắp sửa sáu tuổi. Đi học mẫu giáo đã được mấy tháng.
Bà trả lời mà mắt không rời điệu bộ của chồng lúc ông mân mê vuốt quanh lên cổ chai rượu khiến bà không khỏi bật cười.
- Tui thiệt hết biết mấy ông già miệt Thứ rồi. Rượu ngon không uống, ngày nào cũng lấy ra cất vào săm soi rồi chiều chiều lại chờ tui xách xị không đi mua rượu đế về cho mà khè.
- Mấy bà mà biết gì về rượu Tây mà nói. Cặp rượu này giá gần bằng cây vàng, để càng lâu rượu càng đằm càng ngon. Chai nào mà nhãn đen thì sang và mắc hơn nhãn đỏ. Con rể của bà nói kì này lên sẽ tặng thêm cho tía cặp rượu Ăng-Lê ?ron nì đi bộ? gì đó, nghe nói cũng quí lắm.
- Con cái nó thương, tặng cho cái gì quí cái đó.
Ông cười, có cùng ý nghĩ.
- Cho nên rượu đế bà mua mỗi ngày cho tui càng quí hơn. Cũng như con cái mình lúc nào cũng hỏi mật tràm, ba khía, khô sặc. Mỗi lần nhớ lại ông con rể ngồi mê man húp lẫu mắm U Minh uống rượu Tây là tui không nín được cười.
Bà châm thêm trà cho chồng.
- Cảm ơn Trời Phật cho vợ chồng mình có rể hiền, thương con riêng của vợ như con ruột của mình. Nhìn quanh lớp con gái Chắc Băng dại dột lấy chồng tập kết hồi nẳm, đứa lỡ thì làm lẻ làm mọn, đứa lam lũ nuôi con chờ hoài chẳng thấy chồng đâu lại phải nhịn ăn nhịn mặc làm nghĩa vụ tiếp tế cho đám du kích trong bưng, rủi thời lại bị quốc gia bắt bỏ tù.

Ông Ngoại chạy xuồng vô U Minh. Tiết trời sau tết Dương Lịch đang mùa ong lấy mật, bông tràm nở trắng rừng rụng loang đầy mặt nước. Ông về đùm đề cả chục chai mật tràm, khô sặc, và cả cặp chim dòng-dọc bắt được trong rừng tràm. Chiếc lồng tre xinh xắn ông căm cui vót đan mỗi buổi chiều suốt tuần lễ mới xong. Ngoại hài lòng nhìn công trình của mình, mường tượng tới nét mặt rạng rỡ của hai đứa cháu lòng càng vui hơn. Bà Ngoại tay quết bánh phồng bụp bum tiếng cối, mắt nhìn chồng loay hoay treo cái tổ chim vào lồng tre. Cặp chim dòng-dọc nhìn thấy tổ quen trông như một chiếc túi hình chuông buông thỏng bớt sợ thôi nhảy bay quýnh quáng.
Ông bà gặp cháu, gặp con vui vầy mấy ngày cuối năm. Bà Ngoại ngồi không yên, lăng xăng giúp con gái trông coi quán ăn ở tầng dưới lúc nào cũng đông khách mời mọc nhau vào dịp tất niên. Hai cô bé được nghỉ học, quấn quít bên Ông Ngoại trên sân thượng với đôi chim chưa quen chủ nằm lấp ló trong tổ. Hai chị em chăm chú nhìn lồng chim treo dưới giàn thiên lý bông nở vàng mơ. Hai chiếc đầu chim nhỏ bé cũng pháng phất vàng như màu hoa.
- Ngộ quá há Ngoại!? Cái tổ chim nhìn giống như cái dấu chấm hỏi treo ngược tòn teng.
Bé Lục Hà cũng reo vui theo chị.
- Ngộ quá! Ngộ quá! Mà dấu chấm hỏi là cái gì vậy Hai?
Lục Bình nắm tay em vẽ quơ trong không khí theo dáng chiếc tổ chim.
- Là vậy đó. Sang năm Út biết đọc biết viết rành sẽ biết dấu chấm hỏi là cái gì.
Ông Ngoại xoa đầu hai cháu, kéo ngồi xuống bên mình.
- Chim dòng-dọc mẹ làm tổ đẹp nhất trong các loài chim. Ông cườỉHai đứa bây là chim dòng-dọc con đó, biết không!?
Nỗi vui chất chứa từ lúc ông rón rén bắt tổ chim trên cây tràm cao nở đầy hoa trong rừng U Minh rộ dậy trong lòng ông. Bên kia sông bồn chứa nước thành phố vụt cao khỏi tàng cây và dãy mái nhà lô xô sáng bừng lên trong nắng.
Đêm giao thừa Tết Mậu Thân, cúng rước ông bà xong cả nhà quây quần ăn mừng năm mới. Nhìn bé Lục Hà ngáp dài ngáp ngắn cố gắng chống chọi với cơn buồn ngủ mà mắt cứ ríu lại, cha nhìn Lục Bình cười đùa.
- Sao? Chị Hai đã buồn ngủ giống Út chưa? Cha già rồi, không đủ sức cỏng cả hai đứa đâu nha!
- Con lớn rồi chớ bộ!
Cô bé Lục Bình xấu hổ lắc đầu quầy quậy. Bé đứng dậy chào ông bà cha mẹ rồi đở dắt em vào nhà trong. Mẹ nhìn theo.
- Hai đứa ngủ ngon. Sáng mai thức dậy thay áo mới, ba mẹ lì xì cho. Lục Bình nhớ mặc áo dài Ngoại may để về Mỹ Hiệp chúc Tết Nội của con.
Ông Ngoại và cha tiếp tục chuyện trò bên ly rượu trong lúc hai người đàn bà tiếp tục sửa soạn thức ăn cho ba ngày Tết không bếp núc. Câu chuyện đang dòn thì bổng có tiếng xe jeep thắng gấp trước nhà rồi tiếng gỏ cửa vội vàng. Người sĩ quan tham mưu của Tiểu khu Kiến Phong phải vào đơn vị ngay vì Biệt khu 44 vừa đặt tỉnh lỵ Cao Lãnh trong tình trạng báo động, địch quân có thể tấn công tiểu khu bất cứ lúc nào. Tiếng máy bay thả bom vọng về thật gần quanh vòng đai tỉnh lỵ.
Cha về xông đất ngôi nhà của mình vào trưa mùng một trong quân phục tác chiến. Tin tức cha cho hay đã xác thực những điều mọi người đang hoang mang lắng nghe từ đài phát thanh. Cọng quân bội ước cuộc hưu chiến vào ba ngày Tết đang tấn công vào nhiều thành phố, tỉnh lỵ trên toàn quốc.
Cha dặn dò mẹ, lì xì cho hai cô con gái rồi ngồi vào bàn ăn trưa với gia đình.
- Bửa nay Lục Bình ở nhà với em và Ngoại, ngày mai ba về rồi mình qua chúc Tết bà Nội luôn thể. Tiếc quá! Cả nhà không nhìn thấy tiểu thư Lục Bình lần đầu tiên mặc áo dài lụa Tân Châu ngày đầu năm.
- Con hổng mặc đâu. Nhột quá hà!
Mọi người quên cả lo lắng, cười vang làm Lục Bình càng thêm mắc cở. Bé Lục Hà nhìn chị, thắc mắc.
- Sao Hai mặc áo mới mà nhột dzậy Hai?
Lục Bình đứng nép vào bà Ngoại, mắng em.
- Cái gì Út cũng hỏi, phiền quá! Bửa nào lớn bằng Hai, Út tròng dzô là biết liền.
Bà Ngoại cười nháy mắt nhìn mẹ, dắt tay hai cháu lên lầu.
- Hai đứa dắt Ngoại lên sân thượng cho chim ăn đi. Coi mà đặt tên cho tụi nó, chớ không bửa nào lại giành cải nhau, không có ông Ngoại ở gần mà xử kiện đâu.
Người con rể lấy ra chai wisky đã vơi phân nửa. Ông rót rượu vào ly xây-chừng trao cho cha vợ.
- Con có để dành cho Tía một cặp rồi. Rượu này uống đậm, chắc hợp với Tía.
Ông Ngoại nhìn sắc rượu hổ phách lóng lánh, đưa lên mủi gật gù, ngửa cổ ực mạnh rồi khà ra khoái trá.
- Thứ này là ?ron nì đi bộ? đây phải không!? Được lắm! Đã lắm!
Sau vài vòng xây-chừng thì chai rượu cũng vừa hết. Người con rể đứng dậy đội nón sắt, choàng dây ba-chạc qua vai.
- Lần đầu tiên ông bà Ngoại lên ăn Tết với con cháu mà mấy cha Cọng Sản này không biết điều gì cả. Lu bu quá! Tía Má thông cảm cho tụi con.
- Dzậy mà tốt đó con. Ngồi dưới đó lo ngóng lên trên này còn bứt gân hơn.
Mẹ đang đứng chờ cha với xách thức ăn.
- Em bới theo gà-mên cơm với khô sặc Cà Mau, lỡ tối nay anh không về được. Còn mấy đòn bánh tét thì dành cho dượng Ba và chú truyền tin.
Ngoại bước ra ngoài đứng tần ngần bên chiếc xe jeep. Đường phố vắng hoe, không phải cái vắng vẻ của ngày đầu năm mọi người sum họp vui Tết trong nhà mà là sự trống trải bởi co rút, nghi nan. Cuối con đường vài toán lính thấp thoáng di hành về phía cây cầu cửa ngỏ vào thành phố. Tiếng cười đùa vô tư của hai đứa cháu gái ví đuổi nhau trên sân thượng vọng xuống dòn tan như nắng rớt.
- Cũng may có Tía ở nhà, con bớt lo. Tình hình này cũng cả tuần nữa mới yên được.
Ông Ngoại nhìn con rể thở dài lo lắng.
- Con có nghe động tỉnh gì về đám người tập kết hồi nẳm không ?
- Trận này thì không biết sao, chớ từ trước giờ chỉ toàn là du kích, cao lắm là cơ động tỉnh cấp đại đội. Thế nào rồi cũng tới cái ngày đó.
Người cha rồ máy xe. Chiếc jeep nhà binh vụt lăn bánh, bụi cuốn lòng đường.
Chiều mùng hai Tết cả nhà ngạc nhiên mừng rỡ đón dượng Ba mặc áo quần xi-vin đưa Bà Nội và gia đình từ Mỹ Hiệp qua Cao Lãnh. Hai cô bé nhao nhao lục tìm nem Nội làm và giỏ xoài cát vườn nhà rồi hối hả dẩn cậu anh họ chỉ hơn bé Hà một tuổi lên sân thượng khoe cặp chim dòng-dọc. Mẹ chúc tết Bà Nội, vui vẽ nắm tay cô Ba nói đùa.
- Chị Ba gan quá! Dám để dượng Ba mặc bộ đồ bà-ba lụa nhìn giống công tử Bạc Liêu hồi còn đi cua mèo ở cù lao Mỹ Hiệp quá.
Mọi người mừng tuổi nhau, vừa xoay qua chuyện thời sự không vui thì cha về. Dượng Ba vội vàng xếp gọn bàn ghế quán ăn rồi lái xe jeep vào hẳn trong nhà. Quân phục tác chiến của hai người và máy truyền tin, vủ khí chất sẳn sàng trong xe. Thì ra cha đã phái người tài xế cũng là bà con trong nhà chạy xuồng về Mỹ Hiệp đón gia đình qua để sáng mai ông Ngoại đưa mọi người về thánh địa Hòa Hảo, an toàn ở chơi mấy ngày để cha yên tâm trong lúc bận chuyện nhà binh. Dượng Ba đở ly rượu từ tay ông Ngoại.
- Cháu đã đổ đầy dầu cho ghe nhà rồi. Ghe lớn, máy hai lốc chớ không phải máy kô-le, Ngoại có cần chạy dợt thì mình xuống làm một vòng cho quen.
- Khỏi cần đâu dượng Ba. Ở dưới tui cũng hay chạy ghe lớn đi bốc cá linh ở mấy cái đáy dọc sông Trẹm quen rồi.
Trong lúc ăn tối, người lớn lại bàn chuyện chiến sự. Cha cho hay đây quả là một cuộc tổng công kích của Cọng Sản trên toàn miền Nam. Một phần thành phố Huế cả cổ thành, Đại Nội bị Cọng Sản chiếm. Sài Gòn đang giao tranh lớn ngay khu vực đài Phát Thanh và các vùng ven đô. Nhiều tỉnh thành khác cũng đang đẩy lui nhiều đợt tấn công, pháo kích của địch. Hai bà sui gia thì mãi xuýt xoa lúc nghe người xướng ngôn tường thuật cảnh thành phố đổ nát vì bom đạn, dân chúng vô tội gồng gánh bế bồng chạy loạn, bị kẹt giữa hai lằn đạn chết chóc thương vong.
Sáng mùng ba Tết, cha đứng trên sân thượng nhìn theo bé Lục Hà ngồi quây quần với chị bên chiếc lồng chim trên nóc ghe. Bóng ghe nhỏ dần trên sông, lầm lủi theo hướng Cù Lao Giêng để về Thánh Địa.
Chiếc xe jeep chạy chầm chậm giữa lòng phố trống. Người sĩ quan thỉnh thoảng vẩy tay chào những toán dân quân giáo phái Hòa Hảo tự nguyện tham gia tuyến phòng thủ quanh Tiểu khu. Ông lo lắng nhìn những khẩu súng carbine, Thompson cũ kỷ từ thời Tây sót lại trên tay những nghĩa quân gan dạ. Tin tình báo cho biết Cọng Sản đang điều quân sát vòng đai tỉnh lỵ có thể tấn công bất cứ lúc nào, thế nhưng Cao Lãnh vẫn im lặng một cách đáng sợ. Người sĩ quan nhìn quanh các cao điểm trong thành phố, tự hỏi không biết súng sẽ nổ lúc nào. Đêm nay? Đêm mai? Còn có lựa chọn nào khó khăn hơn cho người lính ngoài sự chờ đợi, căng mắt lắng tai trong im lặng rợn người nghe ngóng lằn đạn đầu tiên bắn về phía mình để sau đó bắn trả mà sống còn, bảo vệ người thân, gia đình, làng nước. Không còn là lựa chọn nữa rồi. Hay nói cho cùng, chính sự lựa chọn cuối cùng đó cũng là số phần đã định. Hẩm hiu như quê hương, như con người Việt Nam chết tươi, chết mòn trên đó. Người lính miền Nam tự hỏi rồi bế tắc trong nỗi đợi chờ dày dạn.
Câu trả lời treo trên đầu súng AK47 mới rợi của đoàn cán binh sinh Bắc tử Nam bôn tập từ đất Miên vào. Tiểu đoàn bộ đội chính qui tuy bị thất thoát chậm chân vì hỏa lực giang đỉnh Hải Quân lúc qua ngả Hồng Ngự cũng đã về tới Cao Lãnh theo kế hoạch, chờ tấn chiếm bộ tư lệnh Biệt khu 44 cùng nhịp với cuộc tổng công kích trên toàn miền Nam. Những tuyến chiến đấu theo cách thế điểm diện, công đồn đả viện được đào đắp xong vào những ngày giáp Tết. Bộ đội sinh hoạt, liên hoan với du kích địa phương trong những dãy hầm chử U chống phi pháo đào sâu vào lòng đất được ngụy trang kỹ càng.
Vào tối ba mươi Tết một cán binh gốc địa phương lén theo du kích về thăm gia đình đã bị tình báo Tiểu khu khám phá, theo dõi lúc họ trở về lại tuyến chiến đấu. Chính trị viên tiểu đoàn chủ trì buổi họp kiểm thảo người cán binh phạm kỉ luật. Trong màn đen váng mịn hắc ám của đêm trừ tịch, giọng quê Nam Bộ pha lớ âm hơi Thanh Nghệ chắc nịch tuôn ra từng luồng âm thanh sôi nổi mà bài bản quen thuộc. Hi sinh. Phấn đấu. Đi đầu trong kháng chiến chống Mỷ cứu nước. Miền Nam thành đồng đi trước về sau. Giải phóng miền Nam. Đánh cho Mỷ cút đánh cho Ngụy nhào. Quyết liệt phê phán tình cảm cá nhân ủy mị tiểu tư sản?Người bộ đội phạm kỉ luật rụt rè phát biểu lời tự phê, tự kiểm. Anh tình nguyện tự xích chân mình vào ổ súng nặng của đại đội trong lần tiến công tới. Người bộ đội nào hay đã lấy mạng sống ra mà trả cho bản án tự kết của mình.
Buổi họp kiểm điểm kết thúc chưa được bao lâu thì loạt bom từ phản lực A37 Skyraider đã rơi xuống ngay đầu họ. Biệt khu 44 quyết định giữ nguyên lực lượng tại các tuyến phòng thủ, không ra quân tấn công mà chỉ nhanh chóng gọi phi pháo. Một quả bom 500 cân đánh chính xác đã nổ tung xác vài cán binh, gây vết tử thương cho người bộ đội miền Nam tập kết vừa bị kiểm điểm và vài người khác bị thương nhẹ, kể cả người chính trị viên tiểu đoàn.
Trong cơn hấp hối anh thều thào chuyện gặp lại cha mẹ già sau gần mười bốn năm xa cách. Có lẽ đó là hình ảnh duy nhất anh mang theo về bên kia thế giới. Người chính trị viên vuốt lên hốc mắt vừa khép của đồng chí mình. Trong bóng tối của ngày đầu năm đang tới, giữa giây phút bất chợt lặng im hình như đâu đó có tiếng nước Tiền Giang trở mình. Tiếng thời gian. Tiếng sóng vỗ bờ cù lao Mỹ Hiệp êm đềm thuở hoa niên. Tiếng nói cười đêm bộ đội liên hoan bừng bừng lửa trại trong vùng tập kết Cà Mau sau ngày đất nước chia đôi. Trong quầng mắt nhắm chợt lan dài thăm thẳm dòng sông Trẹm lả tả hoa bần rơi.
Không điệu được hổ ly sơn lại bị tổn thất khá nặng, cánh quân chốt phía Đông Biệt khu 44 phải rút ra ngoài, chỉnh bị tinh thần mà xâm nhập vào lại tỉnh lỵ mấy ngày sau đó. Yếu tố bất ngờ không còn, nhưng vì kế hoạch trên đã đề ra đồng thời cơ sở du kích hạ tầng đã bị lộ, Cọng quân nhất loạt tiến công vào Cao Lãnh đêm mùng Năm Tết. Súng nổ nhiều nơi trong thành phố. Giao tranh quyết liệt diễn ra tại hai cứ điểm quan trọng, đài chứa nước bên kia sông và cây cầu cửa ngỏ vào thành phố. Toán lính thuộc Tiểu khu Kiến Phong phải hi sinh tới người lính cuối cùng mới bảo vệ được lầu nước thành phố. Trong lúc đó cánh quân chủ lực của bộ đội tấn kích cây cầu chịu thiệt hại nặng và bị đẩy lui bởi một đại đội của Biệt khu 44 án ngử ngay đầu cầu và súng cộng đồng yểm trợ từ sân thượng khách sạn gần đó.
Người chính trị viên tiểu đoàn bị thương lần thứ hai. Mãi về sau, trong mật khu Đồng Tháp Mười người sĩ quan bộ đội có đôi lần nghĩ về buổi sáng đầu Xuân sau Tết Mậu Thân ở Cao Lãnh với nỗi buồn của một đứa con lêu lổng không thể trở về nhà. Những bản báo cáo lên lảnh đạo về cuộc hành quân thất bại đầy kín trên nhiều trang giấy về lí do khách quan, chủ quan, tích cực, tiêu cực nên chẳng còn chổ cho luyến tiếc ước mơ. Sự luyến tiếc không thấy lại được khúc sông quê nhà, không thể bước qua cây cầu mà thằng bé ngày xưa còn trong trí nhớ đạp xe qua mỗi ngày chỉ làm những buổi chiều trong cánh rừng tràm hoang mang gió buồn thêm.
Người sĩ quan miền Nam đứng lặng nhìn xác bộ đội tử thương bị bỏ lại nằm rải rác trên chiến địa phía bên kia cầu. Thi thể cả tiểu đội lính bảo vệ đài chứa nước thành phố bị bắn nát vì B40 vừa được đồng đội đưa về hậu cứ đơn vị. Những người lính chết trận đêm qua, họ có kịp nghĩ gì khi nghe tiếng súng, tiếng đạn pháo trong sát na cuối cùng lúc trái tim đập nhịp chung thân? Bác Đảng. Đồng đội. Thầy U. Gia đình. Vợ con. Người yêu. Bờ đê, bến nước, rẫy nương... Ông thở dài nhìn quanh ngôi nhà vắng, lắc đầu xua đuổi ý nghĩ ông không muốn nghĩ tới. Từ trên sân thượng nhìn xuống dòng sông trải mình vắng lặng không một bóng ghe đò, cù lao Mỹ Hiệp chìm xa trong lẩn khuất chân trời. Tiếng súng chiến trận vừa im lòng đã xốn xang cảm giác bị rớt tuột vào nỗi đợi chờ khác, ray rưa nấm mọc âu lo.
Ngược phía Tiền Giang, mẹ dắt con ra bến đò Mỹ Luông đứng nhìn về Cao Lãnh lửa đạn quắt quay chờ ngóng tin cha. Chuyến đò xuôi về lại nhà nôn nao sóng dục trong lòng mà sông thì mãi thẩn thờ trôi trong trễ nải bóng chiều. Nước mắt mẹ trào ra lúc thấy cha đứng chờ tận bờ nước chờ đón gia đình. Mẹ nhìn cha giang tay ôm hai con vào lòng, hờn dỗi với chồng.
- Từ rày trở đi, ông đừng có hòng đuổi được mẹ con tui đi như vầy đâu.
Dự cảm lìa xa và nỗi đợi chờ bất trắc là tâm sự bi thương của mỗi người đàn bà Việt Nam trong chiến tranh. Riêng sâu trong lòng mẹ còn chôn kín phần đời không muốn nhớ tới như mộ phần lẫn khuất trong lau cỏ ngút ngàn, không khói hương giổ chạp nhưng chẳng thể nào quên. Có lúc nhìn đứa con riêng với người chồng tập kết bắt đầu trổ dáng thanh xuân mẹ bức rức nhớ lại mình thuở lầm lạc đầu đời rồi lo sợ có lúc đến hoảng hốt giữa canh khuya. Những lúc như thế mẹ ôm rịt lấy cha. Mẹ muốn tan nhập vào chung một hình hài máu thịt, không chừa cho dù một phân ly khoảng cách để không thể nào bị len lấn, hòng mong được chở che.
Âu lo của mẹ chẳng thể nào giấu kín xua tan. Nỗi niềm riêng mãi ở đó gặm nhắm, chực chờ như một thứ mặc cảm triền miên để rồi một ngày trở thành nỗi đớn đau ngất trời lúc hai người đàn ông trong đời ngã xuống trên cùng một chiến trường.


Phan Thái Yên


Mục Lục


III . Những Bức Thư Tình_____________________________________________

Thư Tình Tháng Này


DHH








Vì lý do kỹ thuật xin tạm nghỉ 1 kỳ. Chân thành cáo lỗi cùng độc giả .






Mục Lục



IV . Hộp Thư Toà Soạn ___________________________________________________



Nguyệt San Giao Muà xin cám ơn những thân hữu đã dóng góp bài vở cho Nguyệt San Giao Muà số 142 . Một số bài khác sẽ được đăng dần vào số tới. Mong mỏi sẽ nhận được những sáng tác của các bạn bốn phương để cho Nguyệt San Giao Muà thêm phần hương sắc trong tương lai.

Mục Lục


Thể lệ để nhận Nguyệt San Giao Muà: 1) Để vào danh sách của NSGM (subscribe), xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
2) Để rút ra danh sách của NSGM (unsubscribe), xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
3. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com 4. Mọi bài vở, đóng góp, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com Nguyệt San Giao Muà Homepage: http://www.GiaoMua.com Thể lệ gửi bài cho Nguyệt San Giao Muà: Mong bạn gửi Bài cho GM theo cách này là tốt nhất : 1. Dùng mẫu chữ Vietnet (VIQR) hay Unicode 2. Viết Hoa chữ đầu của bài và bút hiệu. Ví dụ: Giọt Mưa Trên Lácủa NS Phạm Duy 3. Gửi bài ngay trong email (không kèm file), để cho BBT khỏi mất công download xuống để đọc 4. Gửi tất cả các bài trong 1 tháng 1 lần trong1 email, nếu tiện. 5. Bài vở xin gửi đến trước ngày 25 mỗi tháng 6. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com Cám ơn bạn rất nhiều, vì nhân sự có hạn, BBT không thể ngồi đánh máy lại từng đề bài hay bút hiệu.

Địa Chỉ Liên Lạc:

Nguyệt San Giao Muà
P.O . Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA

Trang Nhà 

Web Counters
Web Site Hit Counter

Copyright 2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors