Số 143

Ngày 1 tháng 3 năm 2014

www.GiaoMua.com

Nguyệt San Giao Mùa
P.O. Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA

GiaoMua@hotmail.com


Thư Ngỏ



Thư Ngỏ

THÁNG BA.

Tháng ba trời bâng khuâng,
Mùa đi và mùa đến,
Vẫn còn đây mùa Đông,
Mà Xuân về e ấp.

Tháng ba trời ngập ngừng,
Chân chưa đành bước vội,
Chắc ngại tuyết chưa tan,
Trên vùng cao phố núi.

Hỡi tháng ba ngọt ngào,
Niềm vui từ trời đất,
Cho những người yêu nhau,
Tháng ba hồn giao cảm.

Một chút lạnh sẽ thương,
Bàn tay che vai ấm,
Một chút mây sẽ buồn,
Dỗi hờn trong ánh mắt.

Cây cối chờ nẩy mầm,
Mùa hoa lê trắng xóa,
Trong gió mùa Đông tàn,
Hoa đào vừa hé nở..

Tôi vui với mùa hoa,
Hoa Hồng hoa Thủy Tiên,
Hoa Dâm Bụt ngày xưa,
Mẹ trồng dưới hàng hiên.

Tháng ba biển hiền lành,
Không sóng to gió lớn,
Thuyền đánh cá ngư dân,
Đi và về may mắn

Có thời người vượt biên,
Ra khơi tìm tự do,
Tháng ba biển bình yên,
Thuyền sẽ đến bến bờ.

Tháng ba mùa tao loạn,
Trên quê hương Việt Nam,
Bao người dân di tản,
Trên quốc lộ kinh hoàng..

Tháng ba dù buồn vui,
Vẫn là tháng ba đẹp,
Hãy đến đây với tôi,
Mùa từng mùa nối tiếp.

Nguyễn Thị Thanh Dương
Ban Biên Tập Giao Muà

Mục Lục

Bài vở trên Giao Muà là do các tác giả gửi đăng và Giao Muà không chịu trách nhiệm về nội dung. Muốn xin trích đăng lại, xin liên lạc với GiaoMua@hotmail.com.

I . Thơ _______________________________________________________________________

1. Nhớ Mùa Xuân Cũ ______Hàn Thiên Lương
2. Tên Khờ Chung Thủy ______Quang Phục
3. Em Biết Chiều Nay ______ Hồ Thụy Mỹ Hạnh
4. Nguyện Ước Cuối Năm 2013 ______Mynh Hứa
5. Mừng Tuổi Mẹ ! ______ Jacaranda
6. Chút Tình Gửi Lại ______ Mai Hoài Thu
7. Một Ngày Mưa Bay ______ Hoàng Định Nam
8. Vực Thẳm ______Sông Cửu
9. Mai Nếu Có Về. ______Hoàng Yến
10. Tình Song Phương ______Nguyễn thị Thanh Dương
11. Mông Lung ______ Lê Miên Khương
12. Chia Đôi Vầng Nguyệt (Bên Khung Cửa) ______ Tình Hoài Hương
13. Tuyết ______ Vân Hà
14. Vì Sao ? ______ Trầm Thiên Thu
15. Đàn Bà ______ Vành Khuyên
16. Tiếng Gọi Vào Thiền ______ Nguyễn Hải-Bình
17. Đêm Xuân ______Tuyền Linh
18. Anh Ở Đâu, Chiều Nay ... ______Quỳnh Đỏ
19. Băng Giá ______ Chung Thủy ­­ ­ ­
20. Chi Lăng Cảm Tác ______Sông Trà
21. Gặp Lại Em Nơi Xứ Lạ ... ______ Song An Châu
22. Muà Xuân Hát ______ Trần Thị Hiếu Thảo
23. Mùa Trống Hoác . Các Linh Hồn ______Chu Thụy Nguyên
24. Ly Biệt ______ Dạ Lan
25. Thênh Thang Nỗi Chờ ______ Mạc Phương Đình

II . Văn _______________________________________________________________________

1.Một Ngày Đi Khám Bệnh ___________ Nguyễn Thị Thanh Dương
2. Xóm Cụt (truyện dài nhiều kỳ) ___________ Đỗ Thành
3. Hiến Chương Tình Yêu (truyện dài nhiều kỳ) ___________ Tình Hoài Hương
4. Người Đàn Ông Cuối Cùng Của Tôi ___________ Vành Khuyên
5. Căn Nhà Sau Cửa Biển (truyện dài) ___________ Phan Thái Yên
6. Xin Vinh Danh Vị Danh Thư Đất Gò Công ___________ Trần Thành Mỹ
7. Câu Chuyện Về Người Không Gian ___________ Trần Hồng Văn
8.Mưa Vẫn Rơi Trên Phố SNOQUALMIE ___________ Phan Thái Yên
9. Hạ Vàng Ươm Nắng ___________ Hai Hùng SG

III . Những Bức Thư Tình...________________________________________________________________

1. Thư Tình Mỗi Tháng _______________________________ DHH

IV. Trả Lời Bạn Đọc__________________________________________________

1. Nhắn Tin/Trả Lời Bạn Đọc _______ Ban Biên Tập

I . Thơ __________________________________________________

1. Nhớ Mùa Xuân Cũ  


Nắng tháng giêng cành xuân đầy lộc biếc
Trên trời xanh đàn én lượn đưa thoi
Nhưng không có cành mai vàng trước ngõ
Vì quê mình vạn dặm mãi xa xôi! 

Nhớ ngày xưa thấy mực tàu giấy đỏ
Ông ngoại em viết câu đối xuân hồng
Vườn nhà em ngàn hoa đang nở rộ
Nụ cười duyên  ấp ủ cánh hoa lòng. 

Nắng tháng giêng  ngạt ngào hương hoa bưởi
Hương hoa cau lưu luyến lá trầu nồng
Mình ước một mùa xuân vui tiệc cưới
Đến bây giờ em còn nhớ gì không? 

Anh vẫn nhớ tiếng hò mùa lúa chín
Trên cánh đồng vàng trải những lời thơ
Em cũng hát vạn lời thương lời nhớ
Rõ lòng anh mãi mãi chẳng phai mờ! 

Rồi chia tay , xuân lệ rất ngậm ngùi
Người ở lại trông mùa xuân hiu quạnh
Niềm nhớ thương ngày tháng chẳng hề nguôi
-Biết bao giờ tìm lại mùa xuân cũ.? 

Anh ở đây thời gian trôi lặng lẻ
Mãi xa xăm biền biệt bóng xuân nhà
Nhìn đào bông trọn lòng riêng khoắc khoải
Xuân vàng mai mãi mãi  biệt mù xa!

Xuân Giáp Ngọ (2014)
                                                                
Hàn Thiên Lương   
Mục Lục


2. Tên Khờ Chung Thủy Ngày xưa em thích thơ tôi vì trong từng ý có ta, có mình , có nhịp cầu ước hẹn tình quê mình đẹp đôi một ngày anh trở lại. Ngày nay em hết thích thơ tôi vì thơ chẳng làm ra nhung gấm để trả tiền nhà, tiền điện , tiền xe chẳng biến em trở thành mệnh phụ . Chỉ có tôi là tên khờ chung thủy vẫn yêu em và những áng thơ buồn , chẳng như ai qua cầu rút ván quên nấc thang- thân phận dã tràng. qphuc54@yahoọcom Quang Phục
Mục Lục


3. Em Biết Chiều Nay Em biết chiều nay khi nắng phai Hàng cây buồn bã trên phố dài Em bên khung cửa hờ hững khép Tiếng lá rơi thầm ngỡ bước ai Em biết rằng khi anh đi rồi Lời nào có hứa cũng vậy thôi Chia tay ai biết là mãi mãi Con đường từ đó cũng chia đôi Mùa xuân với em có nghĩa gì Khi cung đàn nắn khúc biệt ly Hồn em một cõi đầy hiu quạnh Giọt nhớ âm thầm trên khoé mi Em biết chiều nay khi nắng tàn Vườn xuân lạnh lẽo gió lang thang Em bên khung cửa hờ hững khép Đan mộng, chỉ toàn mộng dở dang ?

Hồ Thụy Mỹ Hạnh

Mục Lục


4. Nguyện Ước Cuối Năm 2013 Tuấn mã hí vang rộn đất trời Tiếng người mừng chúc vọng muôn nơi An bình thánh đức như mong ước Danh toại công thành tràn biển khơi Dân chủ tự do ... nước ngựa phi Gian lao khổ cực vẫn kiên trì Chặt đức xích xiềng loài qủy đỏ Nhân quyền triển nở bước người đi Lòng dân như thác lũ hiên ngang Tự chủ tiến lên đạp bạo tàn Tình thương chắp cánh năm châu rộng Trời Nam Giáp Ngọ sẽ sang trang Chân thành nguyện ước khấn trời cao Hải đảo biên cương ?Thượng Đế trao * Bản Giốc Cà Mâu chung một mối Từ đây nước Việt khỏi ba đào./. * " Tuyệt nhiên định mệnh tại Thiên Thư ", Lý Thường Kiệt Tacoma WA. chiều cuối năm Qúy Tỵ 2013 Mynh Hứa


Mục Lục


5. Mừng Tuổi Mẹ ! Năm nay con đến, mừng tuổi Mẹ Cỏ biếc cao cao, gió nhẹ rung Trúc Đào mấy nhánh trơ nguyên Lá Sóc, Thỏ lăng xăng ? mắt nhìn chừng Chẳng có Đào, Mai ? mứt kẹo thơm Chẳng phong bao đỏ, vòng tay ôm Chỉ có Trời cao và ? gió rét Tìm quanh đâu thấy, dáng lưng còm ? Mẹ của con giờ? lơ lửng mây ? Hồn tan theo gió rét lạnh đầy ? Hay là hạt Nắng trên đầu cỏ ? Có biết rằng Xuân đã về đây ? Năm nay con đến, mừng tuổi Mẹ Chỉ thấy lòng đau, với lệ cay Còn đâu tia mắt ngoài nhang khói ... Mẹ của con giờ đã ngủ say Jacaranda


Mục Lục


6. Chút Tình Gửi Lại Diễn ngâm: Nghệ sĩ Hoàng Đức Tâm http://www.youtube.com/watch?v=pb39yEETsuM http://www.youtube.com/watch?v=8lBp0_y1M_E Ta đến bên em phút muộn màng, Chút tình thơ mộng cõi nhân gian, Đêm nghe sóng vỗ, sầu hoang dại, Ta sợ ngày mai sẽ lỡ làng ? Ta dệt cho em chút nắng hồng, Mặt trời ló dạng, buổi chiều đông, Đại dương xanh thẳm, màu nhung nhớ, Gởi lại hồn hoang giữa chốn không! Ta gởi về em khúc nhạc lòng, Đêm tàn thổn thức, thấm chờ mong, Tương tư ngấn lệ khô giòng cạn, Tóc trắng tàn phai, dạ héo hon ? Ta gởi về em giọt mưa sầu, Đường xa vạn dặm biết về đâu? Mưa ơi! Nhắn gởi dòng tâm sự, Ngày tháng buồn vui ta có nhau! Mai Hoài Thu


Mục Lục


7. Một Ngày Mưa Bay Nữu Ước cả ngày mưa bay, mưa bay Gió vút lạnh lùng từ Đông sang Tây Mưa giăng nghiêng nghiêng từ Nam lên Bắc Mưa tạt vào lòng. Tình ơi đâu hay. Những con đường dọc ngang người đi, người đi Người đi từ đâu, phương nào thiên di Ta như cánh chim ướt. Trời xa lạ. Co ro trên cành tiếng hót hồ nghi Du khách ngợp đường dù che, dù che Những toà nhà cao. Mưa giăng bốn bề. Xe nối thành dòng đi về trăm ngả Ta đứng bên lề, lạc giữa tỉnh mê Ngồi Starbucks nhìn người lại qua, lại qua Ta ở nơi đây hồn tận phương xa Tình lỡ treo lòng, hồn chìm muôn phố Chết giữa lưng trời. Nắng ấm. Mưa sa. Hương café ngọt ngào, thêm đau, thêm đau Lạnh chỗ ta ngồi, xơ xác lòng nhau Bên ngoài lao xao. Một phương xa vắng Tình ở nơi nào, con tim xót đau Có phải tíếng đàn không còn ngân nga, ngân nga Bốn bức tường không.Tình đã rời xa Những ngón tay mơ hồ đêm tăm tối Thành phố đông người, thành phố tha ma.

Hoàng Định Nam
Mục Lục


8. Vực Thẳm "Tặng một ngưởi? bị quỉ ám " Trời xanh - không che kín đồng vàng ? ánh mắt long lanh soi bóng đại bàng đậu - trên cành sen nở (!) nụ cười em ? hoang vỡ quơ quệt - vệt sáng quái gở làm loan vỡ tấm gương đêm . . . Ngọn núi trên bờ ngực em rung rinh móng cầu vồng ngũ sắc vạt mây xám ngắt - trở mình Sa-tan hiện nguyên hình người đàn bà khỏa thân bềnh bồng trên dòng sông mây lăn tăn trở xoay nhắp nhô mộng mị . . . - Hôn em đi! người đàn bà rên rỉ. . . - hôn em đi . - cần gì phân ly ? sum hợp - người trần thế ơi - hôn em đi - cần chi thiên đàng ? hỏa ngục . . . Tiếng gió thổn thức - thét gào một bóng sao giữa tầng cao lảo đảo. . . hút vào vực thẳm bao la. . . Sông Cửu
Mục Lục


9. Mai Nếu Có Về. Mai nếu có về thăm lại Việt Nam, Cho anh gửi theo nỗi buồn xa xứ, Dãi đất hình cong nằm trên đỉnh nhớ, Em ơi! Quê mình đẹp biết bao nhiêu. Tiếng sáo đồng quê, bay bổng cánh diều, Những gốc rạ còn thoảng hương lúa mới. Anh ở quê người cuộc đời chìm nổi, Dù không đói lòng và trí bình an, Nhưng thương người thân lắm nỗi cơ hàn, Thương mái tranh chiều vấn vương khói bếp, Thương tiếng chày khuya ngày mùa rộn rịp, Vẫn còn in sâu ký ức tuổi thơ, Thương ánh trăng vàng ôm ấp vườn xưa, Thương cả bóng hình người em chung ngõ, Thuở mới biết yêu thấy em còn nhỏ, Định đến mai này khi hết chiến tranh, Sẽ về bên em dệt mộng ngày xanh, Tiếc thay cuộc đời không như mơ ước. Mai nếu có về! Em sang thềm trước, Thăm ngắm hộ anh những khóm hải đường, Cho anh gửi lời nhắn với người thương, Anh ở Quê Người nhớ Quê Mình lắm! Hoàng Yến

Mục Lục


10. Tình Song Phương ( Tặng M & M ) Nếu em yêu anh và không được yêu, Tình của em tình một chiều vô nghĩa, Em kiêu hãnh chẳng lụy tình đâu nhé, Chẳng dại gì đuổi theo gío theo mây. Những thứ em không giữ được trong tay, Em sẽ trả cho anh về người khác, Tình đơn phương là tình yêu thua thiệt, Không phải của mình đừng tiếc làm gì. Cuộc đời còn nhiều lối để em đi, Bao ngã ba, ngã tư cho em rẽ, Những tâm hồn em chưa hề gặp gỡ, Những cảm thông tri kỷ vẫn còn nhiều. Em sẽ yêu người và được người yêu, Cho và nhận tình hai chiều ý nghĩa, Khi xa nhau hai tâm hồn cùng nhớ, Khi gần nhau hai tâm hồn cùng vui. Nếu anh lồng lộng như gío như mây, Em sẽ theo anh khắp bầu trời rộng, Nếu anh chông chênh cánh diều xuống thấp, Em vẫn theo anh làm người tình chung. Hai người yêu nhau tình cảm công bằng, Dù tình được, tình thua em chấp nhận, Tình song phương dù có nhiều thử thách, Hai trái tim cùng vất vả lao đao. Nhưng nếu một ngày mình phải xa nhau, Là em đấy, em không còn kiêu hãnh, Là em đấy, lụy tình em sẽ khóc, Tiếc cuộc tình em từng giữ trong tay. Nguyễn Thị Thanh Dương. MỜI ANH TÔ MÌ QUẢNG. Ở quê người món ăn nào cũng có, Món Tây món Tàu hay món quê hương, Anh thèm ăn tô mì Quảng, Quảng Nam, Em sẽ mời anh tô mì viễn xứ. Mì Quảng ngon kết hợp từ nhiều thứ, Xương heo hầm lên để nấu nước lèo, Tôm tươi, thịt gà, trứng cút, thịt heo, Không thể thiếu bắp chuối tươi bào mỏng. Gía sống, sà lách trộn cùng rau húng ? Bánh tráng nướng vàng, đậu phộng rang bùi, Sợi mì Quảng mềm chan nước ít thôi, Nước lèo sền sệt mới là đúng kiểu. Qủa ớt đỏ vào tô mì sành điệu, Ăn lúc đói lòng, lúc nhớ thương quê, Xứ Quảng nghèo là tình mẹ tình cha, Mồ hôi nhọc nhằn đồng khô cỏ cháy. Ta đi đâu Sông Thu Bồn vẫn chảy, Ta về đâu sông Tam Kỳ vẫn trôi, Thương nhớ vô bờ những sông quê ơi, Thương nhớ qúa những món ăn dân gĩa. Tô mì Quảng ta ăn từ lúc bé, Mộc mạc đơn sơ màu sắc sợi mì, Màu đỏ nâu từ gạo lức xay ra, Hay mì sợi màu vàng pha bột nghệ. Hôm nay mời anh ăn mì Quảng nhé, Nấu bằng những nguyên liệu ở quê người, Em mời anh ăn với tâm tình vui, Tô mì Quảng thấy đất trời quê cũ. Nguyễn Thị Thanh Dương. TÌM EM TRÊN CÁNH ĐỒNG OẢI HƯƠNG. ( Cảm tác từ bài ? Oải Hương xứ nắng? của Phan Trầm Thư trên báo TRẺ). Đừng tìm em ở giữa phố đông, Nếu ngày nào thấy vắng bóng em, Những con đường em thường qua lại, Em đã xa rồi. Tạm lãng quên. Tìm em trên cánh đồng Oải Hương, Đất trời bát ngát một mùi thơm, Anh ơi, những cánh hoa màu tím, Đã rủ em về từ tháng Năm. Màu tím dịu êm đến nao lòng, Em như say rượu giữa hư không, Chếnh choáng vì sắc màu hoang dã, Hoa Oải Hương nở khắp cánh đồng. Nắng tháng Sáu cho hoa đẹp xinh, Mùi Oải Hương ngây ngất gợi tình, Làm ơn tháng Bẩy đừng qua vội! * Hoa sẽ phai hương, sắc sẽ tàn. Em bước đi bên những bụi hoa, Chạy dài thẳng tắp cõi trời xa, Trên cánh đồng em là cơn gió, Chẳng biết mỏi chân, chẳng nhớ nhà. Hái những cành hoa để tặng người, Cỏ khô buộc lại bó hoa tươi, Chỉ là một món qùa đơn giản, Của tình em và của đất trời. Em sẽ ngủ trên cánh đồng này, Khi hoàng hôn khép lại đâu đây, Mùi Oải Hương vẫn còn thao thức, Theo em vào trong giấc ngủ say. Tìm em trên cánh đồng Oải Hương, Em như trong một chuyện hoang đường, Chìm trong hoa, mùi thơm kỳ ảo, Anh chẳng thể nào nhìn thấy em. * Hoa Oải Hương (Lavender) bắt đầu nở từ tháng Năm tới tháng Bảy.
Nguyễn thị Thanh Dương





Mục Lục


11. Mông Lung Em là của những ước mơ Đời anh gió cát bài thơ không cùng Em là của những mông lung Tóc xanh vờn gió giữa thung lũng vàng Lê Miên Khương Mùa thu về em có buồn không Mùa thu về em có buồn không Nắng bớt nồng say má em hồng Trời xanh mây tím hồn em mở Heo may gió nhẹ tóc em bồng Mùa thu về lá vàng nhẹ bay Dỗi hờn em hãy cất trên mây Bờ vai anh đây em gối mộng Với ngày đầy hương trên vòm cây Mùa thu về em có buồn không Qua rồi chuyện mình thời bão giông Vườn quỳnh thơm ngát mùi cổ tích Thu về hương quyện tóc em giăng Mùa thu về em có xốn xang Chim non rời tổ bỏ thiên đàng Lúa vàng trái chín đươm mật ngọt Mộng mình vướng víu điệu tình tang !

Lê Miên Khương
Mục Lục


12. Chia Đôi Vầng Nguyệt (Bên Khung Cửa) Ngày ấy bâng khuâng gót hạ Hoàng hôn về sao thấy dạ lâng lâng buồn Giấu chân tình dào dạt giấc mơ thương Chiều nhạt nắng, tóc bay hương trước gió. Em đứng đợi người xưa bên cửa sổ Gót ngàn khơi tình viễn xứ muôn phương Anh miền Tây góc phố tơ vương Em nẻo ấy nơi chân mây ươm giọt lệ. Cách dặm nghìn chia hai vầng nguyệt xẻ Cánh chim nào nhờ nối nhịp câu thơ? Trao hoa tim cho thỏa lúc mong chờ Anh thuở nao bây giờ có khỏe? Câu nhớ thương, lời thiết tha nhắn khẽ Mong sum vầy cho thỏa nỗi khát khao Tình gieo mơ kết mộng tự hôm nào Chờ hội tụ má đào hồng muôn nỗi? (về người bện vần thợ..)

Tình Hoài Hương
Mục Lục


13. Tuyết Tôi có mời đâu, em đến chi? Trắng xoá đường đi, ngập lối về Cuồng chân lữ khách, thềm hiu quạnh Lạnh lẽo tứ bề, trắng lê thê Em làm nắng sợ, đi đâu mất Nhọc lòng chờ đợi mặt trời lên Dù tôi yêu lắm, không dám giữ Em có ra đi, nhớ đừng về Tuyết ngập đầy lan can phía sau nhà Atlanta 13-2-2014 Vân Hà
Mục Lục


14. Vì Sao ? Tặng cố nhân KHANH MY HUYNH (Utah, USA) Sao em chưa chịu về Để mưa buồn tầm tã Nỗi buồn rơi theo mưa Anh biến thành kẻ lạ Tim buốt giá mong chờ Một người em gái nhỏ Nơi nghìn trùng cách xa Lòng anh còn bỏ ngõ Sao em chưa chịu về Để mưa buồn giăng mãi Dù không gặp nhau đấy Em về, anh cũng vui Trầm Thiên Thu

Mục Lục


15. Đàn Bà Giữa khoảng lặng, trong em là xao động Những phút yếu lòng, những phút ngất ngây Thật ngạc nhiên trái tim còn rung động Tưởng chết đi, tình yêu lại đong đầy. Như từng sóng dạt vào vùng tâm tưởng Chầm chậm chạm vào khắc khoải, cô đơn Dưng lại cảm biết bao nhiêu nổi sợ Tiếng cười vui hay sẽ hóa giận hờn. Ôi đàn bà cuộc đời đâu chỉ vậy Khao khát yêu thương, tưởng tượng, ưu phiền Đổ lỗi trái tim cho bao nhiêu thứ ấy Hay lẽ đời thường con người rất tự nhiên. Yêu, không yêu đâu chỉ là khoảnh khắc Là hoài niệm, là quá khứ, đam mê Thôi dứt mộng hãy trở về hiện tại Thực tế đau thương, cũng có lúc vỗ về. Người đàn bà lại trơ như hòn đá Thật diệu kỳ lúc có lúc không Những gì qua chỉ còn là giấc mộng Nhìn lại trong tâm bình yên ngập lòng. Vành Khuyên Mục Lục


16. Tiếng Gọi Vào Thiền Trời hôm nay vào đông Gió lạnh theo về, lá vàng khô khắp lối Niệm tiếng Nam mô, bước Thiền đi tới Không gian này là tiếng gọi hư vô Buông xả ước mơ, Bụi trần bỏ lại Một cõi vô thường, nhân sinh thế thái Những chuyện đời, tất cả một phù du Dĩ vãng qua rồi, hệ lụy năm xưa Tâm tĩnh lặng, bước đi vào tịnh độ. Tiếng gọi vào Thiền thoảng đâu trong gió Về Trúc Lâm, Bạch Mã viếng Thiền sư Hạnh ngộ hôm nào tâm nguyện chân như Tôi, dấn bước di hành trong sương sớm Huế - 2012 Nguyễn Hải-Bình
Mục Lục


17. Đêm Xuân Gương xuân e ấp lẻn qua song Cung nguyệt thềm hoa tỏa ngát lòng Tuyết nhuốm tơ trời, mai khoe sắc Sương giăng tám hướng đón đào đông Năm canh thao thức nghe gà giục Một mối tơ vò chửa gỡ xong Ngọn gió xuân thì đâu thổi lại Lòng chừng nghe ấm giữa đêm xuân Tình Xuân Về thi hữu Song Vinh Một nét thư xuân ướp đậm tình Trao về thi hữu viếng thăm tin Rằng thời gian có phai mờ lối Hay vẫn tằm tơ đượm ý tình ? Thấm thoát thời gian như khói tỏa Hương xuân bình trắc đẹp tâm linh Ơi, người thi hữu xa xăm ấy ! Có biết cho ai vẫn nặng tình Xuân Muộn Trà sen bình, trắc một mình ta Ngắm cội mai già chớm trổ hoa Nắng sớm, cành trơ khoe sức trượng Sương khuya, chúm chím nụ vàng hoa Lung linh cánh thắm vờn trăng tỏ Ẩn hiện bên rèm bóng nguyệt hoa Cớ tại rằm giêng mai lại nở Hay là xuân muộn tự lòng ta (?) Giáp Ngọ 2014. Tuyền Linh
Mục Lục


18. Anh Ở Đâu, Chiều Nay ... Trời còn mưa, cho, ướt áo em Ướt rèm mi, ướt cả môi mềm Ướt con đường, đang trong mùa nhớ Em đan tay, cầu nguyện, hằng đêm Đông giận hờn, buốt lòng cơn gió Xuân ngại ngùng, an ủi, tình mơ Anh ở đâu, chiều nay, bỏ ngỏ...? Trống vắng hồn em, lúc bơ vơ Tiếng anh cười, ùa về, ký ức Vòng tay, cùng, hơi ấm ngày qua Em giữ hoài, nghe lòng thổn thức Bóng Thiên Di, sương gió, nhạt nhòa Rồi em sẽ, trở về con dốc Nghe dương cầm, khắc khoải, từng đêm Cùng anh, nghe, mưa rớt, bên thềm Nụ hôn ấm, anh trao em, lần nữa...! Quỳnh Đỏ 17-2-2014 ĐÓA HỒNG CUỐI CÙNG Tôi biết, anh. đã định rời gót khỏi vườn hoa. trong công viên nhưng trong lòng vẫn như tiếc. ừ, tiếc điều gì đó. chưa tìm được Đóa hồng. còn duyên ( anh nói thế) em. tôi lấp ló trong gió. Đấy! Tôi chụp. tặng em chả khác gì đóa lòng tôi, trưa nay. sẽ chẳng còn đóa hồng nào cho tới mai bởi. lũ sâu, bọ chúng rồi cũng sẽ ăn thôi...! Quỳnh Đỏ 14-2-2014 SAO EM CÒN BUỒN Em khóc đi, bỏ hờn đôi mắt Anh sẽ về, trong nắng ban mai Đưa em qua, những vùng thương nhớ Nụ cười Xuân, ngày ấy, thương hoài Em đốt đi, những trang thư cũ Đọc thêm buồn, trong ánh tàn Thu Anh vẽ lại, một trang tình mới Anh và em, thôi hết, hoang vu Em đừng qua, ngôi nhà kỷ niệm Anh đi rồi, chốn ấy, tịch liêu Rồi ngày, tháng xóa nhòa nỗi nhớ Chim Thiên Di, ghé, giấc mơ chiều... 13-2-2014 Quỳnh Đỏ
Mục Lục


19. Băng Giá Trong tận cùng cõi lòng sâu thăm thẵm Đầy kín đau thương cay đắng muộn phiền Nên ta tự dỗ ru mình say ngủ Mộng bình thường lặng lẽ giấc cô miên Tuổi thanh xuân qua theo mùa đông lạnh Tình giá băng với trăm nỗi trông chờ Chiều cuối thu nắng hạ còn vương lại Từng sợi vàng sưỡi ấm mảnh hồn thơ Ta thản nhiên nhìn hoàng hôn bóng xế Trút cạn suy tư vào những lời sầu Trái tim ta với trăm đường máu đỏ Khô cạn dần sau mấy lượt bể dâu Để mãi miết tâm hồn như sỏi đá Không lãng du theo những khúc tình ca Chỉ còn lại chút nỗi niềm riêng lẻ Và một nguồn thơ dào dạt xót xa Chung Thủy Hoang Lạnh Ta chợt sầu cúi mặt Thương phận mình vô duyên Nhân dáng gầy héo hắt Theo từng chuỗi muộn phiền Gió lay buồn hiu hắt Nhẹ vờn tóc bay bay Chân lang thang thờ thẩn Từng bước nhỏ lạc loài Giữa lòng con phố vắng Nghe ngậm ngùi xót xa Một cuộc tình rụng vỡ Cuộc tình vừa thoáng qua Còn hằn sâu vết tích Giăng kín hồn đau thương Ta một đời cúi mặt Ta một đời cô đơn Tay ôm tròn phiền muộn Đêm từng đêm khóc vùi Bờ mi hoen nước mắt Xót xa hằn hồn thơ. Chung Thủy Tương Tư Ta vấn vương sầu bởi trót mơ Tình yêu cao ngất đỉnh mây trời Luyến lưu se thắt lòng băng giá Ảo tưởng mơ hồ chuyện lứa đôi Trót lỡ tương tư dạ thẩn thờ Hồn hoang bay bổng giữa vườn thơ Từng đêm trút cạn niềm nhung nhớ Ngày tháng vàng theo nỗi đón chờ Sương trắng giăng đầy trên tóc mây Thời gian làm nhân dáng hao gầy Tuổi xuân chín rụng trong tiềm thức Chồng chất đầy thêm chuỗi đắng cay Người như con nước chảy xuôi dòng Mãi miết đẫy thuyền xa bến sông Trọn kiếp ta mòn hơi ngóng đợi Mấy lần xuân hạ mấy thu đông Chung Thủy ­­
Mục Lục


20. Chi Lăng Cảm Tác Chỗ đứng bây giờ, xưa ải quan Chi Lăng sừng sững giữa mây ngàn Liễu Thăng bỏ mạng bên triền núi Xác thù chồng chất hóa đồi hoang Gươm khua một thuở nên hồn nước Tất đất ngàn năm hóa tất vàng Ngọn cỏ vẫn xanh màu gấm vóc Trời sương phơi quả lượn đồi hoang Sông Trà Chim Phóng Sinh Dáo dát từng con vụt sổ lồng Bán mua sinh mạng thế là xong Người mua chim thả, mong cầu phước Kẻ bán tiền vô, rủng rỉnh đồng Chốn chốn lưới giăng chim sợ đất Ngày ngày mõi cánh trốn từng không Một mai còn dịp tung cánh gió Mơ nhánh đa rừng cắm giữa trăng Sông Trà Em Nhiệm Mầu Tôi là mãnh đất cằn khô Tưởng chừng cỏ chẳng bao giờ mọc đâu Em ban cho chút nhiệm mầu Bổng nhiên đất hóa củ rau bốn mùa Sông Trà Hẹn Em Kiếp Sau Hẹn em kiếp trước ngàn năm ấy Gặp gở đời nay kết vợ chồng Nên phải trao nhau lời hẹn tiếp Em còn hứa nữa với anh không? Sông Trà
Mục Lục


21. Gặp Lại Em Nơi Xứ Lạ ... Ba mươi bảy năm qua .. gặp lại em nơi xứ lạ quá ngỡ ngàng ...bốn mắt nhìn nhau giờ đây em không còn là tiểu thư sang giàu . Nay em cũng là người xa miền quê cha đất tổ chắc đời em khổ - đôi mắt buồn hiu miệng em cười sao quá tiêu điều chỉ thốt lên đôi lời: "Chào anh, mạnh giỏi!" Ba mươi mấy năm rồi mới nghe em nói sao thấy lòng đau nhói tận tim như có hàng ngàn cây kim chích vào tim anh ứa máu. Thời gian qua rồi em sống ra sao? da tuyết trắng, nay đã phai màu màu bông phấn nay trở thành cỏ úa tiếc đời em đã sống trong nhung lụa ... Vì đổi đời vào buổi sáng ba mươi tháng tư đen, đã đưa đời em vào bóng tối bây giờ anh không biết gì để nói anh chỉ gọi thầm: "- Em hởi! "Anh vẫn Yêu Em!". Song An Châu
Mục Lục


22. Muà Xuân Hát Muà xuân như hát trên đồi Muà xuân ai hát ,em ngồi nhớ anh? Điệu thương ,điệu nhớ, ngọt lành Điệu trinh, điệu trắng, trên vành môi xinh? Muà xuân ,xuân hát hưũ tình Muà xuân xuân hát xốn tình trong em Muà xuân lộc toả khắp miền Lộc trao nỗi nhớ trong em mấy muà? Muà xuân bỏ hết cay chua Để xuân gió thổi luà vào tóc mây? Muà xuân nắng đẹp hây hây Muà xuân nắng đẹp như lời tiếng chim ? Giấc mơ xuân cuả em Muà xuân đó em về bên anh bỡ ngỡ Giấc mộng đầu tha thiết vẫn còn đây Muà xuân đến em buông thả tóc mây Đứng bên anh em nghẹn ngào ôm kỷ niệm... ** Em thẹn thuà nhìn con chim chiền chiện Mật tình yêu hương sắc cuả xuân về? Tà áo dài em cứ bịn rịn mân mê Anh nhìn em đôi mắt còn đẫm lệ? ** Vòng tay ôm siết chặt câu tuyên thệ Hương mật tình anh rót mãi tai em Đường làng mình ta qua lối cỏ chưa quen Càng tha thiết khi màn đêm rung nhẹ ** Ái ân ơi đưa ta chìm vào rất khẽ... Muà xuân về em không lỗi hẹn cùng anh?/ Đẹp muà xuân ta dạo buớc loanh quanh Bao em nhỏ chúc mừng chào anh chị? ** Một muà xuân ôi tươi đẹp quá nhỉ Hằng trong em một giấc mộng xuân về Từ thị thành cho đến các nẻo xa quê Em cùng anh xuôi đò trong một chuyến?. Bức tranh xuân Một vẻ non xa rất như gần Hoa đào cười nụ trước thềm sân Chú gà thêm thiếp buồn không mổ Cỏ mượt chân đê ngỗng tần ngần Sắc thắm đường đi những bước chân Mấy cô thôn nữ đẹp tuyệt trần Mắt biếc mày cong da hồng ửng... Những chàng trai nọ cũng thanh tân ? Mùa xuân thắm Chim non đang hót véo von ngoài bờ trúc Gió ngoài đồng cũng đưa hơi cỏ thơm tho Bên khung cửa sổ em e thẹn thập thò Như mơ tưởng một mùa xuân đang tới Một mùa xuân đất trời đang thay áo mới Em dại khờ cũng phải biết điểm trang Không lòe loẹt lắm nhưng đủ chút dịu dàng Và tươi nhã như mùa xuân đang thắm Để anh mê và ưa nhìn ngắm Một mùa xuân và em đó cả hai Và để cho anh khỏi thắc mắc chê bai: Em chậm quá không theo kịp mùa xuân thắm Một muà xuân đất trời như đang tắm Tắm da em và tắm cả da trời Muà- xuân- tình đang trải rộng khắp nơi nơi Mà anh muốn nơi em- Là khởi điểm? Trần Thị Hiếu Thảo
Mục Lục


23. Mùa Trống Hoác . Các Linh Hồn Ở đất những dòng lệ thấm lời trơn tuột Ý niệm bức hại khiên cưỡng bày ra trên thân xác các nhân chứng. Từng lời biện hộ trước các phiên tòa rong rêu tuồng trò Nỗi dị thường chẳng thể dự đoán càng lúc càng thêm ngác ngơ ở những chặng cuối. Loài ruồi trâu ỷ mình to con lớn xác thờ ơ đến độ ngu ngơ chẳng biết chúng đã vong thân trong vòm trời lạ. Trên những xác chết dòi bọ ta mãi luôn đi tìm nhau Tìm nhau như vẫn từng mong tìm thấy nhau. Những niềm mong ước luôn rơi vãi trên đường trần Mà nào đã thấy gặp đâu Chỉ toàn thấy những cái xác ốm tong nằm khoèo bất lực Trên từng chặng từng khúc từng mảnh đời nghe ra như đoạn trường ? Chu Thụy Nguyên
Mục Lục


24. Ly Biệt Nếu đã biết đời người là ngắn ngủi Xin đừng đem buồn tũi đến cho nhau Vườn Xuân tàn hương sắc đã phai màu Tình xế bóng chẳng thiết tha quyến luyến Nơi xa xôi em mãi luôn cầu nguyện Thời gian đi là liều thuốc nhiệm mầu Tình đơn phương là một mối tình đau Sầu muôn kiếp là trăm năm tình lỡ Làm sao xóa những trang thư bỏ dỡ Khung trời xưa nặng trĩu áng mây sầu Nói đi anh thời gian đã qua mau Lần ly biệt là nghìn trùng xa cách Dạ Lan CHỜ NGƯỜI Từ khi tôi biết mộng mơ Từng đêm thao thức ngẩn ngơ nhớ người Thầm thương bốn chục năm rồi Một lời ước hẹn trọn đời có nhau Ngày xưa ôm nổi thương đau Tương tư hai chử sầu đau một đời Nụ hôn Em đã trao rồi Trong ngàn nhung nhớ một trời yêu thương Yêu nhau xa cách đại dương Niềm thương nổi nhớ trăm đường đắng cay Hảy yêu trao hết đời này Thương nhau trọn kiếp tình trao trọn tình Xuân này Anh đến thình lình Không còn mong đợi môt mình bơ vơ .. Giận Anh rồi giận đến thơ Mi ngoan ứa lệ hững hờ đôi môi Tất cã tại chỉ Anh thôi Chưa vơi nhung nhớ lệ rơi mắt sầu Nói vậy Em chớ giận đâu Nhớ Anh thức suốt canh thâu dậm trường Yêu Anh lòng mãi tơ vương Môi kề má tựa mặn yêu đương mặn nồng... Dạ Lan
Mục Lục


25. Thênh Thang Nỗi Chờ Xin được ở cùng em nơi chốn ấy một chốn đời phẳng lặng những phong ba để nước mắt là cõi tình che đậy dẫu nguồn sông cuối bãi vẫn quê nhà xin được giấu chút buồn không cội rễ có gì đâu ngày tháng vẫn vô tình đời cứ phải cuốn vào dâu bể bước chân nào lưu lạc mãi lênh đênh mềm môi uống ngụm sầu xưa vô vọng tóc đã phai, màu mắt cũng trăng sương những ao ước như mùa đông lạnh cóng hỏi bao giờ tìm gặp chút dư hương dòng thơ cũ không còn trong ký ức em mang theo trong cay đắng muộn màng biển vẫn đợi con sóng về thao thức khung buồn xưa nỗi đợi vẫn thênh thang Mạc Phương Đình
Mục Lục


II . Văn___________________________________________________________

1. Một Ngày Đi Khám Bệnh


Nguyễn Thị Thanh Dương


Tôi đẩy cửa bước vào phòng khám của bác sĩ. Đã có đông người ngồi chờ, tôi liếc mắt nhìn quanh ba dãy ghế xếp thành hình chữ U, không còn chỗ nào trống cả. Hầu hết bệnh nhân đều là người Việt Nam, họ đang râm ran nói chuyện trong khi bác sĩ chưa đến.

Cái hẹn của tôi là 11 giờ trưa, tức là ngay đầu giờ khi bác sĩ bắt đầu làm việc, thế mà những người này còn đến trước cả tôi, chẳng biết họ có hẹn vào giờ nào mà sẵn sàng đến sớm thế?.

Một chị bế đứa con đang ngồi ghế bên cạnh lên lòng mình và chỉ cho tôi cái ghế vừa trống đó:

- Chị ngồi đây đi.

Tôi ngồi xuống cạnh bà mẹ trẻ, chị ta có hai đứa con, độ lên 5 lên 3. Ba mẹ con chị chiếm 3 ghế, nên chị nhường một ghế cho tôi.

- Em trông chị quen quen, hình như có gặp chị ở đâu rồi thì phải? Bà mẹ trẻ bắt chuyện.

Tôi cố moi trí nhớ, vẫn không biết chị ta là ai.

- Nếu vậy thì chúng ta đã từng gặp nhau ở chợ Việt Nam chứ ở đâu khác nữa? Tuần nào chúng ta chẳng đi chợ, hết tháng nọ đến năm kia, thì ai cũng ?quen quen? hết.

Bà mẹ trẻ reo lên:

- Đúng rồi, chị nói em mới nhớ, em hay gặp chị đi chợ Việt Nam.

Tôi nhìn đồng hồ đeo tay, đã 11 giờ mà bác sĩ chưa đến. Tôi thông cảm, bác sĩ cũng là người Việt Nam nên có quyền đi trễ theo ?truyền thống? của đồng hương mình. Mỗi lần lấy hẹn đi bác sĩ này là tôi đã chuẩn bị cả thời gian lẫn tinh thần, vững lòng chờ đợi, và an ủi rằng mình lang thang trong shopping mall cả vài giờ còn được, huống chi là đi gặp bác sĩ để khám bệnh thì sự đợi chờ không có gì là phí phạm.

Nhưng bà mẹ trẻ bên cạnh thì có vẻ không kiên nhẫn như tôi, chị ta chép miệng than:

- Giờ này mà bác sĩ chưa đến!

- Thì cũng phải du di cho bác sĩ chút đỉnh , con người chứ có phải máy móc đâu mà đúng y chang cho được?. Một bà to mập bên ghế đối diện vọng sang, như một trọng tài bênh vực cho bác sĩ..

Bà mẹ trẻ phân bua:

- Nhưng em chỉ sợ hai đứa trẻ không chờ đợi được thôi.

Bà to mập có vẻ nao lòng, xuống giọng thông cảm:

- Thế hai đứa nó bệnh gì mà đi khám?

- Dạ, không có đứa nào đau bệnh gì cả?

Bà mẹ trẻ ngừng lại vì phải hắt xì hơi, làm bà kia tò mò hơn, sốt ruột hơn:

- Vậy mang tụi nó đến đây khám cái gì chớ? Hèn gì nãy giờ thấy hai đứa chạy đùa, nghịch như qủy, phá như giặc!.

Bà mẹ trẻ đủng đỉnh tiếp:

- Em bị bệnh, cảm cúm cả tuần nay chưa khỏi, em mới là người cần gặp bác sĩ. Nhưng không mang tụi nó theo thì ai trông cho?

Thì ra thế, những người có mặt ở đây biết đâu một nửa là đi theo người bệnh, chồng chở vợ, con chở cha mẹ gìa đi bác sĩ?

Bên cạnh tôi là một bà sồn sồn, nãy giờ ngồi im nghe chuyện người khác chắc đã chán chường, bèn mở túi xách lấy ra cái cell phone bấm lia lịa:

- Hello! Hello!

Giọng bà lên cao, chắc để đầu dây bên kia nghe cho rõ. Bà nói chuyện rổn rảng, thoải mái như đang ở trong bếp nhà bà, toàn là kể chuyện Việt Nam, nào gía tôm, gía thịt, cá, xăng dầu, bà nói vanh vách y như bà mới ở Việt Nam ngày hôm qua. Qủa thế, bà mới từ Việt Nam về, lại khoe ba tháng nữa sẽ trở lại Việt Nam dự đám cưới con cháu, rồi Tết này về chơi. Tính sơ sơ bà tốn bộn tiền vé, nền kinh tế nước Mỹ đang khó khăn, ngành hàng không đang ế ẩm, chắc cũng phải mang ơn bà khách nhiệt tình này.

Nói xong chuyện đường dài, đóan là tôi ngồi bên đã công khai nghe trọn gói, nên bà tiếp tục kể thêm cho đã:

- Nhà tui quanh năm suốt tháng có đồ Việt Nam, cá khô, tôm khô, mắm cá, mắm tôm, cho đến trà, cà phê, không thiếu món gì, vừa rẻ vừa ngon.

- Nghe nói đồ ăn Việt Nam có nhiều món độc hại lắm mà chị?

- Nói vậy thì cả mấy chục triệu dân Viêt Nam lâm nguy hết sao? Chỉ vài món thôi, thiệt hại không đáng kể. Về Việt Nam thấy người ta vẫn chen chúc đầy đường đó.

Tôi thắc mắc:

- Nãy giờ nghe chị nói chuyện phone đường dài thấy vui ghê, nhưng hôm nay ngày thường phone chị còn phút không? Coi chừng họ tính gía mắc đó.

- Không sao, bên kia cũng dùng cùng hãng cell phone của tui nên free bất kể ngày đêm. Bởi thế đi đâu tui cũng mang theo cell phone để gọi chơi.

Sau vài câu, bà sồn sồn đã có vẻ thân với tôi, bà tâm sự:

- Tui qua Mỹ diện con lai, mấy đứa con tui tuy không ăn học bắng cấp gì, nhưng tụi nó mỗi đứa đều làm chủ một tiệm nail cũng sống ngon lành. Tui ở nhà trông con cho tụi nó, hàng tháng có tiền hậu hỉ, nên đi đi về về Việt Nam thường xuyên.

- Chúc mừng các con chị có công việc tốt, có gia đình đàng hòang. Đâu phải cứ ăn học có bằng cấp này nọ mới là thành công.

- Vậy mà về Việt Nam ai cũng hỏi con tui có bằng cấp gì không. Làm như sang Mỹ ai cũng phải trở thành bác sĩ, kỹ sư vậy đó.

Sau phần tự khai, bà phỏng vấn tôi:

- Còn chị sang Mỹ diện gì? Mấy con rồi? Có đi làm không? Hay là ở nhà trông con như cái chị có hai đứa con mang theo kia?

Chẳng phải mình bà sồn sồn mà hình như mấy bà khác nãy giờ hóng chuyện, cũng đang đợi câu trả lời của tôi. Theo như người Mỹ thì đó là những câu hỏi đi vào đời tư, nhưng người Việt Nam vốn hồn nhiên thân thiện, hỏi thăm nhau chuyện gia đình con cái, chuyện công ăn việc làm là thường tình, những điều này đâu phải chuyện quốc phòng mà cần giữ bí mật. Nghĩ thế nên tôi đáp đầy đủ như tờ khai lý lịch cho các bà khỏi mất công hỏi thêm chi tiết:

- Tôi đi diện bảo lãnh anh chị em, có một chồng hai con, hiện nay đi làm hãng xưởng, con thì gởi baby sit người Việt Nam gần nhà vừa rẻ vừa tiện, kiếm thêm đồng nào hay đồng ấy.

Một bà khen nức nở:

- Chị biết nghĩ vậy là hay đó, chồng con được nhờ.

Bà bác sĩ bước vào phòng khám lúc đồng hồ chỉ 11 giờ 20. Mọi người tươi tỉnh hẳn lên và im lặng chờ đợi cô nhân viên gọi tên:

- Lê thị Lý.

Bà mẹ trẻ vội vàng đứng dậy, nói với tôi:

- Chị làm ơn để mắt trông hai đứa con giùm em một lát, khám xong em ra ngay.

Khỏi phải hứa hẹn, khám xong thì chị ra ngay chứ ở trong ấy làm gì. Ai mà không biết thế. Nhưng tôi vẫn phải từ chối vì giờ hẹn của tôi là người đầu tiên:

- Tôi cũng vô khám bây giờ mà.

Bà trọng tài hồi nãy vội hứng:

- Để đó tui coi cho, cứ vô khám cho thoải mái đi, ông nhà tui đi bác sĩ chứ không phải tui, nên rảnh lắm.

- Dạ, cám ơn bác. Thôi em vào đây, hai con ngồi chơi coi ti vi, ngoan đợi mẹ nhé.

Nói xong chị Lý tất tả đi vào.

Tôi ra ô cửa sổ, hỏi cô nhân viên:

- Tôi có hẹn lúc đầu giờ mà nãy giờ cô kêu ba, bốn người chưa có tên tôi?

- Xem nàỏchị là Nguyễn thị Bông chứ gì? Tôi tính gọi chị bây giờ nè, mời chị vào.

Nếu tôi không ra hỏi thì chưa chắc gì được gọi? Lấy hẹn là một chuyện, nhưng ai đến trước vẫn được gọi trước, cho nên người ta mới đua nhau đến sớm ngồi chờ như thế này. Tôi chẳng cần bắt bẻ hơn thua làm gì, ở đời nhường nhau một tí cũng không sao, tôi chỉ sợ cô nhân viên sai sót gì đó nên không có tên tôi trong danh sách khám bệnh ngày hôm nay mà thôi.

Nếu bên ngoài là cảnh đợi chờ phần 1 thì bên trong là cảnh đợi chờ phần 2. Sau khi cô y tá cho tôi lên bàn cân, đo áp suất máu, tôi vào một phòng trống, ngồi đợi bác sĩ.

Ngồi một mình trong phòng, tôi chưa kịp buồn chán thì đã được nghe tiếng bà bác sĩ và bệnh nhân ở phòng bên vọng sang:

- Bác sĩ khám tổng quát và chích ngừa cho em để em về Việt Nam.

Bà bác sĩ cũng tò mò như tất cả những người đàn bà khác:

- Ủa! Về Việt Nam làm gì mà năm nào cũng về?

Giọng kia nói như rên rỉ và trách móc:

- Bác sĩ quên rồi sao? Năm ngoái bác sĩ cũng hỏi em câu này, em nói rồi mà. Tại thằng chồng em nó về, nên em phải về theo canh chừng. Bỏ nhà, bỏ công việc đi Việt Nam em rầu lắm. Nhưng không về thì trước sau gì cũng?.mất chồng, con gái bên Việt Nam bây giờ trời thần lắm, gía nào cũng bám vô mấy cha Việt Kiều, bất kể gìa trẻ, xấu đẹp, handicap.

Bà bệnh nhân thật thà chẳng hiểu sự đời, một ngày bác sĩ khám và nói chuyện vặt với bao nhiêu người khách, về nhà bà còn chồng con, còn bao chuyện đời thường, thì giờ đâu mà nhớ hết những chuyện tào lao nơi phòng khám trong suốt một năm trời?

Mười lăm phút sau bác sĩ mới sang phòng tôi, hay đau bụng ngâm ngẩm là đau bao tử nhẹ, nên tránh suy nghĩ, lo âu, phiền muộn. Bác sĩ vừa hí hoáy viết toa thuốc vừa dặn dò thế sau khi đã khám bệnh cho tôi.

Bước ra ngoài tôi thấy ba mẹ con chị Lý đã ra về, còn bà to mập làm trọng tài đột xuất lúc nãy vẫn ngồi đợi chồng, các ông bà gìa về hưu thế mà hạnh phúc, đi đâu cũng có nhau. Bà rảnh rang nên thoải mái và bao dung ngồi đợi bác sĩ bao lâu cũng được, còn những người như chị Lê thị Lý kia, bận chuyện con cái, chuyện nhà, người ta xót xa từng giây từng phút đợi chờ là phải rồi.

Tôi chào thầm: ? Thôi, bà ở lại thêm tí nữa nhé, thấy ai cần thì giúp đỡ, làm phước?.

Khách ngồi đợi vẫn đông, bác sĩ tha hồ làm việc và đồng thời tha hồ hốt bạc. Hèn gì ai cũng ước mơ con cháu mình học làm bác sĩ.

Tôi lái xe đến nhà thuốc tây của một người Việt Nam làm chủ, cách phòng khám bác sĩ không xa. Tôi luôn ủng hộ đồng hương khi chọn bác sĩ gia đình, chọn nơi mua thuốc.

Ông dược sĩ chủ tiệm là một người trung niên, vui tính. Người ta nói rằng ông không thích đi làm thuê, dù lương bổng cao, quyền lợi đầy đủ, mà thích làm chủ công việc của mình, giờ giấc tự do thoải mái.

Cửa hàng thuốc khang trang, rộng rãi, ông chủ tiệm sắm một bộ cờ tướng để qúy đồng hương ai rảnh cứ việc vô đấu vài ván cờ cho vui, nên luôn có kẻ ra người vào, luôn râm ran tiếng cười nói. Nếu khách không đánh cờ thì cũng ngồi rung đùi uống nước trà và tán dóc với ông chủ những khi vắng khách hàng mua thuốc.

Tôi vào gặp lúc dược sĩ đang bán thuốc, trong khi bàn ngoài có hai ông đang đánh cờ và mấy ông ngồi coi. Toàn là những ông tuổi xế chiều, tuổi về hưu, nếu không thì cũng đang bị lay off chưa có việc gì làm. Quanh quẩn ở nhà với vợ mãi cũng chán, nên đến đây giải trí cờ tướng hay nói chuyện trên trời dưới đất, mà không hề bị vợ xía vô, mắng át như ở nhà.

Tôi làm bộ ngây thơ, ngơ ngác hỏi dược sĩ:

- Ở đây vừa là tiệm thuốc tây vừa là hội người gìa hả ông?

- Hội hè gì. Đây là cửa hàng thuốc tây 100%, nhưng ai đến chơi cũng welcome.

Tôi ngợi khen và hứa hẹn:

- Ông chủ thật là vui tính. Mười mấy năm nữa chồng em về hưu, chắc cũng sẽ đến đây góp mặt, anh ấy thích đánh cờ tướng lắm.

Một ông ngoài bàn cờ kêu lên:

- Mười mấy năm nữa chồng chị mới về hưu thì chúng tôi đã vô viện dưỡng lão hay ngủm mất rồi.

- Bây giờ khoa học tiến bộ, điều kiện y tế cao, người ta khỏe mạnh và sống lâu hơn, các bác ạ.

Tôi mỉm cười chào mọi người, ra khỏi cửa hàng thuốc tây.

Ôi, đơn giản, tình đồng hương! Những người Việt Nam hồn nhiên và thân thiện, dễ dàng chia sẻ những câu chuyện buồn vui.

Như chị Lý đi khám bệnh mang theo cả hai đứa con, làm như ở đâu có người Việt Nam cũng đều là hàng xóm của chị, cứ việc an tâm nhờ vả, gởi gấm con cái.

Như bà đi diện con lai kể chuyện gia đình con cái, chuyện làm ăn cho một người lạ mới quen chưa đầy 5 phút.

Như người đàn bà than thở với bác sĩ chuyện theo chồng về Việt Nam?.

Và như ông dược sĩ này, mở nhà thuốc và mở chỗ cho đồng hương ghé chơi.

Tôi cảm thấy lòng mình vui vui khi hòa đồng với những người đồng hương dễ thương đó.

Nguyễn Thị Thanh Dương


Mục Lục


2. Xóm Cụt (truyện dài nhiều kỳ)

Đỗ Thành




Phần 36

Dù đã hoàn tất thủ tục kiểm soát, đóng tiền tu bổ phi cảng theo từng đầu người ra đi và đã được chỉ vào phòng cách ly, nhưng gia đình tôi vẫn chưa thực sự yên tâm. Những năm cuối thế kỷ 20,...dù đã trải qua thời gian của cái gọi là đổi mới, cởi mở, song tâm trạng người sắp lìa xa quê hương vẫn không lấy gì làm chắc chắn. Đã từng có chuyến phi cơ ra đến phi đạo chờ lệnh cất cánh bỗng bị gọi vào lại và ai đó bị giữ vì chưa xong phần việc nào đó thật oan uổng.

Thế nên, bảo sao, những người tù được thả khi cầm cái giấy phóng thích trong tay đều vội hớt hơ hớt hải chạy đi như bị ma đuổi, khiến cho bảo vệ phải la lên nhoi nhói : các anh hấp tấp gì như đi ăn cướp, thong thả chờ tôi với chứ. Điều này kinh nghiệm những ai đã từng sống trong vòng rào giam giữ đều có nhận xét như nhau. Bởi vì thực tế đã có những cụ râu bạc trắng, đã giải ngũ hẳn hoi, nhưng giữa cảnh hỗn quân hỗn quan vẫn sợ không phải đầu phải tai nên thôi thì trình diện quách cho xong việc.

Vậy mà đến chừng có lệnh cho về cũng bầm trầy bầm trật bị giữ lên giữ xuống vì khi thì phường sở tại chưa chịu nhận, khi thì địa phương còn lằng nhằng sao đó. Cho nên chẳng cần ai mách lại, tự động nhãn tiền cũng làm cho mọi người đều nín thở qua sông. Mấy mươi năm kẹt lại nơi quê nhà, con người đều bị triệt tiêu hết cái gọi là tự do tối thiểu của mình.

Trải dài theo năm tháng, những buổi họp tổ, học tập tại địa phương làm cho con người điêu đứng. Thích hay không thích, hễ có lệnh là nhanh nhẩu đi dự, càng những anh có lý lịch bị dòm dỏ càng lo mà đi cho sớm nhất. Nghe hay không, thâm nhập chừng nào chưa cần biết, điều cần là phải có mặt cái đã. Gia đình bình thường thì chỉ cần một người đến cũng xong, nhưng gia đình tôi tất phải đông, phải đủ, không sót một người.

Người ta vờ mừng mừng hỏi han, nhưng ngầm xem xét coi ai thiếu, ai vắng. Cho nên lâu ngày đâm quen, cái sợ lúc nào cũng quẩn quanh, ám ảnh. Ai hỏi cũng khép nép lo âu, nhất là vớ va vớ vương cái anh khu vực chạy ngang chỉ cần hỏi ? khỏe chứ chú ? đã lo anh ấy hỏi làm gì nhỉ.

Chỉ đến khi mọi hành khách bị lùa ra chiếc xe ca để đưa đến chiếc phi cơ nằm ở mãi đâu, lòng tôi mới được cởi dần từng nút rối. Rồi nhập vào khoang phi cơ, nhận những nụ cười của mấy cô tiếp viên mặc áo dài màu cánh sen của hãng HKVN mà cứ tưởng mình còn nằm mơ.

Trời tháng 6 nóng hầm hập, hệ thống giảm nhiệt của phi cơ lại cũ nên mồ hôi vã, nhưng chỉ lâm râm cầu xin giây phút cuối đều xuôi rót. Chiếc phi cơ nạp đầy hành khách, chạy rì rì trên đường băng ra phi đạo, tiếng máy vi âm chào mừng và thông báo chặng dừng sắp đến, nghe lao xao vẫn không lấn át được tiếng tim đập bình bình trong người.

Tôi nhìn sang vợ thấy miệng cô lép nhép, tôi hiểu cô đang niệm cấu xin thông suốt. Chỉ có bọn nhỏ thấy nhởn nhơ, hình như với chúng chuyện ở hay đi cũng vậy vậy. Đường băng sao dài ngoằn, máy bay rì rì đi mãi không đến, lúc quẹo bên này, lúc tạt bên kia. Đến đầu phi đạo lại chờ phiên vì có một chiếc đã nằm sẵn trước. Hồi hộp, lại hồi hộp kéo dài.

Cuối cùng thì đến phiên, chiếc phi cơ dềnh dàng ra phi đạo. Phi hành đoàn rồ thử máy, tiếng cánh quạt loang loáng o o, phi cơ nhắp nhắp rà thắng, chúi chúi nhiều phen. Tiếng căn dặn buộc dây an toàn và tắt thuốc lẻo nhẻo.

Lòng tôi rộn lên khi bánh xe bắt đầu chạy nhún trên phi đạo. Tốc độ rào rào, nhanh hơn, nhanh hơn, tiếng máy rung rung nghe ù tai nặng ngực. Các hăng ga lướt qua, bãi cỏ lởm nhởm trôi tụt lại, những mái nhà xa xa bị vùn vụt quẳng lại dần, cái đầu máy bay đã ngóc lên, tiếng máy càng rậm rực.

Và phi cơ vút lên, nhả cái đường băng như trút đợt chờ đợi cuối cùng nhanh chóng. Nhìn qua khung cửa kính, Tân Sơn Nhất nhỏ dần, nhỏ dần, chỉ còn li ti những mái nhà úp chụp lên nhau, những khoảnh ruộng loa lóa nắng, một dòng sông ngoằn ngoèo uốn lượn.

Quê hương tôi đây sao, cái quê hương đã sản sinh ra tôi, ủ ấp dài hơn nửa thế kỷ, trải bao thời gian buồn vui lẫn lộn, bây giờ tôi lại bỏ đi đành lòng. Tôi thấy lòng duềnh lên đau nhói, không khóc mà sao mắt ướt nhoen. Tôi nhìn sang vợ, nàng như vừa bị xụm xuống và ngả vào vai tôi âu yếm. Tôi biết nỗi buồn đang nhen nhúm lên trong nàng, mắt nàng xa vắng lục tìm qua khung cửa những vật gì đó.

Đúng lúc chiếc máy bay chao nghiêng, chỉ thấy một chút cánh chỉa lên tầng mây xanh với những cụm gòn nõn. Tôi lần tìm bàn tay vợ, bóp chặt, ngầm bảo : thôi nín nhịn đi em. Vợ càng nép vào tôi chua xót. Bọn trẻ ngơ ngác nhìn, tôi biết chúng lạ lẫm vì lần đầu tiên được ngồi trên trời.

Phi cơ chào sân bay lần chót rồi bay vút đi, bỏ lại nắng Saigon, phố đường cỏn con bên dưới, lướt qua bao chặng mô tê mốc thếch nào đó, để rồi chỉ còn núi non, một rẻo biển quằn quèo. Tôi thực sự đã lìa Saigon, đeo rủng rỉnh trên ngực tấm thẻ IOM như một người khác biệt.

Bọn nhóc mệt nên ngủ vơ ngủ vất. Vợ và tôi thì nheo nhóc thức dài. Bao nhiêu tâm tư còn trĩu nặng, làm sao chúng tôi yên tâm nhắm mắt dù để qua đi chốc lát. Danh xưng quê hương vẫn còn trĩu nặng trong hồn, thật quá dễ mà sao quá khó. Cơ mưu này tôi phải chờ đợi đến hai mươi năm mới được, dài bằng cả thời gian xảy ra cuộc chiến trên phần đất miền Nam.

Tôi loáng thoáng nhớ về anh ân nhân, lẩm nhẩm chắc giờ này anh lại đang trầm ngâm nhìn cái ống bơm, thùng nước vá chờ khách. Tôi nhớ lại bao ân tình anh đã đùm bọc cho tôi, cho gia đình mà ước chi giờ này cũng có anh cạnh tôi trên chuyến bay. Tôi cũng loáng thoáng nhớ vợ chồng ông chiến sĩ hưu vội vàng ra sân ga tiễn đưa tôi vào giờ phút cuối. Bao giờ gia đình tôi lại gặp được họ đây.

Thôi hết rồi những ngày mè nheo trình diện phường với quyển sổ tay ghi từng ngày sinh hoạt. Thôi hết rồi những lần anh khu vực ghé nhà hoạnh họe bắt làm lại tờ lý lịch ép nhau. Thôi hết rồi những ngày chưa kịp ăn cơm đã vội lóc cóc đến dự họp kẻo bị qui là thành phần chậm tiến. Thôi hết rồi những lần bình công để chỉ định đi kinh tế mới đau đầu.

Tôi đưa hai tay bịt lấy tai để ngăn tiếng động cơ rì rầm khua động. Tôi ghé vào tai vợ nói nhỏ : xong rồi, em chợp mắt đi một tí cho đỡ nôn nao. Vợ tôi chẳng nói chẳng rằng, cứ rúc sát vào tôi, lịm đi vì ly biệt. Tôi thả lòng cho lỏng, nhưng xì xào tôi nghe vợ hỏi mà đau : chừng nào mình lại trở về, anh nhỉ.

Tôi quay vội đi để tránh những nắm muối nàng vừa vất vào người. Tôi như mớ cải nằm yên nhận những nạm mặn để cho nồng cho khú vì trong người tôi giờ đang là một biển cả mênh mông. Tôi nói lầm thầm : xin giã từ Xóm Cụt.

Hết

Đỗ Thành

Mục Lục


3. Hiến Chương Tình Yêu (truyện dài nhiều kỳ)

Tình Hoài Hương



Chuyện ANH và TÔI

Phần Thứ Nhì

Chương 8



Khoảng Lắng Phiêu Bồng Ngọt Lịm









Đại gia đình tôi đoàn tụ dưới phòng ăn, là nơi gắn bức ảnh ?Tiệc Lỷ ở nhà anh chị Tư Khánh. Trong nhà nầy đã có năm gia đình khác là: các anh chị em từ ngoài phố, dưới Tùng Nghĩa, ở Địa Dư đều đến đây quây quần bên má, họ ân cần vui vẻ, sung sướng thay phiên nhau hầu tiếp má. Mọi người hân hoan mừng vui cuống quýt. Tiệc tùng tưng bừng suốt mấy ngày, chuyện trò hoan hỉ nổ như bắp rang, thiệt vui vẻ hết biết. Nhưng, ý của má tôi là chỉ muốn ở đây phụ chị Tư vài tháng buôn bán kiếm tiền lời. Rồi ra Giêng, tháng Hai gì đó, thì má lại lò mò về quê ở với ba, và làng nước đồng ruộng mênh mông thôi.

Một buổi trưa chủ nhật, tôi dẫn Cảnh đến nhà chị Tư thăm má. Má cùng mấy chị đang bận rộn ngồi trước những cái thúng mẹt to tướng, họ lo gói bánh tét, bánh chưng, làm đủ thứ mứt, và bánh ngọt. Họ trao đổi chuyện trò tương đắt rôm rã lắm! Cảnh đứng sát bên tôi, chàng gật đầu chào họ và nói nhỏ câu:
- Cháu chào bác. Chào mấy chị...
Có lẽ do trong phòng mở radio ồn ào, hoặc do họ lo tíu tít trò chuyện, hay là do anh ?dè dặt? nói giọng Nam hôm nay hơi nhỏ, (không ?rổn rảng? như vài lần Cảnh ?đấu hót líu lỏ với các cháu, và tôi). Thế nên má và mấy chị của tôi không nghe chăng? Một lúc sau, tôi thấy hai bà chị của tôi đang vui vẻ, tự nhiên thấy bóng dáng Cảnh và tôi đứng xớ rớ gần má tôi... thì họ đổi sắc diện, xù mặt ra. Tôi thấy má ngẩng lên nhìn anh, má im lặng cúi xuống ngay.

Sau đó Cảnh ra ngoài vườn ngồi chơi với các cháu nhỏ. Tôi hồi hộp, có phần bồn chồn lo lắng, khi cảm thấy họ tỏ ra không thích Cảnh. Tôi ở trong nhà phụ các chị làm công việc vặt, hoặc nấu cơm canh giúp bà bếp. Thỉnh thoảng tôi chạy ra ngồi bên Cảnh và các cháu, hầu góp năm ba câu chuyện vui.
Cảnh nhìn tôi đăm đăm, khiến tôi mắc cỡ ngoảnh mặt đi:
- Thụy lạ lắm sao, mà anh nhìn em kỹ quá vậy cà!?
- Em ở trong bếp ra, thì hai má đỏ au. Em đẹp rất tự nhiên do Trời ban tặng, chứ không phải em đẹp do sữa mắt sữa mũi, sữa miệng gì. Em đẹp quá!
- Chà! Vậy chứ? Không phải là anh đang nghĩ đến cô bé nào của anh, mà khi nhìn em, anh tưởng tượng em là họ đó hỉ!?
- Em đừng nói đùa kiểu đó. Mấy cháu sẽ giận anh à.
- Ư hừ!... Hứ! Việc anh quen bạn thương mến của anh, có dấm dớ gì đến mấy cu cậu nầy chớ.
Bảo lay lay cánh tay Cảnh, cười:
- Ui! cậu không biết rồi. Dì Thụy là hoa hậu thiệt đó. Cậu không biết sao? Dì không biết đánh phấn đâu. Nếu dì có len lén bôi môi son, trét má phấn, thì má cháu giận dữ la mắng dì Thụy ghê lắm.
Cảnh cười hì hì, hai mắt chàng nhắm tít, cầm trái ổi nhỏ quăng trúng vào người tôi. Tôi cười tươi vội vàng né tránh, và chạy vô nhà. Khi Cảnh đến chào gia đình, tôi tiễn Cảnh ra về, má gọi giật tôi lại, má nhìn tôi đăm đăm và nói:
- Cái thằng ni, mạ coi không được mô. Con.
- Tại sao vậy? Má.
- Hắn dòm thấy mạ, mà không chào hỏi. Chắc hắn tưởng hắn là quan, là quách, thì lên mặt phách lối, ai cũng nễ răn hì.
- Không phải vậy đâu má ơi! Hồi nãy anh ấy có chào má và mấy chị. Có lẽ do trong nhà ồn ào, má không nghe.
- Ư hừ?

- Xì?
- Hừm !

Tôi thấy chị Tư nhìn tôi trừng trừng và lườm mình, rồi ?hừm?? lên một tiếng rõ to. Chị Tư không mấy ưa Cảnh rồi. Vã lại chị Tư thì có ưa ai bao giờ. Nhất là chị rất ghét ?cố nhân?. Có thể chị không thích ai làm bạn cùng tôi, thì phải!? Không ai vừa ý chị cả!? Làm y như người nào cũng chả ?hạp? với nhãn quan cuả chị! Thua rồi. Không phải là do tôi có cảm tình với các anh ?sinh viên sĩ quan? (khi quen biết Cảnh), mà tôi lên mặt binh vực bao che Cảnh. Tôi biết Cảnh là người có tính tình đôn hậu, tâm hồn thuần chân khả kính, có nhân phẩm, không tự đắc tự kiêu, hay anh ỷ mình có học thức, mà hiu hiu tự phụ là ?sĩ quan, sĩ quách?, coi người khác tầm thường, dưới cơ, như má và mấy chị nghĩ không tốt (tức là...xấu) về Cảnh đâu. Chẳng qua chàng là người miền Nam tính tình bộc trực, chân thật, hồn nhiên, không khách sáo rào trước đón sau, chàng không tỏ vẽ ta đây hách xì xằng như họ nghĩ lầm. Do tính tình Cảnh trầm lặng ít mồm ít miệng, bình thản, tự nhiên, chàng không mấy vồn vã hớn hở, nồng nhiệt săn đón mời chào, để làm dáng ?lấy lòng? người trên kẻ trước (như kiểu ?anh bạn Bắc-kỳ Thắng? nhà ta). Cũng có thể do chị Tư đã nói gì đó, nên má tôi không ưa Cảnh, dù má chỉ vừa gặp Cảnh chốc lát (!?).

Trong lòng tôi cảm thấy bực bội chị Tư lạ. Giòng suối ngầm thuở ấy (đã đụng chạm giữa tôi, chị Tư, và ?người xưa?) rất đắng cay, vẫn nằm im trong xó góc tâm hồn tôi sâu lắng từ lâu, tuy thỉnh thoảng nó dày vò, âm ỉ cháy, dù chưa đến nỗi nào bộc phát bừng giận và ray rứt. Nhưng hôm nay giòng tư tưởng ấy bừng bừng trở dậy từng chuỗi dĩ vãng, tràn đầy uất giận trong tâm tư tôi hằn vết đau chưa chai đá nầy. Khi tự dưng tiếng ?hừ... hừm?? của chị kéo dài lại vang lên, đã vùng khơi lại trong lòng tôi cái quá khứ đáng buồn tủi, hỗ thẹn với ?người xưa?. Tôi rất bực người chị quá độc đoán kia. Sự thật ngày ấy mối tình non dại giưã tôi và ?chàng ấy? đơn sơ, thắm thiết, vô cùng trong sáng, thuần khiết trân trọng nhau, rất mực đứng đắn. Chị Tư chẳng thích ?chàng kiả, chỉ vì người đó con nhà giàu sang, gốc người miền Nam, anh có phần tự do ?lả lướt bay bướm?... nên chị Tư vơ đuã cả nắm kết luận là: ?Hắn SẼ... bê tha đàn đúm vợ nọ con kia, rượu trà be bét, ăn chơi, mi hiền hậu thật thà, sẽ khổ sở vì hắn... Không được?.

Xuyên qua sự kiện nầy, tôi cảm thấy mình luôn luôn bị chị Tư ức chế, bị tướt đoạt sự tự do tối thiểu, và nhân cách trong tôi tổn thương nặng nề. Tự trong thâm tâm tôi muốn vùng dậy phản kháng chị, chống chọi và cự tuyệt ý kiến của chị Tư mãnh liệt. Nhìn lại đoạn đường gồ ghề nhấp nhô cũ mà tôi đã hổn hển đi qua, với sự luyến lưu buồn bã tiếc thương. Vì có thể đó là những khoảng lắng phiêu bồng mà ngọt ngào của tuổi mười sáu non nớt dệt nhiều mộng mơ. Tôi đã đạt đến tột đỉnh phù hoa: một hoa hậu rực rỡ của năm 1962 tại Sơn Trà, Đà Nẵng! Chẳng bao giờ tôi có thể tìm thấy niềm kiêu hãnh diễm kiều vinh quang, huy hoàng trong dĩ vãng về thời vàng son đượm nhiều hương xưa ấy. Thật khó diễn tả về cảm xúc rộn rang, hân hoan mững rỡ lâng lâng trước niềm vui chất ngất, đã gieo vào lòng tôi bao hoài bão mông lung. Tôi đã nhớ vô vàn: Chiếc Dù Năm Ấy

Hoa buồn. Hương không thoảng.

Hoàng hôn vương nhớ mong.

Anh đi trên vết cũ.

Tôi về, lệ mắt trong.



Anh như mây phiêu lãng.

Dù mấy độ xuân chờ.

Người đi nơi xa vắng.

Tình yêu. Ôi giấc mơ !...



Mùi hương nào dĩ vãng.

Tìm nhau trong cõi xưa.

Chiếc dù anh che nắng.

Hiên trường ta tránh mưa.



Em chờ anh trở lại.

Bên mhau những ngày mơ.

Tình lên ngôi mãi mãi.

Anh hát, em làm thơ. (*)

Bây giờ tôi chợt nẫy lên ý muốn tiến đến với Cảnh thân thương, thiện cảm, vui vẻ hơn, để tôi coi chị Tư sẽ chì chiết, hạch xách, tra vấn, cấm cản, (có kê tủ đứng vô họng mình không, khiến tôi lo sợ, hoặc có im re như ngày xưa nữa không!? hay chị sẽ mắng tôi, đánh đập tôi, hoặc làm gì tôi thêm nữa, cho tôi càng nỗi khùng lên nào!? Dẫu rằng thật sự trong thâm tâm tôi chưa chính thức có ý tình đậm đà xây mộng tương phùng, chưa yêu đương, chưa mặn-mà thân thiết chi với Cảnh hết. Cũng như Cảnh chưa chính thức ngỏ lời tỏ tình với tôi. Tôi phẫn uất thì thầm trong miệng:
- Chị đừng dùng ?quyền huynh thế phụ? mà cưỡng ép em phải tuân theo ý muốn cuả chị. Chị càng ép em, thì em sẽ phản kháng chị, em đi theo con đường ngược lại, để tự tìm tương lai.

Chào má, và mấy anh chị, tôi bỏ đi về nhà chị Tuế, (là nơi tôi ở từ xưa đến giờ). Cảnh đứng đợi tôi trên đầu đường dốc khu nhà Bò. Thấy vẽ mặt tôi không được vui, anh tinh ý và ý tứ dò hỏi:
- Có chuyện không vui rồi. Phải không em?
- ... Không có gì. Anh.
Nói như thế, nhưng nào dấu được nỗi buồn dâng ngập lòng mình. Ngoắt taxi ra phố, vào tiệm Mê Kông ăn cơm tối, chúng tôi từ tốn nói với nhau những chuyện vui buồn vu vơ. Chuyện trời mưa, trời gió, bão lụt. Cảnh biết tôi không được vui, nên anh cố ý kể nhiều chuyện tiếu lâm, để cho tôi cười:

- Anh kể cho em nghe một chuyện vui nầy nghen: Có thằng con rể là người Nam Kỳ và ông già vợ là người Quảng Nam. Một hôm ông già vợ hỏi con rể:

- Bữa ni con có rẻn khôn? rẻn thì chở boa đi chúc xiu công chiện ne.

Thằng con rể trả lời:

- "Con kẹt".

Ông già giận dữ vác gậy rượt thằng nhỏ:

- Teo nhờ mi chở đi công chiện, mi không chở thì thôi, sao lại chửi thề, hử?? (*)

- Rồi sao nữa anh? anh kể tiếp đi.

Cảnh vui vẻ tằng hắng giọng:

- Có nhà kia sắp có khách đến thăm, thì bà vợ tay chống nạnh lên hông, hất hàm hỏi ông chồng:

- Bộ ông định mặc quần đùi thổn thểnh để tiếp khách hay sao vậy?

Ông chồng hậm hực trả lời:

- Phải, tôi muốn mọi người đều biết là bà đã nuôi tôi có cặp chân như thế nào!?

Bà vợ không phải tay vừa, đanh đá đáp ngay:

- Được, nếu vậy ông hãy cỡi luôn cái quần đùi ra, để cho họ thấy ông có cái gì đáng nuôi không!

Ông chồng: !!! (*)

Cảnh uống một hớp chanh đường, anh duyên dáng kể tiếp chuyện thứ ba:

- Hai người bạn đực rựa ngồi nói chuyện với nhau:

- Có lẽ mình phải ly dị thôi, bạn à.

- Sao vậy?

- Vợ mình gần cả năm nay không thèm mở miệng nói với mình câu nào.

- Ui, cậu điên à! Biết tìm đâu ra một người vợ tuyệt vời như thế. Hở? (*)

Tôi khoái chí cũng vui vẻ góp đôi ba chuyện cười:

- Nhiều thầy bói đã nói với em: tuổi Sửu hợp với tuổi Ngọ, vì theo quẻ mà đoán thì: ?đầu trâu mặt ngựa?. Tất nhiên hai tuổi này mà cưới nhau, chắc chắn sẽ thành công, tấn tới, nếu cả hai vợ chồng cùng làm chung nghề: đâm thuê, chém mướn. Còn đây là quẻ thứ hai nhe anh:

- Tuổi Tỵ rất khắc với tuổi Dậu, theo quẻ là: ?cõng rắn cắn gà nhà?. Nếu hai người cưới nhau về, thế nào người tuổi gà cũng bị người tuổi rắn cắn chết, (không loại trừ trong lúc yêu thương, dậu bị rắn mỗ cắn lầm ở chỗ hiểm)...

- Tuổi Dậu, hợp với ba hạng tuổi: tuổi Mão, tuổi Thìn, tuổi Hợi. Theo quẻ ?đầu gà má lợn?. Người ở mấy dạng tuổi này, nếu cưới nhau, sẽ thành công về kinh doanh, nhà hàng, đồ nhậu. (*)

Chúng tôi không thể nào nhịn được cười đến nỗi ra nước... mắt. Tôi đã quên chuyện buồn bực lúc ở nhà chị Tư. Tôi vui vẻ kể lại chuyện trong thời gian hai tuần tôi ở miền Trung ra sao. Sau đó Cảnh lên xe taxi vào quân trường như thường lệ.
Suốt tháng Chạp, và những ngày Tết Tây, chúng tôi thường có dịp đi chơi chung với nhau thật vui. Đêm ba mươi tháng Chạp âm lịch, khi Cảnh mời tôi vào trường Võ Bị dự dạ hội tất niên. Tôi đã đưa thiệp cuả Cảnh mời, đồng thời tôi nói rõ cho chị Hạc biết nguyên nhân tại sao tôi cần đi đêm ấy về nhà khuya. Tôi xin phép anh chị cho tôi đi với Cảnh đàng hoàng, nếu tôi có về trể giờ hơn mọi ngày tôi đi làm việc, hoặc đi học trên viện đại học, hay có công chuyện đi đâu đó một xí. Thì chị Hạc thông cảm. Chị thương tôi trọn tình chị em đằm thắm chứ không như chị Tư, chị Hạc ân cần dạy bảo tôi điều hay lẽ phải. Chị luôn mong muốn tôi tìm được ý trung nhân, tôi sẽ yên ấm hạnh phúc với ai đó. Tôi cũng mong ước và hy vọng như vậy: Tôi rất Mơ (anh Học Võ Bị):

Sao anh ?vô trường? ấy.

Mãi hoài ?chưa rả vậy?!

Em đợi anh từng ngày.

Bao đêm buồn nhớ đây.

*

Canh khuya em mơ thấy.

Anh vô lính tháng ngàỷ

Đường quang vinh vượt trội.

Dẫu phong ba đọa đày.

*

Hoa mai ghim áo nầy.

Mối tình ta còn đây.

Sương ngàn quyện gió núi.

Do tơ trời dựng xây.

*

Anh ơi! tình duyên nầy.

Mai sau anh sẽ thấy.

Em đây và anh đấy.

Đôi tâm hồn ngất ngây. (**)



_ * _





(*) Sưu tầm lượm lặt

(**) Thơ Tình Hoài Hương

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau

Trân trọng

Tình Hoài Hương

Mục Lục


4. Người Đàn Ông Cuối Cùng Của Tôi


Vành Khuyên


Đêm, đêm mưa, mưa nặng hạt và gió giật liên hồi luôn làm trái tim tôi thổn thức. Phải, những đêm mưa như có cái gì uẩn ức, giận hờn, không giải toả được trong tâm lòng tôi.

Tôi vẫn tự xem mình là một người phụ nữ thất bại, thất bại vì một thời gian quá dài, tôi đã tin tôi không bao giờ tìm nổi trong cuộc đời một người đàn ông như mình mong muốn. Tôi thà cô đơn, còn trôi nổi, chứ qua lại với bao nhiêu người mà trong lòng không có một cảm giác, tôi làm không được.

Thủy vẫn mắng tôi một câu vô cùng quen thuộc " mày cứ bộ tịch đàng hoàng quá, chừng nào mới có chồng" ..

Nét mặt tôi vẫn không thay đổi, tôi hiểu mình muốn gì mà " mày bảo tao phải làm sao, mày bảo tao mời cái ông bán hàng hồi nãy đi uống nước, mày bảo thế kỷ thứ 21, con gái lên tiếng trước đâu có gì là sai, đúng, đâu có sai, nhưng mày quên là ông ấy bán hàng, phải niềm nở thế , cứ gì tao? "

Thủy vẫn như chưa thua" con nỡm ơi, bán cho tao chả đâu có cười như bán cho mày, mày cứ vậy, tao hy vọng chôn mày làm bà cô sống, chả đứa nào theo sau quan tài mày đâu" ..

Tôi cười buồn ...ở đời, kỳ thiệt, cứ cười với ai là thích người đó, bạn tôi dễ chịu thiệt. Một ngày, tôi cười với biết bao nhiêu là người, nếu mà tôi thích hết, có lẽ tôi không chứa nổi tất cả họ trong cái nhà nhỏ hai phòng ngủ hai garages của tôi.

Tâm tính khác nhau, tôi với Thủy vẫn thân thật thân như chả còn đứa con gái nào trên hành tinh này. Tính nhút nhát của tôi làm nổi bật tính mạnh dạn của Thủy. Ngược lại, cái mạnh của Thủy làm tôi còn thấy có cái gì đó để vịn trong cuộc đời khi niềm tin về tất cả trong tôi đang lung lay, chưa tìm thấy chỗ vịn như tôi muốn ...

Cuộc đời ơi ...

OoO

Cuộc picnic diễn ra chủ nhật tuần này không có tên tôi ban đầu, chị Nga, người tổ chức không muốn mời tôi. Thủy năn nỉ chị lắm, chị mới cho Thủy mang tôi theo. Chị bảo với Thủy " Trâm nó làm sao đó, nó cứ buồn buồn, anh Hưng nhà chị thì thấy con gái buồn chịu không nổi, rồi có thể hai người nói chuyện, cảm thông, lại ra chuyện" ... Thủy trấn an chị Nga " trời, con Trâm tu đó chị, nó thích nói chuyện thật, nhưng không phải ai nó cũng nói đâu, em dẫn nó đi theo nha" ...

Chị Nga có cái nhìn đúng lắm, anh chị là hai người bạn chung lớp Anh văn với tôi. Tôi thích nói chuyện với anh Hưng hơn với chị. Chị hay nói về mode và thời trang, tôi là con gái nhà nghèo, làm sao tôi hiểu được những điều đó. Một tuần 3 buổi tối đến lớp, có khi đã có hai ngày tôi mặc cùng một áo sơ mi, chắc chắn ai cũng nhận rạ Tôi thấy anh Hưng hay quan tâm tới mọi người, ai cần gì anh cũng giúp, anh luôn có những thứ người khác cần và anh tế nhị lắm. Một lần quần tôi bị xút nút, anh tìm đâu ra cái kim băng, bảo chị Nga đưa cho tôi . Chị Nga đã đưa thẳng tôi mà không cần hỏi tại sao phải đưa. Tôi tin vào lòng tốt của anh Hưng, tin lắm, nhưng chỉ tin thôi, còn một đứa con gái tuyệt vọng như tôi thì không có một chút cơ sở nào cho tôi xây hy vọng nào thêm từ lòng tốt đó. Tôi cũng biết, chị Nga rất hiểu tính chồng mình, nhưng chị có bảo vệ hạnh phúc chị đang có cũng là điều đương nhiên.

Còn với tôi, vì tuyệt vọng, cuộc vui nào tôi cũng mong có mặt xem có thể đẩy mình lên chút nào không từ những tiếng cười trong những cuộc vui bất ngờ tôi có ...

Rồi cuộc picnic trôi qua, tôi vẫn hoàn tuyệt vọng, tôi không đi tìm tình yêu, tôi đi tìm nụ cười, nhưng không có tình yêu, nụ cười dường như không có sinh khí, những nụ cười buồn không biết còn theo tôi tới bao giờ đây.

OoO

Tôi gặp anh trong một đám cưới. Vừa nhìn anh tôi đã thấy mình bị thu hút. Anh không bảnh trai, nhưng anh có một cái dáng đàn ông hay đến lạ, không dõi theo các phụ nữ đẹp, ôn tồn, mực thước. Ngồi chung bàn với anh, tôi cứ đưa mắt tìm gì, anh đưa cho tôi thứ đó. Tuy nhiên tất cả anh chỉ làm vừa đủ để tôi hiểu anh làm vì lịch sự hơn là vì có tình ý gì đến tôi.

Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi bỏ qua những nụ cười đã gặp, những vồn vã của cánh đàn ông sởi lởi với mình, tôi bị cuốn theo cái lịch lãm và điềm đạm của anh. Ước gì anh là của tôi ... là của tôi với đầy đủ nghĩa một người đàn ông như tôi mong ước.

Tôi đã muốn tiệc cưới đó kéo dài mãi, tôi nán lại lúc mọi người chung vui nhịp nhàng bên nhau trong các điệu nhảy. Tôi ngồi đó bất động, mong cho phút giây tôi có một người đàn ông tôi muốn như thế này không bao giờ mất đị Tôi thu hết năng lực trong mình, cố hình dung ra cảm giác này rõ hơn, mong rằng những ngày sắp tới, có buồn mà nhớ lại, tôi cũng không mất đi chút xúc cảm nào hết, hôm nay ...

Tôi sung sướng như thấy mình vừa chạm vào cảm giác của tình yêu ... thật kỳ diệu ..

Yêu gì nổi,đến giờ ra về, ngay cả cái tên anh tôi cũng không biết ...

Tôi cứ gọi là tình yêu vì cảm giác từ ngày đó còn mãi trong tôi đến lạ.

OoO

Tiếng thắng xe trước cửa hiệu sách làm tôi giật mình, anh bước xuống, phía bên ghế ngồi tài xế một người phụ nữ ra dáng lớn hơn anh gần chục tuổi, nói lớn " Một tiếng nữa nha ". Tôi nhìn anh như nhận ra người quen, tôi mừng quá. Anh vẫn thản nhiên bước vào hiệu sách như chẳng nhìn thấy tôi. Tôi bước vào lại tiệm sách, cảm giác ngày nào vẫn còn đây .... Anh làm tôi thấy mình nhỏ bé, chỉ có tôi nhớ anh, anh chẳng biết tôi là ai, dù rất lịch sự với tôi ngày đó.

Tôi rảo theo anh trong hiệu sách. Anh ngừng rất lâu trước quầy tôn giáo và lấy lên những cuốn có hình của vị Dalai Latma mà tôi từng đi gặp và nghe ông nói chuyện. Anh đứng xem rất lâu, rất lâu .. Tôi từ bỏ ý định theo anh quay đi và bước ra cửa. Tôi đứng tần ngần trước cửa lâu lắm, đợi cho những giọt mưa hơi nặng dừng hẳn, cũng như chờ cho mọi cảm giác trong tôi lắng đọng, tôi sẽ bước ra ngoài, đi thẳng, lái xe về nhà và cầu mong không bao giờ tôi gặp lại anh nữa.

Một tiếng vọng sau lưng " Cô hay đến đây lắm hả ? " .. trời, là anh, anh hỏi tôi ...

" Vâng, tôi hay đến đây lắm, chỗ sách hồi nãy anh đứng là chỗ tôi yêu thích nhất. Tôi đã từng đi nghe ông ta nói chuyện, chỉ đến đó và nhìn lên sân khấu, lòng tôi đã thanh thản hẳn anh ạ dù buổi nói chuyện vẫn chưa bắt đầu " ...

Chắc anh đã hiểu tôi thèm được nói chuyện lắm hay sao qua câu trả lời rất dài đó cúa tôi, anh mời tôi tới quán nước ngay trong tiệm.

Chúng tôi đã có một buổi nói chuyện thật vui, thật lâu, cái bà thả anh lúc nãy không thấy trở lại sau một tiếng. Tôi hỏi anh .. và thật bất ngờ được biết .. .. được biết một điều đã xé lòng tôi ra trăm mảnh " Anh đang là bồ nhí của bà ta " ...

Khinh hay trọng, tôi trách cho cái số phận của mình, tôi muốn biến mất khỏi mặt đất này khi nhận ra câu nói vừa nghe từ cửa miệng của anh, .. tôi biết mình không chấp nhận, mà kỳ, ai đã là gì của ai, ai đã có tình ý với ai đâu ....

Chúng tôi chia tay, từ ngày ấy tôi thề không còn muốn gặp anh nữa.

OoO

Được nửa năm, tôi nhớ cái quán sách của mình lắm, lòng tự trọng không cho phép tôi gặp anh, nhưng làm sao tôi quên được cái quán sách tôi hay lui tới từ trước khi tôi biết anh. Thật bất công cho tôi. Niềm vui duy nhất vĩnh cữu trong cuộc đời tôi là từ quán sách đó. Nơi tôi trao đổi với những tư tưởng làm tôi vui, làm tôi lớn và làm tôi thấy mình trọn vẹn trong cuộc sống.

Tôi quyết định thay đồ và tới hiệu sách ... lòng vẫn mong mỏi một cơ may nào đó, cho tôi gặp lại anh.

Từ những buổi đầu không gặp khi đi cách ngày, tôi yên tâm, tới nhiều hơn, tôi ghé hiệu sách mỗi ngày. Rồi một ngày, anh đứng ngay trước cổng, như chờ và mỉm cười .. tôi lịch sự " chào anh " rồi đi thẳng.

Anh bước vội theo " Tôi đã thấy cô trở lại, hôm nay mạnh dạn bước trước ra đây chờ cô, tôi ngồi trong quán kia ai vào mà tôi chẳng thấy" ...

Tôi nhìn anh như thách thức, anh hiểu ý " cái xe hay đón tôi đã không còn đón tôi từ ba tháng nay" ...

Tôi gật đầu đi theo anh, chúng tôi thân nhau hơn từ ngày đó, rồi thành người yêu, thành vợ chồng . Tình yêu đến nhẹ nhàng, chân thành, như chờ đợi từ bao nhiêu ngày. Tôi ngập trong hạnh phúc, biết hạnh phúc không dễ dàng như mình tưởng, tôi rất thận trọng.

Sống với anh, anh đúng như những gì tôi nghĩ, gọn gàng, ngăn nắp chu đáo tất cả mọi việc. Anh làm tôi nhớ tới lời nguyện của tôi trước kia mà sung sướng biết bao nhiêu khi tôi đang tin điều tôi mong ước đã và đang là hiện thực. Cho tới một tối, một tối tôi chờ anh và nhất định nói cho anh nghe niềm vui này của mình mà lẽ ra tôi đã nói từ lâu. Đêm đó, một đêm mưa nặng hạt, nặng hạt như những đêm mưa làm tôi thổn thức. Một tiếng phone gọi báo anh đang cấp cứu trong nhà thương làm tôi té ngửa. Anh của tôi, anh làm sao thế, tôi gọi anh, ôm chầm lấy anh trong cánh tay. Lúc anh tỉnh dậy, anh không còn biết tôi là ai ... anh bị đột quỵ, liệt nửa người, không chết, nhưng không hoàn toàn sống mạnh khoẻ như trước. Anh không nói được nữa, anh như không còn biết tôi là ai ... tôi sống mà cũng như chết khi nhìn anh trong cảnh này ...

OoO

5 năm qua, tôi đã và đang sống với anh như thế, một người chết thể xác, một người chết tinh thần, an ủi nhau, kề cận nhau, tôi thấy đủ rồi Những lần có bạn bè tới thăm, sau khi họ về, tôi đút cơm anh không ăn, anh như chỉ muốn tôi với anh hay tinh thần anh bị quấy rầy mà anh không còn thấy ăn ngon. Tôi từ bỏ luôn các mối quan hệ dù chỉ là bạn bè.

Có những đêm trăng sáng, bản chất con thú vẫn còn trong tôi hay bản chất một con người mộng mơ vẫn còn mơ mộng. Tôi để anh và tôi nằm không quần áo dưới ánh trăng, tự cho mình cái diễm phúc tưởng tượng vẫn được anh âu yếm và ân cần như ngày nào. Những lần như vậy, những sáng hôm sau tôi khóc, tôi khóc nhiều lắm vì ân hận, tôi nghĩ anh biết anh vô dụng khi nằm bên tôi, chắc anh có khi lâm vào cái buồn và bỏ tôi đi nhanh hơn trong cuộc đời. Điều đó cũng làm tôi hiểu ra một điều người phụ nữ trong tôi vẫn còn mạnh lắm, thèm khát và ao ước .. thèm khát. Vâng, tôi đâu có chối ...

Tiếng cửa mở ra, tôi đưa Tân đi thẳng vào giường, bảo anh phải nhanh lên. Tôi để Tân tự nhiên, Tân cũng tế nhị, mặc tôi muốn làm gì thì tuỳ, chỉ nâng niu nhẹ mặt tôi như thì thầm, chẳng ai dám làm gì trước. Tôi đưa tay cởi khuy áo Tân như vẫn làm với anh, tôi chờ tay Tân đặt nhẹ lên ngực tôi như anh vẫn làm với tôi ... tôi chờ, tất cả là tôi chờ, chờ cái hạnh phúc ngày nào tôi đợi tại một cái đêm mưa mà tôi như chẳng chịu nhận ra là tôi vĩnh viễn sẽ không còn cái hạnh phúc nào như thế này nữa. Trong vòng tay Tân, nước mắt tôi rơi, tôi đẩy Tân lên, miệng mếu máo "Anh Tân, Trâm xin lỗi anh, Trâm nhớ chồng Trâm quá, Trâm tưởng nhờ anh sẽ qua được cảm giác đó, nhưng cảm ơn anh đã cho Trâm hiểu là không phải".

"Anh Tân, người đàn ông cuối cùng của Trâm ngoài kia, Trâm xin lỗi anh, Trâm không có ý định dùng anh thay thế cho người đàn ông đó" ..

Tân nhìn tôi thông cảm ... quay đi, " Anh hiểu Trâm à "

Tôi buồn nhìn Tân bước ra rồi đóng cửa lại.

Người đàn ông duy nhất tôi ao ước tìm được, vâng, sẽ là người đầu tiên và là người đàn ông cuối cùng của tôi.

Dù trong hoàn cảnh nào, tôi vẫn yêu anh với trọn trái tim đang đập trong lồng ngực.

4/05


Vành Khuyên



Mục Lục


5. Căn Nhà Sau Cửa Biển (truyện dài)


Phan Thái Yên







Vì lý do kỹ thuật xin tạm nghỉ 1 kỳ. Chân thành cáo lỗi cùng độc giả .






Phan Thái Yên


Mục Lục


6. Xin Vinh Danh Vị Danh Thư Đất Gò Công


Trần Thành Mỹ


Để tưởng niệm các bậc anh thư vô danh

Nhớ lại sau Tết Mậu Thân 1968, một tin đồn được loan truyền làm rúng động Gò công: sự hiển linh của Đức Bình Tây Đại Tướng Quân Trương Định. Ngài đã hiện ra giữa tiếng súng nổ đạn rơi tương tàn tương sát, với áo bào khăn trắng, râu bạc dài cưỡi bạch mã, oai phong lẫm liệt phi ngựa vào trận chiến huơi kiếm chói ngời hào quang làm chóa mắt cả đôi bên lâm trận.

Không biết thực hư ra sao nhưng cũng từ đấy công cuộc trùng tu ngôi mộ, xây lăng Ngài được tiến hành và thực hiện nhanh hơn. Hơn thế nữa, sau 1975, Chính quyền lại đúc tượng ghi ơn tại trung tâm thị xã, không xa lăng lắm. Thế là Ông Trương Định được toàn dân sùng kính nhớ ơn. Ông đã có công chống ngoại xâm, sống vào thời nghiêng ngửa non sông, bảo vệ dân, không hoàn toàn do ý niệm trung quân mà nặng lòng vì tổ quốc...Ông đích thật là anh hùng dân tộc .

Dân Gò công trước kia cũng đã phá hủy đài kỷ niệm Lãnh binh Tấn tại Châu thành Gòcông, vua Gia long còn lập miếu thờ Cá ông ở Vàm Láng nhớ ơn cứu tử, thế mà chúng ta, nhất là dân địa phương lại quên vị ân nhân đã hy sinh giúp Trương Định làm nên đại nghĩa : bà hầu Trần thị Sanh .

Không thể quên công những nhà ghi viết sử nhưng trên thực tế, vì nhiều hoàn cảnh lý do, thường thuật sử kiện theo lăng kính nhìn riêng. Cũng có thể vì thiếu phương tiện, nguồn tin nên nhiều khi việc tường thuật, phê phán không thật chính xác, thiên lệch .

Phong tục tập quán như cữ tên cũng dự phần vào việc làm mất đi, sai lạc bao dữ kiện di tích nhất là tên của các bà, mẹ, vợ của các bậc anh hùng . Chúng ta chẳng nhớ tên Triệu thị Trinh mà chỉ biết có Triệu Âu, không biết đích thật họ tên bà mẹ nuôi của Hậu quốc công Võ Tánh, và bà Sanh chỉ biết miệt danh là Bà hầu .. .

Bà con cô cậu ruột với Hoàng hậu Từ Dủ, chị của ông Tú Hội, xuất thân từ gia đình vọng tộc thế phiệt, thế mà Bà không màng danh lợi tai tiếng thị phi, ủng hộ ?loạn quân? Trương Định chống ngoại xâm, tái giá để có danh chánh ngôn thuận, hiến cả tài sản nuôi quân làm hậu thuẫn cho "giặc", bà quả có chí khí anh hùng, lòng yêu nước vô biên và thật thức thời.

Vẫn biết giúp "kháng chiến" chống Pháp là tội chết, việc khơi ngòi phong trào giành độc lập không dễ thành công, bà vẫn khôn ngoan biết cậy vào thân thế cao trọng của mình công khai ngang nhiên xin thây phơi của chồng, tên "bại trận" yêu nước hy sinh vì Tổ quốc, chôn ngay trên đất nhà cha mẹ ruột họ Trần, tại trung tâm thành phố Gò công như để thách thức trả đũa kẻ thù, làm sáng tỏ lý tưởng của dân mình và lưu dấu bước ngoặt, vết tích lịch sử cho thế hệ mai sau.

Sống trong xã hội phong kiến, góa chồng lúc 41 tuổi, tái giá với Trương Định lúc 43, ba năm sau Trương Công mất, bị mang biếm danh là "bà hầu" dù ông Định lúc bấy giờ không thấy có vợ con theo, bà quả thật khởi xướng tinh thần đả phá thói cũ hủ tục, mầm mống cho việc cải cách xã hội Nho học đương thời, khơi ngòi phong trào giải phóng phụ nữ.

Hy sinh vì đại nghĩa cuả bà còn nêu lên mối tương đồng trong nghĩa vụ, bổn phận của mọi con dân đối với Tổ quốc quê hương không phân biệt giai cấp, tuổi tác, gái trai nói chung, riêng với giới quần thoa, "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh".


Xin hãy tỏ lòng tri ân những anh hùng hy sinh vì đại cuộc bằng cách truy nguyên sử kiện, xét sửa lại bằng tầm nhìn khách quan vô tư của hậu thế.

Xin phục hoàn và tuyên xưng danh dự và công trạng của các vị ân nhân bị bỏ quên vì bất cứ một lý do nào.

Xin ghi tên vào sổ vàng lịch sử quốc gia hay ít nhất trong sử của địa phương.

Xin dẫn chứng nêu gương cho thế hệ đương thời và sau nầy tâm tình yêu giữ nước.

Xin trả lại cho con cháu giòng lịch sử đích thật, di sản tinh thần truyền thống và lý tưởng sống xứng đáng của tổ tiên.

Dân Gò công, đất địa linh nhân kiệt, xin tiếp nối việc giáo dục con em theo gương người trước với tinh thần cởi mở , phóng khoáng, thích nghi, chính trực.

Gương bà Trần thị Sanh còn đó, sự hy sinh nào dù nhỏ lớn cũng phải được ghi nhớ công ơn.

Không có Sanh làm sao có Định, đành nào nhớ Định lại quên Sanh !

SANH tử nữ nam đồng tâm nêu cao đất Việt,

ĐỊNH công thời thế một lòng gìn giữ nước Nam.

Trần Thành Mỹ


Mục Lục


7. Câu Chuyện Về Người Không Gian


*Trần Hồng Văn


Khoa Học

Lời Dẫn Nhập :

Đời sống trên trái đất đã có từ hàng triệu năm. Những công trình kiến trúc cổ xưa được khai quật, những khám phá cho thấy kỹ thuật xây dựng của thời xa xưa ấy đã ở một trình độ rất cao trong lúc đó, trình độ khoa học kỹ thuật của con người trong xã hội hiện đại mới chỉ phát triển trong thời gian cách đây vài trăm năm nhưng vẫn còn ở mức độ rất thấp. Tại sao lại như thế? Ai đã giảng dạy, truyền bá kiến thức ấy cho người cổ đại? Họ là ai? Từ đâu tới? Tới đây có mục đích gì? Khoa học hiện đại vẫn cố gắng tìm kiếm giải đáp cho những bí ẩn này . . . Và đó chính là nội dung bài viết của T.S.Trần Hồng Văn dưới đây. Mời quý độc giả cùng khám phá.

(NLG73 Lê Phú Nhuận)


?Dĩ nhiên UFO và người không gian là có thật và chính quyền đã che dấu và giữ im lặng?. Đây là lời phát biểu của Tiến Sĩ Stephen Hawking, giáo sư môn vật lý thiên văn tại Đại Học Cambridge trước Tổng Thống Bill Clinton và Đệ Nhất Phu Nhân Hillary Clinton tại Tòa Bạch Cung vào ngày 6/3/1998. Buổi nói chuyện này được đài C-Span trình chiếu.

Từ ngàn xưa bất cứ nơi nào hay dân tộc nào cũng có những huyền thoại về thánh thần ngồi trên những chiếc xe biết bay đi xuống trái đất. Rất nhiều chuyện kể về con người đã tiếp xúc với những ?người trời?. Bài viết này thu thập những dữ kiện để cho ta có cái nhìn về những cuộc tiếp xúc giữa con người và các thánh thần trong quá khứ và cuộc tiếp xúc này vẫn còn tiếp diễn cho tới ngày hôm nay dưới dạng mới được gọi là hiện tượng UFO hay người không gian. Hình như họ vẫn theo dõi chúng ta dưới nhiều hình thức khác nhau, vì vậy hiện tượng UFO chính là một dạng của sự tiếp diễn những gì đã xẩy ra trong quá khứ.

Sự tiến hoá của nền văn minh nhân loại trong vòng vài trăm năm gần đây là một bí mật. Cũng vậy, càng ngày lại có nhiều chứng cớ cho thấy nền văn minh cổ xưa đã đạt được trình độ thật cao, không thua hay còn hơn cả ngày nay nữa. Nhưng làm sao giải thích được nền văn minh cổ xưa này lại đi song song với văn minh cổ lổ thời đồ đá của nhân loại? Nền văn minh này đã xây dựng nên những kiến trúc vĩ đại thách đố với thời gian ? mà kỹ thuật tân tiến nhất hiện nay cũng khó mà thực hiện được. Bằng cách nào mà họ có thể xây dựng nên những công trình như vậy? Tại sao họ lại nghĩ đó là một điều quan trọng mà họ phải làm để cho những thế hệ mai sau biết tới? Trước kia người ta tin đó là các ?thánh thần? đã xây dựng nên, các vị này từ trên trời hay từ những ngôi sao xuống để dạy dỗ, hướng dẫn hay điều khiển loài người bằng một ?lực siêu hình?. Cho đến nay nhiều người cho rằng chẳng đó chỉ là chuyện thần thoại hay hoang đường. Như vậy những ?thần thánh? này phải chăng chỉ là người không gian, họ đến từ một nơi nào đó trong vũ trụ và có một kiến thức về kỹ thuật hơn hẳn loài người hiện nay?

Nếu quả thực như vậy thì ?lực siêu hình? chẳng qua chỉ là tiến bộ kỹ thuật? Nếu đúng vậy thì điều này giúp giải thích cho việc cho việc xây dựng những kiến trúc vĩ đại và lạ lùng trong nền văn minh cổ xưa còn để lại cho tới ngày hôm nay. Lý thuyết này cũng giúp cho việc giải thích về tiến hoá của nền văn minh cũng như việc học hỏi tìm tòi ở mức độ cao như hiện nay của con người. Càng ngày càng nhiều khoa học gia đồng ý với khái niệm cho rằng có thể có một đời sống hiện diện tại nơi nào đó trong vũ trụ ? Có thể là những giải đáp cho tương lai mở ra một cánh cửa cho chúng ta hiểu được quá khứ.

Theo giả thuyết về ?Người Không Gian Cổ Xưa? thì người không gian có một kiến thức về khoa học và kỹ thuật rất cao và đã xuống trái đất này cả nhiều ngàn năm trước để dạy dỗ người tiền sử cũng như đã làm thay đổi lịch sử của nhân loại. Các nhà khoa học đã đưa ra những bằng chứng như sau:

1- Quan niệm cho rằng đời sống ở một hành tinh nào đó đã có từ nhiều thập niên nay và con người và người không gian đã tiếp xúc với nhau từ nhiều ngàn năm trước. Người ta nói nhiều về hiện tượng này trong thập niên 1960 khi những báo cáo về hiện tượng UFO ngày một nhiều cũng như loạt phim trong năm 2001: ?A Space Odyssey? được trình chiếu. Một vấn đề được đặt ra là nếu con người có thể thám hiểm không gian thì người ngoài hành tinh kia cũng có thể tới trái đất được.

2- Vào năm 1968, một tác giả người Thụy Sĩ là Erich von Daniken xuất bản cuốn sách với tựa đề ?Chariot of God?, đây là một cuốn sách bán chạy nhất từ trước tới nay. Tác giả đặt giả thuyết là từ hàng ngàn năm nay, người không gian từ những hành tinh khác đã tới trái đất nhiều lần, họ dạy loài người về kỹ thuật và đã có ảnh hưởng về tôn giáo. Daniken được coi là cha đẻ của thuyết ?Người Không Gian Cổ Xưa?. Từ đó, ông đã viết nhiều cuốn sách khác

3- Phần lớn những lý thuyết gia về thuyết ?Người Không Gian Cổ Xưa? đã đưa ra 2 loại chứng cớ để bảo vệ ý kiến này: Thứ nhất là dựa vào các ghi chép trong các sách tôn giáo trong đó có nói về việc người ta đã gặp và tiếp xúc với ?Thượng đế? hoặc ?thánh thần? từ trên trời xuống, đôi khi bằng những xe giống như các phi thuyền với một lực đẩy ngoài sự tưởng tượng. Thứ nhì là dựa vào các mẫu điêu khắc trên đá còn để lại như các tác phẩm nghệ thuật miêu tả các khuôn mặt giống như người ngoài hành tinh và các kiến trúc, như các kim tự tháp ?

4- Nếu người không gian đã tới trái đất trong quá khứ, liệu trong tương lai họ có trở lại không? Câu trả lời là có. Các nghiên cứu cho rằng cuộc gặp gỡ với các thế hệ mai sau không thể tránh khỏi và loài người hãy chờ xem, đó là một điều tốt hay xấu sẽ xẩy ra.

A- Người Không Gian Cổ Đại

Khắp nơi trên thế giới, con người nơi nào cũng có những truyện kể về chốn thiên đàng hay từ một nơi nào đó, thiên thần bay xuống trái đất bằng những chiếc máy biết bay. Những chuyện kể này được truyền miệng hay được ghi chép lại về các cuộc gặp gỡ với những người này mà họ gọi là ?Người Trời?.

Cho tới nay qua những tiến bộ khoa học đã đưa người ta hiểu rõ hơn về quá khứ cũng như sự tiếp xúc giữa con người với ?Người Trời?, đó là những hiện tượng được gọi là UFO và phải chăng hiện tượng này chỉ là những tiếp diễn những gì xẩy ra trong quá khứ. Chúng ta hãy xem qua những ghi chép của người xưa về ?Người Trời? ra sao.

1- Trong cuốn sách cổ The Mahabharata của Ấn Độ viết vào thế kỷ 8-9 trước tây lịch
miêu tả trận chiến nguyên tử vào năm 25,000 tới 30,000 năm trước đây giữa những vùng đất hiện nay là phía bắc Ấn Độ và vùng sa mạc Gobi thuộc Mông Cổ, thánh thần ngồi trên chiếc xe biết bay cùng những khí giới như sau: ?Thần Gurkha ngồi trên chiếc xe Vimana bay thật nhanh qua thành phố Vrishnis và Andhakas. Chiếc xe có một ống phóng được trang bị với nhiên liệu có sức mạnh của cả vũ trụ. Một cột khói và lửa rực rỡ bốc lên sáng gấp ngàn lần ánh sáng mặt trời. Một tiếng nổ kinh hoàng, một tín hiệu của thần chết tiêu diệt toàn thể sinh vật trong cả hai thành Vrihnis và Andhakas ?

2- Xưa kia, giống người Sumer (sống tại vùng Mesopotamia 6,500 tới 4,000 năm trước tây lịch, bao gồm vùng bắc Syria chạy tới phía đông bắc Thổ Nhĩ Kỳ và một phần Iran và toàn bộ nước Iraq ngày nay) cho rằng người ?Anunnakỉ là người Trời xuống trái đất để giúp đỡ cho con người. Nền văn minh của người Sumer có trên 6,000 năm trước tây lịch,
những hệ thống về toán học, phép tính thời gian hay lịch cho đến ngày nay chúng ta dùng đều do họ tạo ra từ thời đó. Điều lạ lùng là họ cũng thấu hiểu về hệ thống thái dương. Người Sumer miêu tả là có một hành tinh X (hành tinh Nibiru) ở rất xa trái đất (cách khoảng 30 tỉ dặm) và người Trời Anunnaki này cư ngụ tại đó.

Chính giống người này đã xuống trái đất bằng những chiếc xe biết bay cả nhiều chục ngàn năm trước, họ dùng kỹ thuật di truyền tạo ra con người. Như vậy phải chăng ngưới Anunnaki đã tạo nên con người hiện nay bằng cách cho lai giống giữa giống người tiền sử ngay tại trái đất với di thể cuả họ. Như vậy chúng ta có phải là vật thí nghiệm của họ và có phải những người ẸT. có dáng nhỏ bé, mắt to, khẳng khiu và da màu xám chỉ là những con robot được họ gửi tới đây để quan sát sự tiến bộ của chúng ta?

3- Trong sách Ezekiel, một phần trong thánh kinh Hebrew Do Thái, nhà tiên tri nhìn thấy một chiếc thuyền bay theo sau là những cột lửa, khói và tiếng nổ. Thánh kinh ghi lại cuộc gặp gỡ giữa con người với thánh thần trong khi các nhà khoa học lại cho rằng đó là về cuộc gặp gỡ giữa con người và người không gian cổ, họ xuống trái đất bằng chiếc phi thuyền.

4- Những mẩu chuyện thần thoại lưu truyền trong dân gian tại vùng bắc Trung Hoa và Nam Siberia về sự xâm lăng ghê gớm của hung thần từ trên trời xuống trái đất để bắt dân chúng làm nô lệ. Dựa vào những hình vẽ trên đá có số tuổi là 3,000 năm, các nhà khoa học kết luận là vào khoảng thế kỷ thứ 30 trước tây lịch người không gian đã xâm lăng trái đất. Hình khắc trên đá vẽ lại người không gian cao, gầy, đầu đội mũ bảo hộ, hai bên mũ có 2 hay 3 dây antenna. Họ xuống trái đất bắt dân chúng làm nô lệ đào vàng, bắt dân chúng xây các kim thự tháp và dạy làm các ống dẫn để hút các kim loại hiếm nằm sâu dưới lòng đất.

5- Huyền thoại cổ Ai Cập nói là Thần Tep Zepi từ trời xuống trái đất bằng một chiếc ?thuyền bay? trong không gian. Khi tới trái đất, thần nâng đất lên cao đế cho con người có chỗ ở, đặt ra các luật lệ. Bắt đầu là thần Ra và người vợ tên là Nut. Nut đẻ ra Osiris. Ngay khi Osiris vừa sinh ra, một tiếng nói thật lớn vang lên khắp địa cầu rao truyền rằng: ?Chúa của muôn loài trên trái đất chào đời?. Osiris lớn lên rồi trở thành vua để dạy dỗ cho con người cách trồng tỉa, chăn nuôi, đặt ra các luật lệ cho mọi người sống thuận hòa và những cách thờ phượng Chúa. Khi Ai Cập đã văn minh, Osiris đi đến những nơi khác để tiếp tục khai hoá cho dân chúng.

6- Huyền thoại của người da đỏ sống trong vùng Arizona và New Mexico với những bản khắc trên đá có số tuổi khoảng 3,000 năm trước tây lịch, kể lại rằng tổ tiên họ đã từng tới thăm nhiều hành tinh khác trước khi tới trái đất . Những bản khắc với hình người có chiếc đầu tròn, đó là những chiếc mũ bảo hộ mà người dân trong bộ lạc không hiểu nổi. Không những bản vẽ chứng tỏ người không gian đã đổ bộ xuống đây mà họ còn để lại nhiều công trình kiến trúc tinh xảo nữa.

Về phần tôn giáo phản ứng ra sao trước giả thuyết về người không gian? Thánh kinh Ki Tô Giáo, kinh Koran của Hồi Giáo hay nhiều thánh kinh nhiều tôn giáo khác nhấn mạnh việc thượng đế quan tâm đặc biệt đến con người và trái đất. Nếu khám phá ra còn nhiều sinh vật ở nhiều hành tinh hay tín hiệu của một nền văn minh nào đó ở một hệ thống thái dương nào khác nữa thì lòng tin này liệu có bị lung lay không?

Chúng ta có nhiều thì giờ để điều chỉnh lại cái nhìn khi có những chứng cớ khoa học mới về vũ trụ, ví dụ trường hợp của Nicolaus Copernicus vào năm 1543 đã chứng tỏ là trái đất quay quanh mặt trời chứ không phải nó là trung tâm đứng yên trong khi mặt trời và các tinh tú khác quanh quanh. Việc khám phá ra đời sống khác ngoài trái đất sẽ làm quan niệm về vị trí của con người trong vũ trụ bị đảo lộn nhưng những nhà nghiên cứu cho rằng lòng tin của con nhân loại không thay đổi mấy khi hiểu là trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ hay sinh vật không phải được tạo ra như hình hài hiện nay mà phải trải qua sự biến hoá và tiến hoá trong nhiều triệu năm.

Mục sư Jim Allen viết: ?Thuyết Người Không Gian Cổ Xưa? đã từ chối đấng Christ, thuyết này đã xúc phạm khi muốn thay thượng đế bằng người không gian. Thánh kinh đã cảnh cáo các tín đồ là phải cảnh giác trước những mưu mô lừa gạt của qủy. Thuyết này là một lừa dối tinh vi, một mũi tên nhọn nhắm vào tim những linh hồn yếu đuối mà ta phải gạt bỏ nó đi với bất cứ giá nào.

Mục sư Hal Ostrander, lý thuyết gia tại nhà thờ Cơ Đốc Georgia, người từng cứng rắn chống lại thuyết tiến hoá tuyên bố: ?Một cặp vợ chồng kia có một đứa con, sau đó quyết định có th êm một đứa con nữa. Vậy thì đứa con thứ nhì kém đặc biệt hơn sao? Vậy thì nếu Chúa quyết định cho đời sống hiện diện trên trái đất này, rồi tại một hành tinh khác, một hành tinh khác nữa ? điều này không làm cho chúng ta kém đặc biệt.

Linh mục Jose Gabriel Funes là Giám Đốc đài quan sát thiên văn tại tòa thánh Vatican đã tuyên bố trong một bài phỏng vấn ngày 14/5/2008 đăng trên tờ báo do tòa thánh phát hành với tựa đề: ?Người Không Gian là Anh Em Của Tôi?: -?Thật nông cạn khi nói là không thể có một đời sống khác ngoài trái đất này. Cũng có thể trước đây có đời sống tại Hoả Tinh và Chúa cũng tạo ra nhiều đời sống khác trong vũ trụ, điều này không thể nghi ngờ gì nữa. Sự hiện diện của một đời sống khác ngoài không gian không đi ngược lại lòng tin nơi Thiên Chúa?.


B- Những Thành Phố Cổ Bị Chìm:

Khám phá những thành phố cổ đã chìm xuống đại dương khiến người ta có cái nhìn khác về văn minh nhân loại trên trái đất này cả nhiều ngàn năm trước. Như vậy kết quả đưa lại những gì? Phải chăng chúng ta đã nhìn lịch sử văn minh nhân loại sai lạc và chính nền văn minh cổ xưa được người không gian giúp đỡ đã có những kiến trúc chẳng khác bây giờ, trong khi mọi người tưởng là vào thời kỳ đó, khoảng 5-6,000 về năm trước con người vẫn ăn lông ở lỗ và sống trong những hang động.

1- Di Tích Cambay-
Ấn Độ.

Được tìm thấy ở bờ biển vịnh Cambay, Ấn Độ, là một trong những thành phố cổ bị chìm mà hiện nay người ta biết rõ. Nằm sâu dưới mặt nước 40 mét, thành phố này có chiều dài 5 miles, rộng 5 miles. Đây là di tích của nền văn minh cổ đại có số tuổi trên 5,000 năm và được tình cờ khám phá vào năm 2001 khi Viện Khảo Cứu Hải Dương Ấn Độ nghiên cứu về độ ô nhiễm trong nước biển.

2- Thành Phố Yonaguni- Nhật Bản

Nằm sâu dưới mặt nước 28 mét cách bờ biển thành phố Yonaguni Jima là Kim Tự Tháp Nhật Bản, còn được gọi là thành phố ?Atlantis Nhật Bản?. Di Tích này có số tuổi là 5,000 năm và được cho là bị chìm khoảng 2,000 năm về trước do một trận động đất. Giáo sư Hải Dương Học Nhật Bản là Masaaki Kimura đã bơi xuống thăm nơi này suốt 20 năm, một điều ông thường nói với giới truyền thông là: ?Mỗi lần xuống dưới đó, tôi lại vững lòng tin rằng nơi đó là những gì còn lại của một thành phố cổ xưa?. Trong khi nó không làm ngạc nhiên như di tích Cambay, Kim Tự Tháp Nhật Bản này lại gợi trí tò mò với những tảng đá thật to lớn, không phải do thiên nhiên mà do con người làm ra.

3- Thành phổ cổ tại Cuba:

Khoảng một dặm sâu dưới mặt nước tại bờ biển Cobo de San Antonio là thành phố cổ bị chôn vùi người ta ước tính có số tuổi là 12,000 năm. Di tích này được Paulina Zelitsky, một nhiếp ảnh gia về hải dương người Nga/Gia Nã Đại khám phá vào 15 năm trước đâỵĐây là một thành phố được xây dựng trong thời đại băng đá. Vì nằm

quá sâu dưới đại dương nên rất khó có thể xuống để tìm hiểu. Cho đến nay, những di tích còn để lại là xương các động vật, kiến trúc bằng đá giống như những hòn đá tại đảo Easter và một Kim Tự Tháp. Đây có phải là nền văn minh có trước cả văn minh của người Sumer không, đó là một vấn đề đang được các nhà nhân chủng học tìm hiểu.

4- Thành Phố Cổ Atlantis:

Vào 2,360 năm trước, nhà hiền triết Hy Lạp Plato mô tả là vào thời gian khoảng 9,600 năm trước tây lịch, xã hội Utopia rất hoà bình, những kiến thức về khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật rất cao, mọi người đều giầu có, văn minh, đất đai lại màu mỡ, thực phẩm, nước, gia súc, gỗ, hoa quả thừa thãi. Nhưng sau vài thế hệ cầm quyền, những kẻ lãnh đạo trở nên kiêu ngạo, tham lam, sa đọa rồi gây chiến với các nước láng giềng, chiếm các vùng đất phía bắc Châu Phi, Châu Âu, tấn công Ai cập rồi công hãm thành Athens. Ở đây họ bị quân Athens đánh bại. Sau khi thua trận, một trận động đất kinh hoàng xẩy đến, sóng thần chôn vùi toàn thể đội quân Utopia và cả đội quân

Athens cũng như toàn thể hòn đảo. Vùng đất liền Atlantis bị chôn vùi dưới biển sâu chỉ trong vòng một ngày một đêm.

Dựa trên cuộc nghiên cứu ròng rã suốt 27 năm về nguồn gốc và sự tiến hoá của các hành tinh trong thái dương hệ, vào tháng 7 năm 2009 tiến sĩ Anatoly Rubenis, giáo sư vật lý thiên văn tại đại học St.Petersburg, Nga Sô đã tuyên bố là phần lớn các hành tinh đều tiến hoá theo một đường nét rõ rệt nhưng chỉ riêng trái đất đã bị biến đổi lạ lùng trong quá khứ. Thiên tai và sự biến đổi cơ bản của môi trường trái đất vào khoảng 40,000 ngàn năm trước trùng hợp với việc biến mất cả một lục địa nằm ở phía nam Đại Tây Dương. Ông cũng đưa ra nhận xét là mức độ phóng xạ đã tăng lên mức thật cao trong khoảng thời gian ngắn, điều này chứng tỏ khi đó có một vụ nổ nguyên tử thật lớn. Giáo sư Rubenis đưa ra kết luận là chính người không gian đã từ một phi thuyền mẹ phóng bom nguyên tử xuống để xoá sạch sinh vật sinh sống tại nơi đây. Ông viết trong một bài khảo luận: ?Không có một phương pháp chính xác nào giải thích được việc gì đã xẩy ra trên trái đất vào lúc đó, giả thuyết của tôi có thể trả lời thỏa đáng cho các nhà khảo cứu về nhân chủng học, địa chất học. Tôi tin rằng người không gian đã tới trái đất này từ lâu và thiết lập những căn cứ. Họ sống lẫn lộn với con người để giúp đỡ họ. Lục địa Atlantis trong huyền sử là nơi hai giống này sống chung, đó là một xã hội thật tiến bộ. Huyền sử cũng nói là lục địa này thình lình biến mất, không để lại một vết tích nào?. Giáo sư Rubenis đưa ra một giả thuyết là khi đó người không gian nhận thấy con người ngày càng trở nên kiêu ngạo, không còn trung thành với họ nữa. Một quyết định được đưa ra là phải tiêu diệt toàn thể sinh vật ở nơi đây cũng như không muốn để lại một vết tích về sự hiện diện của họ nữa. Lục địa này chịu một lực nguyên tử khủng khiếp, cuối cùng chẳng còn gì lưu lại ? và chỉ còn là biển cả mênh mông.


C- Những Kiến Trúc và Điêu Khắc Cổ Xưa Kỳ Lạ:


Có phải chúng ta là loài sinh cô độc sống trong vũ trụ ngút ngàn này hoặc là trong quá khứ và ngay cả hiện tại nhân loại chịu ảnh hưởng sâu xa do sinh vật khác ngoài không gian tới đây? Chứng cớ nào kết luận là xưa kia người không gian đã xuống trái đất này và người không gian là ai? Những câu hỏi này được đặt ra suốt nhiều thập niên qua.

Gần đây người ta bừng tỉnh dậy với mối quan tâm về người không gian với những nghiên cứu khoa học của các nhà nhân chủng học và khảo cổ học cùng nhiều nhà khoa học khác. Khởi đầu vào cuối thập niên 1960, Erich on Daniken viết về người không gian cổ trong cuốn Chariots of the Gods đã lôi kéo được chú ý của mọi người. Tác giả đã viết là hàng nhiều ngàn năm trước, người không gian đã đổ bộ xuống trái đất mà con người thời đó gọi họ là những thiên thần. Họ xuống đây để khai hoá cho con người, giúp họ mở mang kiến thức, dạy họ những kỹ thuật để sinh tồn và văn minh. Những người bênh vực giả thuyết này đưa ra hai loại chứng cớ: (1) Các sách về tôn giáo cổ và (2) những di tích còn để lại, như Kim tự tháp, các hình khắc trên đá hay trong các hang động hay các kiến trúc khác. Các nhà khảo cứu đã tim thấy rất nhiều di tích như vậy rải rác khắp nơi trên thế giới, dưới đây người viết chỉ lấy ra vài ví dụ điển hình:

1- Kim Tự Tháp Ai Cập:

Ở đây người viết không đề cập tới việc làm sao con người có thể xây dựng nên ngôi Kim Tự Tháp với trên 100,000 tảng đá nặng từ 1 tới 20 tấn, chồng chất hoàn hảo lên nhau với chiều cao 147 mét vào khoảng 3,000 năm trước tây lịch hoặc là Kim Tự Tháp này hướng về những ngôi sao trên chòm sao Orion thật chính xác hay chiều cao của Kim Tự Tháp đo đúng bằng một phần tỉ lần so với khoảng cách của trái đất tới mặt trời. Những văn bản cổ tìm được tại Ai Cập có ghi lại là bầu trời khi đó mở rộng ra, những tia sáng chói
lòa bay xuống dạy dân những kỹ thuật và kiến thức. Rất nhiều di tích điêu khắc còn để lại với những dạng UFO hay người không gian. Trong một buổi hội thảo vào tháng 11/2010, Tiến Sĩ Ala Shaheen, khoa trưởng khoa Nhân Chủng Học tại Đại Học Cairo phát biểu là người không gian đã xuống giúp dân Ai Cập cổ xây dựng nên Kim Tự Tháp cổ nhất, Pyramids of Giza. Đại biểu Hoà Lan là Marek Novak hỏi về những kỹ thuật còn để lại của người không gian, Giáo sư Shaheen trả lời là những vật để lại trong Kim Tự Tháp ?không phải là của con người trên thế gian này?. Trước đó vào thập niên 1990, trong hồ sơ mật về UFO của cơ quan tình báo KGB Sô Viết đã nói về những ngôi mồ của người không gian tại Ai Cập cũng như những gì còn để lại trong Kim Tự Tháp.

2- Kim Tự Tháp tại Nam Mỹ:



Teotihuacan nằm tại trung tâm nước Mễ Tây Cơ được coi là trung tâm Kim Tự Tháp cổ nhất tại Nam Mỹ, nó giữ vai trò quan trọng cho nền văn hoá cổ của xứ này và được coi là hoạt động chính của người không gian tại đây. Người Aztecs tới đây vào khoảng năm 1400 năm trước tây lịch trong khi những kim tự tháp này đã bị bỏ hoang.

3- Đường Nazca:

Trên một bình nguyên cao trong vùng sa mạc Nazca phía nam nước Peru là một loạt những hình vẽ cổ được khắc trên đá, có chiều dài trên 50 dặm. Ngoài những đường thẳng đơn giản là những dạng hình học, những hình vẽ các loài như chim, cá, người và các động vật khác. Vì các hình vẽ thật chính xác, ngay thẳng và khổng lồ nên chỉ nhận biết được ở độ cao mà thôi. Dân Nazca sống ở vùng này vào thời kỳ 1,000 trước tây lịch nên không thể có những máy biết bay được. Một số người cho rằng những hình này là những chỉ dẫn cho phi thuyền của người không gian đáp xuống hay đi lên.

4- Tượng đá tại đảo Easter:


Hòn đảo Easter trong quần đảo Polynesia nổi tiếng với những tượng đá được gọi là ?Maoỉ: Có tất cả 887 bức tượng có hình dáng người với khuôn mặt khổng lồ được dựng lên quanh đảo. Những ngôi tượng làm bằng đá nguyên khối trung bình cao trên 4 mét, nặng 14 tấn, có những ngôi cao và nặng gấp đôi. Làm sao con người cổ khi chưa có những dụng cụ tinh xảo hay kiến thức và phương tiện chuyên chở có thể tạo được kiến trúc như vậy được. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng người không gian đã để lại công trình của họ để đánh dấu cuộc đổ bộ của họ tại nơi đây.

5- Puma Punku:

Trên cao nguyên nước Bolivia (cao độ 4,000 mét), Puma Punku là cánh đồng có những khối đá khổng lồ được điêu khắc khéo léo và tinh xảo, đó là loại đá granit và diorite rất cứng mà chỉ có những dụng cụ bằng ngọc mới có thể cắt được. Mỗi tảng đá nặng từ 200 tới 400 tấn, có nhiều tảng nặng tới 800 tấn, và một mỏ đá gần đó nhất cũng cách xa nơi này 10 dặm và theo các nhà khảo cổ học thì những hòn đá này có số tuổi vài ngàn năm. Một điều đáng lưu ý khác là những vết cắt để lại trên những tảng đá thật ngay thẳng và có cùng một độ sâu, chúng đặt lên nhau thật vừa khít. Công trình này được cho là xây dựng trong khoảng thời gian từ 500 năm trước tây lịch tới thời đại băng đá. Di tích này được coi là chứng cớ rõ ràng nhất người không gian cổ đã đổ bộ xuống trái đất từ hàng ngàn năm trước đây.

6- Quan tài đá của vua Pacal:

Đại đế Pacal trị vì thành phố Palenque của người Mayan trong thế kỷ thứ 7. Sau khi chết, thi hài của vị vua này được để trong kim tự tháp được gọi là ?Temple of Inscription?. Những nét khắc phức tạp trên nắp quan tài đá là một bằng chứng cho thuyết người không gian cổ: Hình của Pacal ngồi ở trong vị thế một phi hành gia trong thời gian phi thuyền bắt đầu được phóng đi: hai tay để ở bảng kiểm soát, chân để ở máy gia tốc và một ống oxygen ở miệng.

7- Lịch của người Aztec:

Giống dân Aztec là người cổ đại đã sống lâu đời tại vùng trung Mỹ Châu. Lịch của họ hay còn gọi là ?hòn đá mặt trời? là một tấm lịch có 365 ngày được người Mể Tây Cơ cổ sử dụng. Đó là một phiến đá thật lớn, rộng 4 mét. Người Aztec dùng 2 loại lịch: một loại để đo lường thời gian còn loại kia dùng để định các ngày lễ hội về tôn giáo. Lịch này tương tự như lịch của người Mayan. Lịch đo thời gian cho biết khi nào là thời điểm tốt nhất để trồng trọt trong khi lịch về các ngày lễ hội cho biết thời gian nào phải thờ phượng thánh thần, thượng đế. Trong lịch đo thời gian, một năm chia ra làm 365 ngày và có 18 tháng, mỗi tháng có 20 ngày, còn lại 5 ngày lẻ thì để đến cuối năm. Đó là 5 ngày xấu trong năm và thiên tai thường xẩy ra trong khoảng thời gian này. Lưu ý là lịch của người Mayan bắt đầu từ ngày 10 tháng 8 năm 3113 trước tây lịch và chấm dứt vào ngày 21 tháng 12 năm 2012 sau tây lịch ( tức là vào tháng 12 năm ngoái). Câu hỏi được đặt ra là tại sao người tiền sử có những kiến thức về các vì tinh tú, chu kỳ mỗi năm cũng như những kiến thức về thiên văn? Cũng vậy, tại sao người cổ Mayan lại hiểu về phương pháp toán học và thiên văn học. Giải thích dễ hiểu nhất là có một giống người văn minh đã dạy cho họ.

Đ Hiện Tượng UFO:

Theo một cuộc thăm dò của cơ quan ?Opinion Matters? thực hiện vào tháng 10.2012 tại Anh quốc thì đã có 33 triệu người tin là có đời sống ngoài không gian so với 27 triệu người còn tin vào thượng đế. Kết quả này không làm ngạc nhiên Nick Pope, nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng và cũng là trưởng cơ quan điều tra về hiện tượng UFO Anh Quốc. Ông nói: ?Càng ngày càng tìm ra nhiều hành tinh trong những thái dương hệ có những đặc tính gần giống trái đất thì người ta càng tin là có nhiều đời sống khác hơn?.

Một vật thể không xác định rõ bay trong không gian (Unidentified Object) hay UFO được Bộ Không Quân Hoa Kỳ dùng vào cuối thập niên 1950 thay thế cho từ ?Đĩa Bay? trước kia. UFO được chính phủ Hoa Kỳ lưu ý nhiều trong thời kỳ chiến tranh lạnh với lý do an ninh của đất nước. Theo một tài liệu đã được bạch hoá, trong thời thế chiến thứ 2, một phi công thuộc không lực Hoàng Gia Anh đã gặp một ?đĩa bay? và trình cho thủ tướng Anh là Winston Churchill. Vị thủ tướng này cùng Viên Tướng Hoa Kỳ lúc đó là Dwight Eisenhower đã quyết định xếp hồ sơ này vào hạng ?tối mật? để tránh cho công chúng phải hoảng sợ cũng như mất lòng tin vào tôn giáo. Từ đó nhiều quốc gia cũng che dấu những báo cáo tương tự, xếp những hồ sơ UFO vào hạng ?tối mật?, nhưng càng ngày các khoa học gia cũng như dân chúng đòi hỏi chính quyền phải cho dân chúng biết những gì đã và đang xẩy ra.

Trong vài năm gần đây, nhiều phi hành gia, các vị tướng đã lên lên tiếng về hiện tượng này. Nhiều người đã tuyến bố là chính bản thân họ đã trực tiếp chứng kiến hay tiếp xúc với người không gian

Vào ngày 5.10.1955, tướng Douglas Mac Arthur đã nói: ?Các quốc gia trên thế giới phải hợp tác cùng với nhau trong một trận chiến mới, đó là cuộc chiến liên hành tinh. Chúng ta sẽ có một giới tuyến mới để chống lại cuộc tấn công của những sinh vật từ hành tinh khác?.

Tướng Vasily Alexeyev thuộc trung tâm không gian Nga Sô tuyên bố công khai: ?Bộ không quân đã trình bày 50 tấm hình UFO với mọi hình dạng, từ dạng hình tròn, bầu dục tới những hình giống như một phi thuyền ? khiến ta có thể nghĩ ngay tới sự thực mà mọi người đang nghi ngờ.

Tổng thống Gerald Ford tuyên bố trong khi còn là nghị sĩ: ?Dân chúng Hoa Kỳ có quyền được Bộ Không Quân giải thích rõ ràng về hiện tượng UFO. Theo tôi, chính phủ đã măc nợ dân chúng trong việc này.

Cùng chủ toạ với cựu tổng thống Nga Mikhail Gorbachev trong một phiên họp vào năm 1988, cựu tổng thống Ronald Reagan tuyên bố: ?Cộng đồng nhân loại quên hẳn việc hợp tác với nhau trước một cuộc chiến tranh mới. Khi đối diện với một sinh vật ngoài không gian thì loài người sẽ biến mất nhanh chóng?.

Đại tá và cũng là phi hành gia Gordon Scott, người điều khiển phi thuyền Mercury và Gemini đã tuyên bố tại Liên Hiệp Quốc: ?Tôi tin là có các phi thuyền và người không gian từ hành tinh khác đã xuống trái đất này. Nhiều phi hành gia ngại ngùng khi đề cập tới việc này nhưng riêng tôi thì đã nhìn thấy tận mắt. Lúc đó, một chiếc đĩa bay bay qua đầu chúng tôi, ba chiếc chân thò ra rồi hạ xuống khu đất khô bên cạnh hồ. Khi nhiếp ảnh gia của chúng tôi hướng chiếc máy chụp hình về phía UFO thì nó cất lên cao và bay mất với tốc độ của ánh sáng. Không còn nghi ngờ gì là họ đã tới đây từ một nơi nào đó trong vũ trụ ngút ngàn kia.

Vào năm 2009, Buzz Aldrin, phi hành gia thứ nhì đổ bộ lên mặt trăng cho rằng chiếc cột đá cao 15 mét trên măt trăng Phobos của Hỏa tinh là do người không gian dựng nên trước khi họ xuống trái đất để xây các kim tự tháp.

Cho đến nay còn rất nhiều các khoa học gia, các phi công, tướng lãnh ? đã xác nhận sự hiện diện của UFO và mỗi năm trên thế giới, hàng ngàn bá cáo về hiện tượng này tới tấp gửi đi. Chúng tôi xin nêu ra 3 hiện tượng UFO điển hình đã làm xôn xao dư luận nhiều nhất.

1- Tai Nạn UFO tại Roswell: 66 năm sau vẫn chưa có câu trả lời.

Khi chiếc pháo cuối cùng nổ mừng ngày lễ độc lập Hoa Kỳ vào ngày 4 tháng 7 năm 2013, buổi lễ hội tại Roswell mới bắt đầu. Ba ngày hội này đánh dấu 66 năm kỷ niệm câu chuyện về đĩa bay đã làm cho thành phố nhỏ thuộc tiểu bang New Mexico nổi tiếng khắp thế giới. Vào một ngày đầu tháng 7 năm 1947, một vật lạ từ trên trời rơi xuống một nông trại gần tỉnh Roswell, để lại nhiều mảnh vụn. Viên quản lý là người đầu tiên nhìn thấy và báo cho cảnh sát Roswell biết. Cảnh sát thông báo cho căn cứ quân sự đóng tại Roswell. Thiếu tá tình báo Jesse Marcel được phái tới hiện trường. Ông thu thập được nhiều mảnh vụn như cao su, giấy bạc chống nóng, những mảnh kim loại, những ống giống như dung để phát ra các tia quang tuyến.

Vào ngày 8 tháng 7 năm 1947, căn cứ quân sự tại đây cho phổ biến trên báo chí là căn cứ này đã thâu lượm được những mảnh vỡ của một đĩa bay. Ngay sau khi tin tức được loan đi, dư luận khắp nơi xôn xao và lập tức một thông báo khác được đưa ra để đính chính lại, thông báo mới cho hay là đó chỉ là những mảnh vỡ của một chiếc khinh khí cầu đo thời tiết bị tai nạn mà thôi.

Kể từ đó, câu chuyện về chiếc đĩa bay của người không gian bị tại nạn tại Roswell mỗi ngày một lớn dần đến nỗi vào thập niên 1990, Bộ Không Quân phải phổ biến 2 phúc trình, trong đó nói về những mảnh vụn thu thập được tại Roswell vào năm 1947 chỉ là nhữnh mảnh của một khinh khí cầu trong kế hoạch Mogul, một chương trình bí mật của quân đội để dò thám những cuộc thử nghiệm nguyên tử của Nga Sô.

Dù cho chính quyền giải thích như thế nào đi nữa, hàng năm cứ vào dịp ngày lễ độc lập, người ta lại đổ xô về Roswell để tham dự buổi lễ hội đánh dấu biến cố này trong 3 ngày và người ta gọi Roswell là thủ đô thế giới về UFO.



Bây giờ ta hãy nghe câu chuyện của một nhân chứng: Bà Anne Robbins hiện nay sống tại Midland, Texas. Chồng bà là một quân nhân đóng tại Roswell khi biến cố trên xẩy ra bà vẫn nhớ rất rõ hình dáng chiếc đĩa bay mà chồng bà đã miêu tả cũng như những gì ông đã nói với bà. Khi đó ông là Trung Sĩ phụ trách kỹ thuật, được gọi tới hiện trường để giúp 3 sinh vật bị bắn tung ra khỏi chiếc đĩa bay lâm nạn.

Trong phòng họp tại Viện khảo sát thiên văn đặt tại thành phố Odessa, Texas, bà kể:

? Chúng tôi có một party và ăn tối tại câu lạc bộ của căn cứ và trở về nhà lúc 10 giờ rưỡi. Ngay trước khi leo lên giường thì thấy bên ngoài sáng lòa như ban ngày và kéo dài trong vài phút. Chúng tôi nghĩ đó là đèn chiếu sáng của một chiếc máy bay trực thăng. Sau đó chồng tôi nhận được một cú điện thoại từ căn cứ, họ nói là phải vào trình diện ngay lập tức. Tôi cho rằng một chiếc máy bay nào đó bị lâm nạn. Phải mất 18 giờ sau chồng tôi mới về nhà với bộ quân phục nhầu nát và ướt đẫm. Khi gạn hỏi nhiều lần, ông ấy mới nói: ?Chỉ nói được cho em hay là vài ngày nữa báo chí sẽ đang tin là một UFO bị lâm nạn tại Roswell? và ông cũng nhấn mạnh là không muốn nói về chuyện đó.

Ngày hôm sau tôi hỏi lại là chuyện đó có thực không và hình dáng chiếc đĩa bay ra sao, chồng tôi trả lời đó là chuyện có thực. ?Nếu lấy hai chiếc đĩa úp ngược với nhau thì đó là dạng của chiếc đĩa bay, phía bên phía trên có những cửa sổ dài chạy vòng tròn chung quanh?. Tôi lại hỏi là có ai trên đó không thì ông nói là tôi hỏi nhiều quá và cho biết đây là câu trả lời cuối cùng, ông không được phép nói nhiều hơn: ?Có 3 người, một người đã chết?.

Vài ngày sau, Trung Sỹ Robbins đồng ý chở bà tới chỗ chiếc đĩa bay lâm nạn. Nơi này đã được dọn dẹp sạch sẽ, chỉ còn lại một khoảnh đất bị cháy xém, đó một vòng tròn đen bóng. Tôi nghĩ là không có một đám cháy nào có thể có một hình dáng như vậy, tựa như cát ở đây bị nung chẩy và biến thành tấm kính màu đen. Chồng tôi chỉ vào nơi đó rồi nói với tôi: ?Anh ở nơi đó suốt 18 tiếng đồng hồ đó?. Trên đường quay về nhà, tôi hỏi việc gì đã xẩy ra cho chiếc đĩa bay và những người không gian kia ra sao? Ông nhìn vào mắt tôi, nói chậm: ?Em đã được biết quá nhiều rồi, đừng hỏi thêm gì nữa?. Chồng tôi giải ngũ năm 1961 và mất năm 2000.

Sau khi chồng tôi chết, tôi được biết là ông ấy đã làm giấy cam kết bảo vệ những hồ sơ mật. Tôi đã hiểu lý do tại sao chồng tôi không cho tôi biết nhiều về chuyện này và Bộ Không Quân biết rất rõ việc gì đã xẩy ra tại đây. Tôi tin là một ngày nào đó chúng ta sẽ tìm ra sự thực?.

2- Khoa Học Gia Nga Sô: UFO là có thực:

Tháng 7 năm 2003 Graham Birdsall, Chủ nhiệm tạp chí nghiên cứu UFO Anh Quốc phỏng vấn Valery Uvarov, Giám Đốc Khoa nghiên cứu UFO thuộc Hàn Lâm Viện An Ninh Quốc Gia có trụ sở tại St. Peterburg, Nga Sô. Khi được hỏi về biến cố tại Tunguska, Siberia năm 1908, Uvarov nói: ?Hiện nay chúng ta đều biết nguyên do vụ nổ này là do một thiên thạch phát nổ trên bầu trời Tunguska, cách mặt đất 3 đế 6 miles, nhưng có điều ít người biết là chính một hỏa tiển bắn lên khiến thiên thạch này phát nổ. Chúng tôi không biết hoả tiễn này do ai bắn lên, nhưng tôi biết là từ một căn cứ đã xây dựng ở Siberia từ lâu lắm, có thể là nằm tại vài trăm cây số phía bắc Tunguska ? Để tôi kể một chi tiết mà chưa ai nói tới, hai tháng trước biến cố này xẩy ra, tất cả sinh vật trong vùng này đã bỏ chạy khỏi nơi đây, đó là thời điểm mà ai đó đang chuẩn bị những trang bị để đối phó với thiên thạch nguy hiểm đang bay về phía trái đất, những làn tia phóng xạ phát ra làm sinh vật sợ hãi mà bỏ chạy ? Lần cuối cùng mà tôi nhận biết là một hỏa tiễn cũng từ nơi này phá vỡ một thiên thạch hôm 24 rạng ngày 25 tháng 9 năm ngoái. Người Mỹ cũng biết chuyện này ? Chúng ta đang sống chung với một nền văn minh khác tiến bộ hơn mình gấp bội?.

Khi được hỏi về căn cứ bí mật này, Uvarov nói: ?Hãy quan sát nơi xẩy ra tại vùng Tunguska, phía đông nam rất rộng lớn có hồ Baikal nổi tiếng, phía trên đó phía bắc là cả một dải đất rộng lớn trên 100,000 cây số vuông, tất cả không một thành phố, làng mạc hay người ta sinh sống. Có thể căn cứ đó đặt ở đây ...

Khi đề cập tới hành tinh X trong huyền thoại, Uvarov trầm ngâm: ?Các nhà thiên văn học tại hàn lâm viện này đều nói là chúng ta không việc gì phải sợ. Chúng tôi đều cho là người tại hành tinh này với căn cứ đặt tại Siberia có liên quan với nhau, họ tới đây để vảo vệ trái đất, giữ cho qũy đạo của trái đất này được bền, nếu không nó sẽ ngày một xa khỏi mặt trời và hậu quả là sẽ không có một sinh vật nào tồn tại được.

3- UFO tại Mexico City

Hiện tượng UFO tại Mexico City, Mễ Tây Cơ được công nhận là một chứng cớ rõ ràng nhất từ trước tới nay về người không gian tới trái đất và được cả triệu người chứng kiến. Vào lúc 1 giờ trưa ngày 11.7.1991, dân chúng đang chuẩn bị quan sát hiện tượng nhật thực thì phát hiện một vật lạ hình chiếc đĩa bay lượn trên bầu trời thành phố và chỉ trong vòng vài giây sau tại nhiều địa điểm trong thành phố, nhiều người đã thu được hình ảnh chiếc đĩa bay này thật rõ ràng.

Bộ Quốc Phòng Mễ Tây Cơ đã công nhận hiện tượng UFO là có thực khi một chiếc máy bay quan sát và theo dõi những toán buôn lậu ma túy vào ngày 20/4/2004. Chiếc máy bay đã gặp một UFO sau đó nó bay đi với một vận tốc cực nhanh. Phi công đã ghi lại hình ảnh đầy đủ và báo về Bộ Quốc Phòng.

E- Bị Người Không Gian Bắt Cóc
David M. Jacobs, giáo sư môn Sử và văn hóa Hoa Kỳ tại đại học Temple bắt đầu nghiên cứu về người không gian từ giữa thập niên 1960 và ông có trên 40 năm kinh nghiệm cũng như tài liệu nghiên cứu và phân tích vấn đề này. Từ năm 1973, tiến sĩ Jacobs chuyên nghiên cứu về hiện tượng gọi là con người bị người không gian bắt cóc. Ông dùng thuật thôi miên để phỏng vấn 125 người, họ đều nói là đã bị người không gian bắt cóc. Ông là người tiên phong trên thế giới nghiên cứu về hiện tượng này.

Trong một buổi hội thảo về hiện tượng UFO tại San Jose, California vào tháng 10/ 2012 với trên 3,000 người tham dự và 19 diễn giả, giáo sư Jacobs nói là qua các cuộc phỏng vấn những người bị người không gian kể lại với thuật thôi miên đã đưa đến kết luận là phần lớn những cuộc bắt cóc đều có mục đích rõ ràng là truyền giống của người không gian cho người địa cầu. Những người này kể lại là họ bị đặt nằm trên bàn rồi trải qua các thủ tục với những dụng cụ đưa xuống từ trần nhà hay tường. Họ đều khẳng định là tinh trùng hay trứng của họ bị lấy đi, trong vài trường hợp vài phụ nữ còn cho biết là bào thai của họ bị lấy đi mất.. Tất cả đều diễn tả hình dáng của người không gian là mồm và mũi nhỏ nhưng mắt lại to quá khổ. Họ nhớ rất rõ là người không gian nhìn họ chăm chăm và có cảm tưởng là có sự nối kết về thần kinh hay thị giác giữa những người này với họ. Tất cả đều mất khái niệm về thời gian và phần lớn đều không nhớ những gì đã xẩy ra cho họ.

Giáo sư Jacobs nói: ?Phần đông những người bị bắt đều nói là họ là nạn nhân ngay từ hồi còn nhỏ và liên tục bị bắt suốt thời gian trưởng thành. Chúng tôi tin đó là chương trình họ gieo giống và thu hoạch kết quả các tế bào sinh sản của con người. Kết luận của các khảo cứu thật rõ ràng, những nạn nhân này đều quả quyết là họ thấy những ?người lai? không giống như người không gian hay con người?. Nghiên cứu cũng cho biết là chương trình của người không gian mới chỉ thực hiện vài trăm năm gần đây mà thôi.

Theo tài liệu cổ của người Sumer (sống tại vùng Mesopotamia 6,500 tới 4,000 năm trước tây lịch) còn để lại thì sau khi người trời Annunaki đã thiết lập xong những cơ sở trên trái đất thì họ bắt đầu khai thác các mỏ và dưới những điều kiện cực khổ, con người nô lệ bắt đầu nổi loạn. Do đó, người Annunaki tạo ra các giống lai để làm việc tại các hầm mỏ. Thoạt đầu giống lai này không thể tự sinh sản được nên trứng phải được nuôi trong bụng của người đàn bà Annunaki, nhưng sau đó họ thấy con người có khả năng nuôi dưỡng bào thai nên họ dùng ngay người trên trái đất để tăng nhân số cũng như lực lạo động nô lệ. Chính trong thánh kinh Do Thái Hebrew cũng viết: ?Những người con của Thượng Đế lấy con gái của con người làm vợ và con cái của họ sinh sôi nẩy nở, được gọi là giống Nefelum.

Phải chăng với những phương pháp lai giống này khiến con người cổ Cro-Magnon đã được cải biến nhanh chóng thành người Neanderthals ngày nay?

Theo như nhà sinh vật học Anh Quốc là Jack Cohen, hình hài của người không gian giống con người nhưng tiến hoá ở một thế giới hoàn toàn khác với những điều kiện môi sinh trên trái đất nên đưa ta tới một giả thuyết mới: Trong quá khứ những người này đã xuống trái đất để giúp cho đời sống ở đây hoặc là họ là loài người cổ đại có một nền văn minh cao nhưng vì một lý do nào đó phải dời bỏ trái đất để sống ở một nơi nào đó nhưng vẫn thường xuyên theo dõi hành tinh này.

Người không gian được coi là có hình dạng giống người nhưng các cơ quan trên thân thể nhỏ hoặc không có, như là da mịn, màu xám, đầu và mắt rất to, nhưng không có tai, mũi hoặc cơ quan sinh dục. Với những xác người không gian thu thập được do phi thuyền của họ bị tai nạn, người ta thấy có 2 loại người xám: một loại to lớn và một loại nhỏ bé. Điều này đưa đến nghi ngờ phải chăng loại người nhỏ bé không phải là sinh vật mà chỉ là một loại robot của người không gian?

F- Phần Kết:

Vào tháng 1/2011, tờ báo European Union Times đã đăng Wikileaks đã đưa tin Hoa Kỳ đã chuẩn bị một cuộc chiến tranh với UFO đặt căn cứ tại Nam Cực từ năm 2004. Theo như bản tin, Hoa Kỳ đã đặt trong tình trạng báo động cao nhất vào ngày 10/6/2004 khi có tin cho biết một hạm đội thật lớn UFO thình lình nổi lên tại biền vùng Nam Cực và tiến gần hải phận Guadalajara, Mexico, cách biên giới Hoa Kỳ 1,000 dặm, sau đó, hạm đội này lặn mất để trở về căn cứ ở biển Nam. Kể từ đó, hạm đội này thỉnh thoảng lại xuất hiện, điển hình nhất là vào tháng 12/2010 tại vùng biển của Chi Lợi.

Trong buổi hội thảo về UFO và người không gian nhân kỷ niệm năm thứ 35 của Hội Khoa Học Hoàng Gia Anh Quốc hôm 25/1/2010, Simon-Conway Morris, giáo sư môn tiến hoá sinh học tại đại học Cambridge phát biểu: ?Các quốc gia phải chuẩn bị tình trạng xấu nhất xẩy đến khi người không gian tới đây vì những sinh vật ngoài không gian không giống như con người, có thể họ cực kỳ tham lam, tàn độc và có khuynh hướng khai thác tài nguyên của chúng tả. Albert Harrison, giáo sư khoa tâm lý học tại Đại Học California, Davis lại lo ngại việc cơ quan SETI đã phát tín hiệu cho vào không gian để mong tiếp xúc với người không gian suốt 20 năm qua: ?Tôi cho là thật nguy hiểm khi các nhà khoa học đang đi tìm người không gian bằng cách này. Thái độ của chúng ta là thân thiện, nhưng biết đâu vào một buổi sáng kia khi thức dậy, chúng ta lại thấy phi thuyền của họ đang bay vòng quanh trái đất?.

*Trần Hồng Văn

Tài Liệu Tham Khảo:

- Allen, Jim. Acient Aliens: Myrth, Truth or Deception? 1/2012. Blogos
- Cohen, Michael. Egyptian Archaeologist Admits Pyramids Contain UFO Technology. 11.28.2010. UFO and Paranormal News.
- Datiken, Erik Van. Aliens Destroyed Atlantis. 8.3.2009. Weekly World News.
- Johnson, Bryan. Top 10 Ancient Aliens Mysteries. 21.2.2011. Listverse.
- Speigel, Lee. Roswell UFO Crash: 66 years of Unanswered Questions. 8.9.2013. Huff Post-Weird News.
- Stouse, Tim. New Roswell Witness! 4.11.2003. Tim Stouse homepage.
- Stouse, Tim. It's Official in Russia: UFOs are Real. 16.7.2003. Science News.
- Suđock, Sally. Alien Abductions Are Evolution Oriented. 9.2012. Beyond Weird.com
- Wall Mike. Aliens & God: Would Finding Extraterrestrial Life Destroy Religion? 6.25. 2012. Net Scientia Web Concepts.
- WikiLeaks. WikiLeaks Set To Reveal US-UFO War In Southern Ocean.13.12.2010. European Union Times.

Và nhiều tài liệu khác nữa.

*Trần Hồng Văn


Mục Lục


8. Mưa Vẫn Rơi Trên Phố SNOQUALMIE


Phan Thái Yên




Mệ Ngâu ở phố Snoqualmie vừa qua đời. Mới mấy tháng trước, dịp sinh nhật chín mươi bảy của mệ, hội đồng hương Huế gởi hoa và tấm lắc chúc tặng mệ là người cao tuổi nhất ở vùng Seattle. Mệ cười khoe hàm răng giả nhuộm đen? Răng họ không chờ tới khi tui một trăm rồi tặng cho chẳn.

Rứa rồi mệ lâm bệnh nặng. Trong cơn tỉnh mê cuối cùng của đời mệ, cháu con ngồi quanh nghe mệ chừng như đang trở về thời son trẻ. Giữa những câu nói lảm nhảm chiêm bao tưởng như vô nghĩa chợt nở nụ cười thầm lặng. Ôn mi mần chi dị rứa!... Cháu con nhìn nhau kính cẩn ra khỏi phòng để mệ với giấc chiêm bao cuối đời, thấp thoáng ảnh hình giữa ngàn mưa trắng lịm kỳ ảo chẳng hề ngơi?

Mệ ngó lại đời mình.



Vợ chồng Ôn Cửu hiếm hoi. Bà chỉ sinh được cho ông một mụn con gái. Con Ngâu. Ôn vẫn chắc lưởi, lắc đầu, mỗi khi nghe mụ vợ cao giọng gọi con. Cái tên chữ Tập Khánh, ôn đắc chí giữ trong bụng cho tới ngày con ra đời, dù trai hay gái, đã bị bà Cửu lắc đầu quầy quậy, từ chối không thương tiếc. Tính ôn dễ dãi nên đã để mụ lấn lướt, đặt cho con gái cái tên chẳng chút trâm anh. Ôn nghĩ vậy và cảm thấy như tay chân vẫn còn run lẩy bẩy nhớ tới dòng thác người với liễn đỏ lọng vàng rực rỡ và tiếng trăm họ chiêu hô lần thiên tử xa giá đến Đàn Nam Giao làm lễ tế trời. Ôn thở ra, ngụm miếng trà bông ngâu, trà thơm chi lạ...

Mới mười một mười hai, Ngâu đã theo mạ ra chợ buôn bán mỗi ngày.

- Con gái con lứa khôn có chi hơn là học buôn học bán.

Mạ đã nói rứa và Ngâu thì cảm thấy vui vẻ nơi chợ búa đông người hơn là quanh quẩn trong nhà với tiếng đọc bài ê a của bầy học trò ngái ngủ. Có khi Ngâu thầm nghĩ O đã biết hết chữ cũa cha dạy cho học trò. Năm nào cũng vậy, nghe hoài O gần như thuộc nằm lòng những bài đánh vần quốc ngữ, những câu tiếng Pháp đếm số tính ngày hay bài chữ Nho trầm đều như kinh tụng...gia nhà quốc nước tiền trước hậu sau ngưu trâu mã ngựa... Có điều Ngâu không biết là o chỉ thuộc lòng, đọc vanh vách mà không hiểu nghĩa hay có thể thực sự đánh vần, nhận ra mặt chữ trên trang giấy.

Ngày tháng níu nhau theo từng cơn mưa chờ xuân trên đôi tay trần lóng lánh măng non, Ngâu bước vào lứa tuổi dậy thì, hây hây thời sen ngó. Nàng trỗi thành cô gái dỏng cao, duyên dáng, và giỏi giang có tiếng ở chợ Mỹ Xuyên. O Ngâu xin mạ dọn riêng một gian bán hàng tươi. O nuôi gà bán trứng, O đi đò qua tuốt Bàu Mây, Cồn Én, dọc sông Ô Lâu hái mua bông sen, bông phượng tây, trái cây, về bán vào các ngày rằm vía.

Ngâu sống bận rộn hồn nhiên với mạ, với chị em bạn hàng trong phố chợ, không để ý chi tới tình hình chiến tranh phức tạp đang diễn ra chung quanh. Việt Minh ngoài Mỹ Chánh, Ưu Điềm, thỉnh thoảng đi từng toán trong đêm tối về làng, gom dân tuyên truyền học tập, kêu gọi đóng góp. Học trò lớn của Ôn Cửu có đứa bỏ làng vô rú theo Việt Minh, có đứa khăn gói vô Huế tìm chổ an thân. Lính Tây phía ngoài độn biển miệt Thanh Hương, Đại Lược, hoặc xa hơn, từ cuối Ô Lâu tiếp cận Phá Tam Giang, bắt đầu mở những cuộc hành quân đi tuần đi rỏn qua làng. Nhìn những tên lính lê-dương đen như cột nhà cháy, mắt trắng dã láo lơ dòm ngó, dân làng Mỹ Xuyên linh cảm lo âu cho tháng ngày bất trắc trước mặt.

Mớ tiếng tây tiếng u của Ôn Cửu rứa mà đã giúp dân làng một đôi lần. Ôn xí lô xí la với tên sĩ quan chỉ huy hồi lâu, hắn nhìn quanh lưỡng lự rồi khoát tay cho toán lính di chuyển ra khỏi làng. Mụ Cửu mừng xóm làng thoát nạn nhưng vẫn chưa hết lo cho chồng. Mụ níu áo ôn kéo vô nhà.

- Ôn ơi, ôn gan ruột cái kiểu nớ có ngày tui đứng tim mà chết quá. Súng đạn bao quanh, tụi hắn lên cò lắc cắc rứa mà ôn cứ đứng đó xí lô xí la. Tiếng của người ta, nói trật, họ bắn một cái đùng rồi mẹ con tui ở với ai.

- Mụ đừng lo chuyện tầm vách. Dạo ở trên Huế tui từng nói tiếng Tây tróc tróc với tụi hắn. Mình nói đúng họ phải nghe. Tui nói trong làng chừ chỉ còn toàn người già con nít, mấy ôn muốn kiếm Việt Minh thì vô trong rú chớ ngoài ni khôn có mô.

Dân làng Mỹ Xuyên thoát được lần Tây ruồng biết ơn ôn Cửu, khen ôn nói tiếng Phú Lang Sa như gió, nhưng Việt Minh lại nghi ôn làm điềm chỉ cho đồn Tây ngoài Thanh Hương.

Một đêm cuối tháng Mười, đất trời sủng trong mưa dầm, ánh đuốc trên tay thằng học trò bạc tình với chữ nghĩa, chập chờn những sợi mưa chém nghiêng qua khuôn mặt lầm lì. Hắn đứng im dưới mưa nhìn đồng chí của hắn trói thúc ké ông thầy già, lôi xềnh xệch qua khoảng sân lầy lội. Ánh đuốc vói theo lay lắt rọi những giọt mưa bay trĩu qua đôi vai già nua rồi nhả xuống mặt đất đọng đêm thâu. Gã học trò kéo ngược hai mẹ con mụ Cửu đang khóc vật vã dưới mái hiên, không cho họ chạy theo ôn giáo, miệng quát tháo.

- Làm Việt Gian, tay sai cho thực dân thì phải đền tội. Bộ hai người cũng muốn theo đồng lõa hay răng đây !?

Quăng cây đuốc lụn bấc xuống sân tắt ngúm, hắn bước đi trong bóng tối dày đặc. Chỉ còn lại tiếng khóc của hai người đàn bà nhỏ nhoi chìm lịm trong tiếng gió mưa tràn lan qua mái ngói, qua cánh cửa nhà chưa khép. Bước chân hắn dợm đứng lại, lưởng lự trong giây lát, rồi quày quả bước. Thằng học trò chăn trâu vừa nhớ tới cảm giác rần rật thèm muốn những khi hắn vừa bửa củi vừa nhìn lén cô con gái của thầy ngồi gội đầu dưới mái hiên, từng sợi nước bò trên gò ngực tròn căng sau lớp yếm lụa mỏng ướp mùi hương chanh chùm kết.

Ôn Cửu bị bắt đi biệt tích. Mạ và O Ngâu khóc ròng rã những ngày sau đó. Mụ Cửu đi coi bói, xin xăm, tìm kiếm khắp nơi vẫn không ra tung tích. Gã học trò lầm lì theo Việt Minh thì sau đó nghe đồn đã bị Tây bắn chết trong một trận càn.

Sau hơn một năm mỏi công tìm kiếm, mụ Cửu đành quyết định lập mộ để tang cho chồng, lấy ngày ôn Cửu bị bắt làm ngày tử. Mẹ con vẫn hàng ngày bận rộn lo toan buôn bán nhưng cuộc sống buồn hơn. Ngôi nhà trở nên quá rộng khi đêm về. O nhớ cha hay chêm tiếng Tây khi kể chuyện những ngày sống trong Dinh, chuyện hội hè người đông như kiến dịp thiên tử đi thuyền rồng qua sông Hương về Đàn ?xanh cu tổ (Đàn Nam Giao) làm lể tế trời. O Ngâu nhớ tiếng roi mây ôn Cửu đánh gió nghe vun vút, tiếng học trò ngái ngủ đọc bài nghe như tiếng kinh ... gia nhà quốc nước tiền trước hậu sau...

Việc bán buôn bận rộn đã giúp mẹ con mụ Cửu nguôi ngoai dần theo thời gian. O Ngâu mười tám tươi tắn lồng lộng, mỏi mắt bầy trai phố chợ ngong ngóng ngó theo. Không nói ra nhưng mụ Cửu vẫn thầm chờ ngày mãn tang để tìm lo gả chồng cho con gái.

Chiến tranh Việt Pháp ngày càng ác liệt. Lính Tây đi tàu tuần ngược sông Ô Lâu để kiểm soát ngăn chận Việt Minh từ Mỹ Chánh Quãng Trị lọt về nên ruồng bố cũng diễn ra thường hơn. Chợ búa vắng hoang những ngày Tây đi ruồng. Đàn bà con gái tản mạn trốn ra Bàu Mây, Cồn Én, hay những nơi kín đáo trong làng. O Ngâu vẫn thường là người nhanh chân nhất cho đến một hôm, mãi bận rộn chuyện nhà khi nghe tiếng báo động ngó ra thì bóng bầy lính đã thấp thoáng sau bụi tre la ngà đầu ngõ. Nằm dưới gầm giường của mạ, o bặm môi điếng lên vì sợ, mắt căng nhìn từng bước giày đinh của tên lính lê dương xoáy nghiến trên nền gạch. Quá quen thuộc với việc bố ráp hàng ngày, chỉ vài phú sau gã lính đã lôi o Ngâu xềnh xệch ra giữa nhà. Hắn giựt tung hàng nút áo trong tiếng cười man rợ. O Ngâu nghiến răng, cắn nước mắt, quẩy đạp bàn tay thô bạo của gã lính người Âu đang cơn thú vật. Hình ảnh lớp học với bầy trẻ nhỏ ê a tiếng Pháp chợt quẩy vụt qua trí nhớ của Ngâu gần như cùng một sát na với âm thanh sắc gọn vọt ra từ lồng ngực thanh tân làm gã lính lảo đảo đứng lên. ?Ma lát ! Ma lát !?. Hắn kinh hoàng đứng nhìn vùng máu đỏ ối giữa thân người con gái trong một chớp mắt, rồi lẩm bẩm câu chưởi thề, tiếc rẻ bỏ đi.

Ngâu bò quay vào gầm giường, nằm cắn răng mà khóc cho tới khi mạ lật đật từ chợ chạy về.

Mụ Cửu ôm con, kinh hoàng khóc ngất.

- Không răng mô mạ. Hắn chưa làm chi con được hết.

Bà mẹ lau nước mắt, nhìn Ngâu dò hỏi, rồi chợt hiểu ra khi con gái vói tay lấy cái ống nhổ trầu đang nằm lăn lóc ở chân giường. O Ngâu ôm mạ mắc cở.

- Con nằm trốn dưới giường mạ, biết đường mô hắn cũng tìm ra, con sợ quá đổ đại nước trầu lên người. Khi hắn kéo con ra, con liều la tiếng Tây với hắn, rứa mà hắn tởm, bỏ đi.

Mụ Cửu lại ôm con, thăn thỉ khóc. Ngâu bấu lấy vai mạ, giọng o cũng nhão nước mắt.

- Con không chịu để cho hắn làm chi mô mạ ơi. Hắn mà làm được chi, con cắn lưởi chết liền.

Bà mẹ đở con lên giường. Bà pha nước hẩm lau rửa cho con từng phân vuông da thịt nỏn nường. Vết son con gái giữa vùng thân thể hồng non hàm tiếu. Mụ Cửu vuốt tóc con gái, yên bụng nói đùa.
- Mạ mi ! O lo mà lấy dôn đi cho rồi.
Mạ thắp nhang khấn vái bên bàn thờ cha, Ngâu bước ra đầu hiên nhà đứng nhìn trời chiều đang chuyển mưa. Từng cụm mây trĩu hơi nước ngập ngừng bay. Gió thổi ruồng qua rặng la ngà xao xác bầy lá tre khô rắc vàng phai xuống ngỏ. Ngâu tự nhũ đừng quên hứng nước mưa để sáng mai gội đầu lúc nàng với tay ngắt trái chanh bên bờ giếng.

Mùa Đông năm Ngâu mười chín tuổi, gió bấc thổi chạnh lòng con gái, làm se cau đôi mày nguyệt lộng và co ro dáng người đi trong năm cùng tháng tận. Mỗi sớm mai gió lạnh rợn rờn da thịt từ phía sông Ô Lâu thổi se sắt qua những dãy sạp hàng đã thức giấc từ lâu trước phiên chợ sớm. Hai mạ con mệ Cửu quang gánh rời nhà khi trời còn ướt đẫm sương đêm. O Ngâu mau mắn giúp mạ bày sạp hàng xén rồi bương bả về sạp bánh mứt của mình ở đầu chợ. Ngâu chăm chú làm việc, tay thoăn thoắt bày biện những bịch mứt đủ màu lên chiếc sạp gổ dài nhiều tầng. Chiếc áo len đan màu hoa cà khít khao theo tà áo dài ôm dáng người dong dỏng và khuôn mặt thanh tân với cặp môi cắn chỉ mọng hồng làm Ngâu có nét duyên dáng của một cô gái trong Huế hơn là một thôn nữ bên bờ Ô Giang.
Chợ Mỹ Xuyên những ngày giáp Tết rộn ràng người mua kẻ bán. Sau rặng cây tràm, mặt trời lên lấp lửng vừa đủ hun ấm sương mai đọng thành những giọt nước lóng lánh ở cuối mỗi sợi lá xanh dài đong đưa. Mới nửa buổi chợ mà sạp mứt kẹo của Ngâu đã vơi đi khá nhiều. Người nhà của dì Tứ bán bánh tét, bánh tày cạnh Ngâu cũng đã gánh thêm ra cho đủ bán đến trưa khi chợ vãng.
- Ngâu, có người đương đứng lén coi mặt mi đó tề! Tau thấy hắn lảng vảng từ ngày hôm qua mà quên nói cho mi biết.
Ngâu giật mình nhìn theo ánh mắt dì Tứ về phía góc chợ nơi hai người đàn ông trẻ tuổi, một cao một thấp, đang đứng đó tự lúc nào. O thẹn thùa quay mặt khi tia nhìn nàng chạm vào ánh mắt người thanh niên dáng người cao ráo đang chăm chắm nhìn nàng. Phải rồi, O có thoáng bắt gặp ánh mắt nhìn này đôi lần ngày hôm qua, nhưng chợ búa đông đảo tấp nập, O lại bận buôn bán không để ý tới. Ngâu giấu ý nghĩ mình.
- Dì thì khi mô cũng noái tào lao. Chợ Mỹ Xuyên ni cả trăm, cả ngàn người qua lại, hơi sức mô mà để ý tới.
- Hắn đương chấm điểm mi thiệt mà. Đó! Đó! Mi dòm cho coi. Thằng ni con cái nhà ai mà tướng tá, ăn mặc coi bộ không phải trai làng. Hay là con cháu ai trong Huế về ăn Tết ?
- Tui không dòm mô. Người chi mà ?mà cứ chằm hăm dòm người khác, không biết dị.
- Chết cha mi rồi Ngâu ơi ! Hắn đương đi tới đó!
Ngâu cúi đầu, tay lính quýnh sắp sửa những bịch mứt đã yên vị nằm thẳng hàng trên sạp trong lúc tai lắng nghe không sót đối thoại giữa dì Tứ và hai người thanh niên.
- Hai chú mua vài đòn bánh tét về ăn Tết hỉ. Bánh mới vớt, còn nóng ngon lắm.
Có tiếng cười nhẹ của thanh niên thấp người.
- Dạ, O lấy cho tui hai đòn. Còn ôn bạn tui đây thì đương tìm trứng mua về làm bánh ga-tô cưới vợ.
Người thanh niên kia lên tiếng phân trần.
- Vợ thì chưa biết chổ mô mà tìm, không biết mua trứng về để lâu quá có bị chi không O?
- Không răng mô. Trứng tươi để dành được lâu lắm. Chú rứa là tìm ra trúng chổ rồi. O bán mứt ni cũng có bán trứng nữa đó.
Tiếng cười mời của dì Tứ càng làm Ngâu quýnh quáng e thẹn hơn.
- Trứng ni bán ra răng đây O ?
Ngâu chớp mắt nhìn lên. Hai ánh mắt bối rối nhìn nhau chỉ trong một tích tắc mà Ngâu tưởng có cảm giác tê dại lạ lùng chi lạ khắp châu thân.
- Dạ, còn hơn chục trứng gà con so. Eng mua hết tui bán rẻ cho.
Người thanh niên nhìn rổ trứng, đôi mắt cười hiền mà ranh mãnh.
- Trứng đẹp lắm, nhưng mà làm răng tui biết được là trứng con so ?
- Dạ, trứng ni gà so ở nhà đẻ chớ không phải là trứng mua của bạn hàng.
Người thanh niên mua hết rổ trứng thêm vài ký mức sen đắt tiền. Anh ta đứng chăm chú nhìn Ngâu ngượng ngập gói hàng, đếm tiền, mà miệng thì cứ tủm tỉm cười làm Ngâu càng thẹn thùng. Lúc nhận gói hàng từ tay Ngâu, người thanh niên bất ngờ ghé sát người nói nhỏ ?O đẹp lắm mà răng người O chua quá !? ?. Ngâu sửng sờ, xấu hổ đến rụng rời, chỉ muốn được biến mất khỏi mặt đất để không còn ai nhìn thấy. Dì Tứ nhìn thấy nét buồn bực chợt hiện trên mặt Ngâu, dì thôi cười nghiêm tiếng hỏi.
- Hắn nói chi mà mặt mi ỉu xìu như bánh tráng nhúng nước rứa ?
Ngâu im lặng lắc đầu, O thẩn thờ suốt thời gian còn lại của buổi chợ. Trên đường về nhà, thấy vẽ mặt đăm chiêu buồn buồn của Ngâu, mệ Cửu gặn hỏi con mấy lần, nàng cũng chỉ lắc đầu không trả lời.
Suốt buổi chiều hôm đó, Ngâu cặm cụi nướng chùm kết pha chanh, kỳ cọ tắm gội, mạ phải nhắc O mới nhớ chưa nấu cơm tối. Sáng hôm sau, Ngâu lại tắm rữa rất lâu khiến mệ Cửu phải đi lượm trứng gà giúp con gái, rồi thúc giục mãi Ngâu mới chịu sẳn sàng quang gánh ra chợ.
Phiên chợ ngày cuối năm vội vã những người đi sắm Tết muộn để kịp về cúng Rước Ông Bà và đón Giao Thừa. Ngâu nhìn sạp hàng trống trơn mà trong bụng thì nôn nao lo sợ, nửa trông gặp lại người thanh niên, nửa muốn hắn đi mô thì đi biệt luôn đừng bao giờ quay trở lại mà nói năng ba trợn với nàng. Mặt trời vừa ló khỏi nóc rặng tràm thì cũng vừa lúc Ngâu thoắt nhìn thấy anh chàng xuất hiện. Ngâu lúng túng lấy rổ trứng giấu trong thúng đặt lên sạp gổ. Lần này người thanh niên chỉ đi một mình. Anh ta lại tới hỏi mua trứng, rồi cắc cớ vặn vẹo.
- Hôm qua trứng con so, bộ bửa ni trứng cũng còn so hay răng hè?
Nhớ lại câu nói sỗ sàng của người thanh niên ngày hôm qua, Ngâu quên cả mắc cở, dấm dẳn trả lời.
- Gà của tui là gà con so chẳng lẽ lại đẻ ra trứng con rạ. Eng muốn mua thì tui bán, không thì thôi.
Người thanh niên lật đật phân trần.
- Tui ra đây là để mua trứng của O mà. Rồi anh cười? Mặt O khi giận đẹp hơn khi vui gấp mấy lần.
Lúc nhận gói trứng, anh ta lại ghé người nói nhỏ ?O chua quá làm tui thèm muốn chảy nước miếng !?? O Ngâu háy anh chàng một cái dài thượt mà miệng thì mím chi. Mặt Ngâu hồng lên vì mắc cở, vì cảm giác nhẹ hẫng trút bỏ được nỗi lo lắng xấu hổ ấm ức trong lòng suốt đêm qua. Có chút tình cảm không tên mơ hồ nhen nhúm từ một lúc mô đó O chưa biết được. Hình như từ buổi chiều qua, khi Ngâu dội nước chùm kết pha chanh không chỉ lên mái tóc mượt dài mà lên khắp châu thân. Từng sợi nước rịn ràng bò loang lên phiến thân thể căng mọng xuân thì. O vừa biết mình có một xác thân để được vuốt ve trìu mến.
Đêm giao thừa Ngâu chợt biết mình vui. Hai mạ con lăng xăng nhang khói. Ngồi nhìn ánh nến vàng lung linh cháy, O nhớ tới hình ảnh quan viên hai họ, cô dâu chú rể chúc bái trong một đám cưới nào đó mà O đã chứng kiến từ lâu lắm ở mô đó. Ngâu nằm rúc vô người mạ, hỏi mơ màng.
- Người con thơm không mạ ?
Mạ vuốt tóc con mượt thoảng hương ngâu.
- Cái con ni, hôm qua tới chừ mi như người ở mô mô. Bông Ngâu không thơm thì còn chi thơm nữa hè ?
- Còn cái tên Tập Khánh cha đặt có nghĩa chi rứa mạ ?
- Cha mi chữ nghĩa cả bồ làm răng mạ biết được. Chắc là cái chi đó đẹp rực rỡ mà cao kỳ lắm.
Đêm rớt sâu vào giờ khắc tàn lụn của năm. Bếp lửa hồng bập bùng soi nồi bánh tét vừa chín tới, mùi lá chuối ủ hương nếp mới ngạt ngào. Ngâu ôm mạ mơ màng chờ giao thừa rồi ngủ khi mô không hay trong thấp thoáng mơ say rộn rã mùa xuân đang tới.

Mùa xuân ở Phong Điền năm đó đẹp vô ngần, rộn rã như lòng O Ngâu sắp sửa lấy chồng. Rằm tháng Giêng trăng sáng quá làm O không ngủ được. O đi vô đi ra dưới hiên khuya, O lục đục nấu chùm kết gội đầu, trăng chảy trên tóc mướt, trăng ướt nhột nhạt lên da thịt thơm ngần. Trời còn tinh mơ trên bến sông, cả một triều sương trắng lan mịn mờ mặt nước. Người trên bến đứng chờ mãi cũng chỉ ngóng được tiếng mái dầm ấp úng quẩy nước lảng đảng khi gần khi xa. Chờ tới thắt cả ruột bầy ghe từ bên tê sông Ô Lâu mới lần rải hiện ra trong màn sương trắng đục. Một chiếc, hai chiếc, rồi cả đoàn, mũi nốt khẳm nặng những thúng lớn chất đầy rau cải, bông cúng, và những buồng chuối chín vàng.
- Con Ngâu mô rồi hè? Xuống mà quảy chuối của mi lên tề !
- O Ngâu chui vô bụi ngồi nhớ dôn rồi.
Nhóm bạn hàng cười túa lên lúc Ngâu mắc cở bặm môi bước xuống nốt. Mà rứa thiệt. Gần nửa tháng ni Ngâu đương sống trong giấc mơ con gái đẹp tuyệt trần, như từ hồi sớm tới chừ O vẫn tư lự nhìn làn sương trắng trên mặt sông mà nhớ tới người ta.
Sáng mồng Ba Tết mạ khăn áo đi thăm bà con trong làng, chưa hết một tuần nhang đã thấy mạ xăng xái bước về nhà. Mạ thắp đèn bàn thờ, khấn vái, đứng ngồi không yên. Mạ nhai trầu chưa kịp đỏ đã nhổ têm miếng khác. Mạ lục đục lấy trong rương chiếc kiềng chạm. Cầm vàng trên tay, mạ ngồi ngó mông lung khoảng sân nắng la đà bóng tre trước sân nhà một hồi lâu rồi nhổ trầu kêu con gái.
- Chiều ni có người tới coi mắt con đó. Nhớ mà sửa soạn ăn bận cho đàng hoàng. Mược cái áo màu vàng để đeo kiềng vô cho hợp nghe khôn.
O Ngâu thoạt nghe mạ nói mà sửng sờ tim đập như muốn rớt ra ngoài. Ngâu bẽn lẽn cầm chiếc kiềng vàng, rụt rè hỏi ai rứa mạ.
- Nghe noái cậu nớ là cháu ôn Thất Trì. Mạ qua nhà dì Tứ mừng tuổi, mới bước vô tới trửa cươi đã thấy dì lật đật đi ra để qua nhà mình. Dì noái bà Thất Trì mới tới thăm, nhờ dì hỏi mạ để chiều ni qua thăm nhà xin coi mắt con Ngâu cho thằng cháu. Mạ chịu rồi, dì Tứ chừ chắc đương đi qua bên xóm côi cho họ hay rồi.
Ngâu bước ra sân nhà sau, rải lúa cho bầy gà, trong lòng O rộn rã nỗi xốn xang thiệt lạ lùng làm choáng ngợp nóng bừng đôi má. Mạ bước theo, cười vọng ra.
- Hai dì cháu mi biết cậu nớ là ai rồi còn làm bộ hỏi tau. Dì Tứ noái hắn tên Trình, cha mạ ở Bao Vinh nhưng mần việc chi đó cho nhà nước ở gần Phá. Bà Thất Trì khoe với dì Tứ cậu Trình chử nghĩa còn nhiều hơn cả ôn mi nữa, đậu tới bằng ri-me rồi đó.
O Ngâu nhớ tới dáng người thanh niên cao ráo, ăn mặc kiểu thành phố, quanh quẩn ở góc chợ chờ chực nhìn nàng suốt ba ngày cuối năm. O không biết mình đương tự hỏi lòng hay phân vân hỏi mạ.
- Trong Huế thiếu chi đàn bà con gái, họ tới coi mắt con làm chi mạ?
Mệ Cửu nhìn Ngâu tưởng như thấy lại mình hơn hai mươi năm trước. O Thỉ, cô gái làng Vân Trình qua Mỹ Xuyên buôn dầu tràm. Ông giáo làng đạo mạo trong áo the khăn đóng đứng nhìn O suốt mấy buổi sáng liền trên bến sông rồi nhờ người mai mối. Rứa là O Thỉ qua sông về làm dâu Mỹ Xuyên từ đó, nuôi chồng, nuôi con, bận bịu buồn vuỉ
Duyên nợ hết Ngâu ơi. Con gái lớn thì lấy chồng. Phận gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu? nhưng mạ biết con mạ sẽ về nơi gạo trắng nước trong. Ngâu khóc.
- Lỡ mai mốt đây con lấy chồng xa tuốt Bao Vinh, theo chồng xuống Phá Tam Giang, rồi mạ ở với ai?
Mệ Cửu la át con mà giọng nhão ướt, vỗ về.
- Xa gần chi rồi cũng phải qua một con sông. Vân Trình, Phước Tích, Bao Vinh, Mỹ Chánh, Sịa, Sình?xa gần chi rồi cũng phải theo chồng. Mi lo cho cái thân mi đi tề. Mà răng, có ưng khôn? Ưng thì tau gả, khôn thì cứ ở đó mà lỡ lứa lỡ thì, khôn ai vô đó mà lo cho được mô.
- Dạ ưng. Ngâu lau nước mắt, cười với mạ.

O chưa hay biết chi cuộc đời trước mặt, chỉ biết mình đang vui. Ngâu mở lòng hứng lấy hạnh phúc trào tới như mưa xuân trổ hoa trên cánh đồng Mỹ Xuyên loáng nước.
Tháng Ba, ngày Ngâu về nhà chồng mưa nghiêng nhòa bến sông, nước mắt vu quy nhớ mẹ cũng như mưa đẫm nhòa má hồng O sắp qua rồi một thời con gái.
Những ngày chưa-kịp-làm-dâu ở xóm Bao Vinh ngỡ ngàng qua mau. Người cha chồng gốc gác ở Phò Trạch, chất phác cục mịch như hòn đất suốt ngày bận rộn với công việc ở trại mộc dựng dọc theo sông. Miệng ôn lúc nào cũng bập phà điếu thuốc rê mụ Cửu Ới gắt nồng. Mạ chồng của Ngâu đã qua đời vài năm trước, cũng may cả ba người chị chồng hiền lành tuy có gia đình vẫn ở kề cận cha. Ba đứa học trò ưng ý nhứt của ôn Thợ Vĩnh đều được gã con gái cho và làm ăn chia ở trại mộc đóng ghe với ôn.
Ngâu lạ mắt với khu xóm Bao Vinh đất thấp lè tè như ngang với mặt nước sông. Mỗi lần chiếc đò khẳm khách đi Kế Môn, Đại Lược chạy ngang O có cảm giác nước từ phía bên Hàng Bè chồm sang như muốn phủ chụp lấy con đường lót gạch đỏ mòn trủng quanh co giữa hai dãy nhà san sát dòm nhau.
Ngày vợ chồng xuống đò dọc theo sông Bồ về Phá, Ngâu cảm động ôm một giỏ đầy áo quần mà ba người chị chồng đã giành nhau mua ở chợ Đông Ba cho O. Người chị cả thân tình dặn dò cô em dâu mới.
- Em ráng lo cho cậu Đấy (đái) miếng ăn miếng uống. Mấy năm ni cậu uống quán ăn chợ, bông lông ba la, người ốm như cây tre. Cậu nớ cưng O lắm đó, ráng mà giữ nhau.
Cả nhà theo tiễn ra tận bến sông. Người chị út nói nhỏ vô tai Ngâu ?Cóc mở miệng? khi ôn Thợ Vĩnh nói với con dâu.
- Trà ngâu con đem về thơm lắm, nhớ nhắn ra Mỹ Xuyên mua thêm cho ba. Vợ chồng bây ráng mà đẻ bầy cho ôn nội mau có cháu bồng.
Ngâu chợt khóc khi bước xuống đò. O nhớ mạ khi thấy bóng mình lung linh, trong veo bến nước Bao Vinh.
Cuối mùa Xuân mà nhiều cây mai trắng dọc theo sông Bồ còn giữ bông trên cành. Dòng hoa ẩn hiện nhấp nhô theo triền nước, màu trắng lướt thướt theo nhau như dải lụa huyền ảo trong nền xanh của cây lá đất trời.
Nhớ tới lời dặn dò của người chị chồng, Ngâu chợt nhìn Trình cười thú vị.
- Hồi sáng đứng nghe chị Thuyên dặn dò tui mới biết tên kêu ở nhà của người ta. Ai có tật thì giật mình một cái đụi đi.
Trình lắc đầu cười.
- Cái mụ nớ thiệt. Năm sáu năm trước có mạ làm chứng, mụ đã thề độc không khi mô nhắc tới cái tên nớ ra nữa. Lỡ đái mế có một lần hồi còn nhỏ xíu mà cái tên quái ác cứ theo mình mấy chục năm nỉ Mà chị Thuyên dặn chi rứa?
- Dặn ráng nuôi eng cho mập lên, chớ chừ giống cây tăm tre quá.
- O có nhớ là người O chua lắm không? Chảy nước miếng theo O hoài, tui quên ăn quên uống, người ốm o gầy mòn, thì O sẽ bị mang tiếng lắm đó nghe.
Ngâu lườm chồng. Lòng O rộn rã hạnh phúc như dòng sông tinh khôi trước mặt.


Tổ ấm của đôi vợ chồng son là ngôi nhà nhỏ nằm kín đáo sau dãy rào trồng chè tàu vừa được tỉa xén gọn gàng. Mái ngói âm dương phủ rêu phong dưới bóng mát tàng cây ngô đồng xanh lá. Tuy đã mãn mùa Xuân mà trên cành vẫn còn vài chùm hoa phơn phớt nhạt như khói hồng lắt lay theo gió từ phá Tam Giang thổi lên.
Từ gần tháng nay O Ngâu bận rộn luôn tay, dọn quét sửa sang lại cái ?ổ chuột của ôn Trình?. Mấy vồn rau lang ở khoảng sân nhỏ sau nhà vừa đâm những tược lá màu tím, ngo ngoe dài vui mắt. Từ hiên nhà O Ngâu có thể đứng nhón thấy một phần Phá phía khơi xa ẩn hiện sau rặng cây bên kia đường. Trời với nước quyện vào nhau, chìm lắng một màu xanh thẳm tưởng như bất tận nếu không có dải bờ ngút mắt như vệt chân trời chia cắt đầm nước với biển Đông. Khu xóm nhỏ nằm bên con đường nối hai cửa sông Bồ và Ô Lâu, chừng hơn giờ xe đạp từ nhà về Ngã Ba Sình nơi Trình làm việc về tiếp liệu cho một đơn vị quân nhu Pháp. Khoảng đường đủ xa để anh không về nhà vào mỗi buổi trưa.
Những ngày hạnh phúc êm đềm trôi như lòng O Ngâu rộn ràng theo từng tiếng cười vui của chồng vào mỗi buổi chiều trở về nhà. Tiếng chiếc xe đạp dựng hấp tấp đụng vào cánh cửa sổ hiên ngoài là âm thanh dịu êm như tiếng chuông gọi trở về vẫn thánh thót gõ nhịp lòng O.

Một buổi trưa, Ngâu vo gạo xong vừa bắc lên bếp thì nghe tiếng xe đạp của chồng. Trình dựng xe, hối hả đóng hết cửa nẻo, xuống bếp tìm vợ. Anh ngồi bên vợ thì thầm, chỉ thấy O Ngâu lắc đầu quầy quậy.
- Không được mổtrời sáng trưng, dị òm.
Trình yên lặng ôm vợ dìu về phía buồng ngủ. Trong gối chăn bao bọc, mắt nhắm nghiền mê đuối cho đêm bất chợt phủ vây. Cảm giác chạm lên từng phân li da thịt như nở ra theo từng cơn sóng dập dồn, rị kéo đôi bờ chân thuông dang xa vật vã cuống vùi. Ngâu như chìm lịm trong tiếng thét gào của sóng của gió của nước từ đầm phá ngoài kia thổi luồng qua buồng the, qua những ngón tay bấu chặt, môi trào tên gọi? Im vắng chợt rụng về theo cơn bão lặng. Ngâu khỏa thân nằm cuộn mình trong chăn chiếu, mơ màng lắng nghe đóa hoa hạnh phúc mãn khai rụng cuốn rịn ràng rơi trôi theo dòng thân xác. Âm ba réo vọng của sóng nước trào dâng ngoài phá chừ cũng im lắng, để lại vang vang trong nàng sau đôi mắt nhắm giọng nói dập dồn hơn hơi thở như đỡ nâng Ngâu thành một người mới cho thẹn thùng trở giấc. Mạ mi bưa chưa!? Mạ Ngâu mi bưa chưa !? ? Ngâu chợt nghe mình bẽn lẽn lặp lại câu nói của chồng lúc O bước dưới tàng cây ngô đồng trong sân nhà nhìn theo Trình. Dáng chồng đạp xe dọc theo phá Tam Giang trong gió ngược về phía cửa sông Bồ, thấy thương chi lạ? Người chi mà không biết trẻn, chưa chi hết đã kêu người ta Mạ Ngâu.
Mạ Ngâu thương chồng, eng răng tui rứa, nên câu hỏi của chồng mãi hoài vẫn chưa được trả lời cho hương lửa càng thắm thiết mặn nồng suốt mười năm ở Phá và biết bao năm sau đó bên tê đèo Hải Vân.

Một buổi chiều cuối mùa hè, gió Lào thổi rần rật qua dãi đất một thuở Hóa Châu xưa làm rát mặt người. Cơn gió nóng như lửa tràn lướt qua mặt phá im lìm soi bóng khoang trời không một bóng mây chìm. Mạ Ngâu bụng đã lùm lùm đứa con đầu lòng theo chồng đi dạo dọc theo bờ phá hóng chút hơi nước mát từ biển. Sự xuất hiện đột ngột của gã lính Tây say khướt đang bước quàng xiêng theo bờ nước khiến Mạ Ngâu hoảng sợ trong giây phút. Có chồng cầm tay trấn tỉnh, Mạ Ngâu nhìn tên lính viễn chinh và nhận ra nét mặt thú dử mà nàng vẫn nhớ như in những lần nằm chộ giữa đêm. Mạ Ngâu bương bã đi mau nhưng rồi bổng nhiên quay lại nói với chồng.
- Eng ôm thằng Tây ni lại cho tui đập hắn một trận.
Nhìn ánh mắt vợ, Trình chẳng cần hỏi han vội đi tìm bẻ một nhánh cây đưa cho vợ rồi ôm vật gã lính say mèm nằm sấp trên cát. Mạ Ngâu đập túi bụi tên lê-dương rồi bỏ chạy tới dựa lưng vào một cây dương đứng thở dốc. Trình dìu vợ ngồi xuống bên mình, cười hỏi.
- Mạ Ngâu mi đập mà hắn say như chết rứa thì có ăn thua chi mô?
- Răng không ăn thua. Đập cho hắn tởn không dám vác mặc lên Mỹ Xuyên phá phách nữa, cho đàn bà con gái trên nớ nhờ.
Mạ Ngâu kể cho chồng nghe chuyện rủi mà may thoát khỏi tai họa một đời mấy năm trước đó.
- Chừ thì tui yên bụng rồi, hết phải nằm
thấy cái bản mặt dơ dáy của hắn. Vợ chồng yên lặng ngồi bên nhau nhìn hoàng hôn buông trên mặt nước đang chuyển sang màu tím lặng pha hồng. Đêm xuống mau thả chiếc khăn choàng đen lên mặt phá bất chợt mênh mông. Họ trở về nhà, chân bước cũng nhẹ như lòng.

Cuối năm đó Ngâu về nhà mạ đẻ con so. Mệ Cửu khoe khắp chợ thằng cháu ngoại đầu của mình. Cả nhà trong Bao Vinh tíu tít ra Mỹ Xuyên thăm cháu. Đôi bàn tay to lớn thô tháp của ôn Thợ Vĩnh chuẩn xác khéo léo với cưa đục bao nhiêu thì càng vụng về lúc bồng ẳm thằng cháu đích tôn bấy nhiêu. Ôn cha trẻ Trình thì mỗi cuối tuần đều đếm từng giờ từng phút để tìm cách ra làng thăm vợ con.
Ngôi nhà bên phá rộn ràng với tiếng khóc trẻ thơ. Lại càng rộn ràng hơn những năm sau đó. Mạ Ngâu đẻ sai như bầy gà của mạ thời con gái, ba năm hai đứa ra đời đều đặn vuông tròn. Mỗi lần tết lễ, giổ chạp về làng, nếu Mạ Ngâu không bụng mang dạ chửa thì cũng ẳm con mới sinh, theo sau là bầy con xinh lẳm đẳm chạy theo mạ. Cái nồi nấu bánh tét thời chỉ hai mẹ con hôm sớm trở nên quá nhỏ cho bầy cháu ăn như giặc, đêm giao thừa Mệ Cửu nấu bánh ngoài sân trong cái thùng tôn lớn, lửa cháy bập bùng nổ lách tách chia huyên náo với bầy trẻ nhỏ lao xao nói cười. Những lần cả nhà ngược sông Bồ lên Bao Vinh thăm nội, không nghe ôn Thợ Vĩnh nhắc chi tới lần nhắn con dâu ráng đẻ bầy cho ôn ẳm. Ôn bồng đứa cháu nhỏ nhất, gọi mua kẹo kéo cho cả bầy cháu nội ngoại, nhiều quá đếm không xuể.
- Tụi bây ở mô ra mà loi choi như giòi ôn đếm không ngạ, bồng muốn lọi cả tay.
Mười năm theo chồng về Phá Tam Giang. Hình ảnh o thôn nữ dịu dàng bên dòng sông Ô Lâu ngày nào đã son sắt dãi dầu thành Mạ Ngâu tần tảo nuôi con, lo cho chồng hôm sớm.
Những rợn sáng tinh mơ, rời nhà lúc trời còn đêm, tất tả ra bãi phá chờ cho kịp ghe lưới về, mua bán sang tay kiếm chút lời và rổ cá cho nhiều miệng ăn trong nhà. Nồi cá nục chuối thơm cay ăn mau cho kịp hít hà hay khạp mắm thu luôn sẳn đó cho bầy con háu đói. Những vồn lang xanh mướt khoảng vườn sau nhà vẫn mùa theo mùa tốt củ . Bầy gà vẫn đẻ sai trứng, không còn cần thiết cho cha mạ mua mớm duyên nhau mà cho cha-con-bây lạ miệng.
Mười năm. Mạ Ngâu đã nhiều lần ngược Ô Lâu về thăm mẹ già nhưng có một lần Mạ Ngâu khóc suốt chuyến đò làm bầy con ngơ ngác khóc theo và ôn Trình mắt cũng đỏ hoe. Vợ chồng thỉnh bàn thờ cha mạ về nhà, không có con trai thôi thì lấy rể làm trưởng nam cũng thuận chiều hương khói. Vài năm sau, không lâu sau ngày ôn Thợ Vĩnh và ba người con rể bỏ gần một tháng Giêng chèo chống cây gổ xuôi sông Bồ về Phá giúp con trai sửa sang ngôi nhà đã trở nên quá nhỏ cho bầy cháu lớn như thổi, ôn nội cũng qua đời. Những đêm rằm trăng soi tỏ mặt phá, trầm nhang nghi ngút trên bàn thờ có thêm hương linh bài vị mới trang trọng như một từ đường. Mạ Ngâu trồng một hàng bông ngâu trước nhà để vong linh ôn có về uống trà mà ngửi cho thơm.
Mười năm, mấy lần tản cư chạy giặc tránh bom. Chồng mắc việc công không về kịp. Vả lại Mạ Ngâu cũng không muốn chồng rủi gặp chuyện hiểm nguy. Nhớ lỏm bỏm lời cha lúc sinh tiền, Mạ Ngâu nói chử.
- Ôn mi cứ an tâm mà lo chuyện thiên hạ sự. Ở nhà mấy mẹ con tui xoay trở được. Ôn về xớ rớ Việt Minh thấy được càng mệt thêm.
Như thời còn con gái, Mạ Ngâu luôn quán xuyến, thúc hối hàng xóm, rồi lẹ làng tản cư sớm hơn ai hết.
- Lo mà chạy cho rồi. Ngồi đó mà phân biệt máy bay Tây với máy bay Mỹ. Chiếc mô cũng ở ngoài biển bay vô, chờ thấy hắn rà rà trên phá thì chạy vô hầm cũng không kịp chớ đừng nói chuyện chạy về Sình hay Bao Mỹ.
Đặt hai con nhỏ ngồi vô hai thúng lót sẳn áo quần, niền thúng tòn teng son chảo, Mạ Ngâu rảo chân gánh đi, miệng không ngớt dặn dò vỗ về các con lớn đang hớt hải chạy theo, vai đứa nào cũng quấn quanh cái ruột tượng dồn gạo cơm mắm muối.
- Nhớ cầm tay nhau, chạy theo sát mạ để khỏi bị lạc. Xuống tới chợ Sình, cha ra đón, mua kẹo kéo tha hồ mà ăn.
Trình thấp thỏm chờ vợ ở cửa sông Bồ, ôn mừng như tìm được vàng khi thấy bầy mạ con dẫn đoàn người tản cư mệt nhọc gánh gồng đi dọc theo bờ phá . Cha lấy nước sông lau sạch mặt mày lem luốc của bầy con. Lúc ôn ân cần vuốt tay lên má vợ chùi những giọt mồ hôi đọng ướt bờ tóc mai, mặt Mạ Ngâu ửng hồng lên không biết vì mắc cở hay vì ánh nắng mặt trời.
- Ôn nỉ dị òm. Con đứng cười tề.
Ôn Trình quay nhìn bầy con đương đứng chăm chăm dòm cha mạ.
- Đứa mô cười hở mười cái răng.
Bầy trẻ con được ngồi quán ăn cơm chợ, mút kẹo kéo, mừng quên hết mệt bắt đầu cười nói bi bô.
Chiến trận qua đi. Những chiếc phi cơ thả bom của Tây của Mỹ bay biến dạng ra biển, trả êm đềm lại cho bầu trời xanh của phá. Đoàn người hồi cư lại gánh gồng trở về nhà, chôn cất, sửa sang, bương chải, sống còn.
Mạ Ngâu vẫn sống cho con cho chồng. Từng ngày, từng buổi sáng tinh mơ sè sẹ mở đóng liếp cửa sợ chồng con thức giấc, ra phá bán mua. Có thể gã lính Tây bị mạ đập bên bờ phá đã theo đoàn quân viễn chinh rút về nước một sớm mơi mô đó lúc chân mạ còn đứng dầm trong nước Tam Giang giữa tiết tiểu hàn chờ ghe cá từ biển về. Biết ra, mạ mừng vì con gái mình đương lớn. Có thể đất nước bị ký kết chia đôi một buổi trưa mô đó khi mạ đương ngồi xắt khoai phơi khô cho những ngày thiếu hụt. Biết ra, mạ nhớ hèn chi lâu ni không còn thấy mấy ôn Việt Minh về. Mạ bâng khuâng không biết bây chừ họ đói no ấm lạnh ra răng ngoài nớ.
Ôn Trình vẫn công việc cũ bận rộn hàng ngày, chẳng có chi khác ngoài cái danh xưng, lương tiền vẫn ba cọc ba đồng.
Cụ Diệm về chấp chánh, rồi trưng cầu dân ý, ?xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ bì?. Hai ôn, ôn mô mặt mày cũng phúc hậu. Ôn vua lại có bà hoàng hậu nghe nói nhan sắc khuynh thành nên ngày đi bầu xanh đỏ chi Mạ Ngâu cũng bỏ vô bì.
Ôn Trình được đồng hóa vào quân đội cọng hòa, cho mang lon Thượng Sĩ. Ngày đầu ôn mặc bộ đồ lính mới mang lon về nhà, cả bầy con bu lại hảnh diện trầm trồ. Bửa cơm trưa hôm đó, ngoài canh rau, mắm ruột cá thu, Mạ Ngâu đãi ôn Thượng Sĩ và bầy con dĩa trứng đổ chả to gần bằng cái mâm. Mờ sáng hôm sau, lúc đứng chờ ghe cá về, bạn hàng trong lúc chuyện trò, có người hỏi bông đùa.
- Mụ Ngâu bửa ni là bà đội rồi, còn dầm nước với chị em tui nữa làm chi?
Mạ Ngâu cười.
- Phải dầm để kiếm mắm về nuôi cha con ôn đội chớ biết làm răng chừ.

Chừng một năm sau, ôn Đội Trình có lệnh thuyên chuyển vô Đà Nẳng. Từ trên đỉnh đèo Hải Vân sương phủ nhìn xuống, Vịnh Hàn trong nước tiếp mây thấy càng hùng vĩ hơn Phá Tam Giang. Lòng Mạ Ngâu chợt nguôi ngoai nỗi buồn xa quê một cách lạ lùng. Trước thiên nhiên bao la mà đằm thắm, tay chồng trên vai và bầy con quấn quít bên mình, Mạ Ngâu vui lòng với hạnh phúc đang có và yên tâm với tương lai trước mặt. Ngôi nhà có khoảnh vườn nhỏ gần bải biển Thanh Bình là cơ ngơi mới vợ chồng lại nối tay nhau gầy dựng. Hàng bông ngâu bứng từ nhà cũ bén rễ đưa hương, những đọt lang mau mắn trổ vòi bò tím vồn đất mới cho bầy gà từ Tam Giang còn lạ cảnh hốt hoảng lạc tìm nhau. Ở đây, những ghe chài cá đầy lòng khoang cũng từ khơi xa trở về lúc ngày chưa rợn sáng nên với Mạ Ngâu việc còn lại là gắng tìm ra mối bán mua. Chẳng bao lâu những bạn hàng xuề xòa người Quảng từ các chợ quanh đó nhiều người trở thành thân quen với Mạ Ngâu. Các con ở tuổi đi học, trường lớn bạn bè đông nên chúng mau quên ngôi trường làng nhỏ bé bên Phá Tam Giang.
Ôn đội Trình vẫn giữ tật thỉnh thoảng hấp tấp ghé nhà vào những buổi trưa trên chiếc xe mô-bi-lét cũ. Mạ Ngâu mi bưa chưa !?... Rứa là mỗi năm Mạ Ngâu lại bận bịu hơn trong chuyện sinh nở nuôi con.
Trong những năm này, chiến tranh lại bắt đầu tái diễn, rồi ngày càng trở nên ác liệt hơn. Tây đi, Mỹ tới, thanh niên miền Bắc thì Cọng Sãn quăng vô lò lửa chiến tranh, sanh Bắc tử Nam, miền Nam thì động viên đôn quân cố gắng giữ lấy cuộc sống tự do nơi thành thị. Mạ Ngâu sinh đứa con thứ mười hai được hơn một năm thì tai họa ập tới với gia đình như hàng trăm ngàn gia đình khác ở Huế và trên khắp cùng đất nước. Vào những ngày giáp Tết Mậu Thân, ôn Trình vừa lên lon Thiếu Úy không lâu trước đó, nhân dịp đi công tác ở Huế đã xin nghĩ phép, ở lại thăm bà con và viếng mộ cha. Trong thời gian ngắn ngủi Cọng Sản chiếm đóng thành phố Huế, ông thiếu úy già đã bị bắt từ nhà người chị ở Bao Vinh và bị chôn sống tập thể cùng hàng trăm người khác tại Bãi Dâu. Ngày Mạ Ngâu tìm ra xác chồng, bà khóc cạn nước mắt. Đưa xác về quê chồng ở Phò Trạch chôn cất xong Mạ Ngâu nuốt nước mắt, xốc lại khăn tang áo chế về nhà. Mạ Ngâu nhuộm răng ăn trầu, áo vải tang thô lặn lội thân cò tần tảo nuôi con. Người con trai lớn bỏ học đi lính, ra trường sĩ quan xin ra phục vụ ở Sư Đoàn I, đóng quân gần vùng hai quê nội ngoại. Các cô em gái kế, kẻ làm ngân hàng người là cô giáo, cũng lần lượt lấy chồng lính. Ngày trước chỉ một người cha là sĩ quan, nay rể con trong nhà ?năm thằng, trên trời dưới nước chi cũng có?.
Cuối năm bảy tư, Mạ Ngâu cưới vợ cho con trai lớn. Mạ khấp khởi mừng thầm sắp tới ngày có cháu nội ẳm bồng thì cuộc biển dâu trào tới như hồng thủy cuốn phăng đi tất cả mọi ước mơ dự tính. Ngày cuối tháng Ba năm bảy lăm, thành phố Đà Nẳng giữa buổi sáng mùa xuân se lạnh bị nung chín trong kinh hoàng tột độ. Cả nhà ngồi quanh Mạ trên chiếc duyên đỉnh của người con rể Hải Quân di tản vào Sài Gòn. Bãi Mỹ Khê xa vời những vệt xám dọc theo bờ cát vương vãi nắng chiều. Hàng dương ủ rũ cúi đầu chắn hướng nhìn về phố. Thành phố Mạ ắp đầy kỷ niệm hạnh phúc bên chồng, bận bịu lo toan để bầy con sống những ngày tuổi thơ êm đềm. Lòng Mạ là bãi sương giăng. Sương lan qua vịnh biển Thanh Bình, qua đỉnh Hải Vân, rồi sa thành nước mắt đẫm ướt khung trời Phá Tam Giang. Sương lan bời bời giòng nước ngược Ô Lâu, bơ vơ mộ chồng, điêu tàn quê cũ.
Đoàn tàu đi về phương Nam, phân vân bờ bãi. Từng tỉnh lỵ miền Trung lần lượt thất thủ như những con bài buồn bã quỵ vào nhau cho kịp hết một mùa xuân u uất.
Buổi sáng cuối tháng Tư, trời Sài Gòn âm u cơn mưa nhẹ như sương, rưng rưng dấu vết thời gian điêu tàn của sự chung cuộc. Một chấm dứt não lòng, Mạ trào nước mắt. Ngồi giữa bầy con trên bong tàu buồn bã lao đao triền sóng, lòng Mạ đành đoạn từ đây? âu sầu theo từng cơn chớp biển mưa nguồn.

Hơn ba mươi năm. Phố suối Snoqualmie là chốn lưu cư, là Huế của Mạ Ngâu. Mưa ở đây cũng xanh như lá vườn cây thành Nội. Như hi vọng vỡ mầm đắp đổi lòng Mạ suốt đời canh cánh bầy con vẫn mãi bé thơ như những đọt lang tím vườn sau ngôi nhà hạnh phúc đầu đời bên Phá Tam Giang. Mạ ở với đứa con nghèo nhất cho bầy anh chị em vẫn đùm bọc thương nhau. Mạ dắt dìu dâu con những lần đi biển mồ côi. Tiếng khóc dạ đề của cháu sơ sinh nghe cũng vui như tiếng cười. Mệ giành thức đêm để mình mệ ru cháu. Tiếng ru con bên phá, bên bờ vịnh biển ngày nào chừ ru cháu êm đềm giấc ngủ, hấp háy bà-mụ-bắt mắt môi cười. Ru em cho théc cho muồi. Để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu. Mua vôi chợ Quán chợ Cầu. Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh?
Quen mắt từ thời còn trẻ, Mệ Ngâu thức giấc rất sớm mỗi ngày. Trong tiếng mưa rơi gõ nhịp bồi hồi kỷ niệm, Mệ ngồi nhớ mùi bông ngâu trước sân nhà ở Phá Tam Giang, ở bãi biển Thanh Bình. Mệ nhớ đêm trăng tỏ trên Phá, nhớ ánh đèn xe chớp tắt trên đèo Hải Vân xa vời như sao sớm khi đứng nhìn từ bên ni bờ vịnh biển. Mệ sụt sùi nhớ mộ phần cha mạ, nhớ mộ chồng quê xa tuốt bên tê biển.
Những giòng mưa trắng lịm trên Phá vẫn còn bay mãi qua năm tháng về rơi trên phố suối Snoqualmie. Còn cơn mưa ước vọng của Mệ được về nằm chết bên chồng thì có ai hay?


Phan Thái Yên


Mục Lục


9. Hạ Vàng Ươm Nắng


Hai Hùng SG


Hàng năm cứ vào những ngày cuối cùng của niên học , các em học sinh khắp nơi mỗi người một Tâm trạng , em thì cố gắng viết vội cho xong cuốn nhật ký , chuyền tay nhau cho bạn hữu ghi lại những tình cảm thân thương trước khi luyến lưu chia tay tạm biệt , có em thì háo hức chuẩn bị cho tháng ngày nghỉ hè êm ả ở một vùng quê nào đó , và không ít Thí sinh tiếp tục Vật lộn với sách bài cho kỳ thi chuyển cấp học , lúc này cũng là lúc những cây Phượng Vĩ lại cùng nhau khoe sắc thắm bên cạnh lũ ve sầu cùng cất tiếng rên rĩ khúc nhạc nĩ non , còn những ai đã xa rời bảng đen , phấn trắng cũng không khỏi bùi ngùi của một thời Nhất Quỷ nhì Ma thứ ba ....đích thị là lũ Học trò của mọi thời .


* * *


Ngôi trrưòng Tiểu học nơi chúng tôi mài đủng quần trong thời niên thiếu đây rồi , cũng những cây Phưọng vĩ giờ đây nếu mà tính theo tuổi đời thì đáng để chúng tôi gọi bằng ? Cụ ? cũng nên , vì các ? Cụ ? đã hiện diện rất lâu trong sân trường bên cạnh những ? Cô ? dây Trầu Bà được trồng trong cái bóng đèn tròn sau khi không còn tỏa sáng , thì nay được tiếp tục làm đẹp cho đời nó được treo lũng lẵng trang trí nơi hành lang của lớp , và nghe đâu lúc tuổi thiếu thời thế hệ Cha anh chúng tôi đã ít nhất một lần khắc lên thân của các ?Cụ ? Phượng Hồng kia những dấu ấn chứng minh cho thế hệ đàn em biết đây là nơi ươm mầm tri thức buổi đầu đời cho họ và cũng để khắc lại nỗi nhớ khi vĩnh biệt nùa hè khiến Da thịt các ? cụ ? chi chít vết thương theo tuổi đời chồng chất .

Thấy chúng tôi đứng Tần ngần đứng trước cổng mái trường năm xưa , một cậu bảo vệ trẻ măng từ bên trong vội vã đi ra và cất tiếng hỏi :

- Dạ ! Mấy bác cần việc gì ạ , cháu có thể giúp được gì cho mấy bác ?. Hiện giờ Trường cháu đang Nghỉ Hè ....

Như sợ chúng tôi đến Trường để Cầu cạnh việc chạy trường cho con cháu như nhiều người từng làm nên cậu bảo vệ chưa biết Ất Giáp gì đã vội rào trước , đón sau bằng câu nói :


-Trường Cháu đang nghỉ Hè .

Hơi Phật ý bởi cái sự hấp tấp của cậu bảo vệ nhưng không lấy đó làm giận nên ông Xuân ,tên đầy đủ Mai Hữu Xuân ( đây là tên cúng cơm của thằng bạn rất thân với Tôi , chúng tôi học chung từ lớp Năm cho đến Trung Học , nó lại trùng tên với một vị Tướng Cảnh Sát của Nền đệ nhị Cộng Hòa ) Xuân ôn tồn :

- Cậu em ơi ! Mấy bác biết trường đã nghỉ hè nên mấy bác mới đến đây , mấy bác là cựu học sinh của trường mình , lâu rồi mấy bác mới có dịp trở lại thăm trường xưa .

Dường như thấy sự bộp chộp không đúng chổ của mình , cậu bảo vệ đổi giọng :

- Dạ xin lỗi các Bác ,do phần lớn phụ huynh hay đến để chạy chọt cho học sinh , nên cháu có nhận xét không đúng , mong các bác bỏ qua , các bác cần gì ạ !

Bà Nhàn , một đồng môn trong nhóm chúng tôi đở lời :

- Cậu có thể cho mấy bác vào thăm lại nơi mình học lúc còn bé được không nào? Mấy bác bảo đảm không làm hư hỏng gì của trường lớp đâu , có gì thì chúng tôi sẽ...

Không để bà Nhàn trình bày hết ý , cậu bảo vệ nhanh nhẩu nói :

- Dạ việc này cháu giải quyết được , gì mà hư với hỏng , đền với bù mấy bác ơi, trước đây có nhiều học sinh cũ ghé lại thăm trường , chủ trương nhà trường hân hoan đón mừng mấy cô bác như thế này ... Mời các bác ...

Cánh cổng to đùng được người bảo vệ mở ra , nhóm người chúng tôi mừng rỡ qua thái độ hiếm có của cậu bảo vệ , vì có một số người thực thi công vụ ở quê nhà , họ hay thể hiện cái uy quyền thay vì phải có thái độ phục vụ đúng nghĩa của người công bộc đối với đồng bào .

Cảm ơn anh bạn trẻ tốt bụng này , khi vào trong sân trường bao nhiêu hình ảnh của ngày xưa nó lần lượt ngồn ngột hiện về ...

Một sáng nọ , khi tiếng trống trường vừa điểm , học sinh ùa vào lớp , thấy dáng cô Hương vừa đi vào , tức thì tiếng của thằng Cao Trí Hùng lớp trưởng hô to :

- Tất cả ... Đứng lên . Thưa cô mới đến ạ !

Cả lớp đứng lên cuối đầu chào khi cô Hương vào lớp , đến chiếc bàn trên bục giảng , đưa mắt quan sát một vòng lớp học cô khoác tay và khẻ nói ;

- Các em ngồi xuống ! Hôm nay sau khi cô điểm danh xong , thì cô sẽ gọi các em lên trả bài , mà cô nhắc lại lần nữa , bài học hôm nay lớp Nhất một của mình khi trả bài thì không cần các em đọc vẹt như mọi lần , cô sẽ đặt câu hỏi các em trả lời theo ý , không cần đọc thuộc lòng , các em rõ chưa nào ?


- Dạ chúng em nghe rõ !

- Nè Nhàn ! Tui quên tập ở nhà rồi , đưa mượn chép bài liền , lỡ chút nữa cô kêu tui lên bảng mà không có bài chắc cô cho tui thụt dầu hai chục cái luôn đó .

- Em Xuân đứng lên cô bảo , cô đang dặn dò sao không chú ý mà lo nói chuyện , đâu ai nói với Xuân tự gíac đứng lên luôn cho cô xem .

Với vẻ mặt bí xị thủ phạm vừa bị cô bắt quả tang hắn rụt rè đứng lên , còn nạn nhân bị vạ lây cái lỗi ngoài ý muốn cũng đứng lên nhưng không quên ném cái nhìn Nẫy lửa về thằng Xuân khiến thằng Xuân đang mang tâm trạng sợ sệt trong lòng bấy giờ thấy nạn nhân của nó ném cái nhìn sắc lẻm về phía mình càng làm cho thằng Xuân thêm Thiểu não .

- Hai em ra quỳ ngoài cửa lớp cho cô .

Tội nghiệp cho hai đứa lũi thủi bước ra khỏi lớp mỗi đứa quỳ một bên cửa ra vào , tranh thủ lúc cô Hương chép bài lên bảng tôi lén nhìn ra ngoài nơi Hai đứa đang thọ án , thấy gương mặt buồn thiu của tụi nó làm trong lòng tôi cũng buồn lây với hai đứa bạn của mình , dạo đó bị phạt quỳ gối ngoài cửa lớp chưa phải Là tất cả , chúng tôi sợ nhất là cái hình phạt ( Đúp lê ) của ông Đốc , ông Đốc của trường chúng Tôi theo học thời bấy giờ ông rất to con , oai vệ vô cùng , đặc biệt giọng nói ông thì rỗn rãng , cái lũ ? chim non? chúng tôi dạo ấy khi thọ án như thằng Xuân và con Nhàn sợ nhất là gặp lúc ông Đốc đi vi hành quanh hành lang các lớp , trên đường đi của ông khi gặp phải các tên tội đồ nào ngoài cửa lớp , thì trong mắt ông đó là thành phần quậy , cần phải bổ sung hình phạt bằng cách nhéo tai hoặc đá đít vài cái ( tôi xin mở ngoặc chổ này không phải ông cố tình hành hạ những đứa trẻ thơ ngây , mà tính cách ông răn đe hơi mạnh bạo với lũ con trai , còn với đám con gái thì lúc nào cũng được ưu ái hình thức phạt bổ sung là chép phạt vài chục câu khẩu hiệu hoặc lời nói của danh nhân nào đó nhằm nhắc nhở cho các nàng có cơ hội thu thập thêm kiến thức qua hình thức phạt này , mặc dù phần lớn những người bị phạt , đến khi biết tin ông qua đời thì chính những tội nhân này là những người rơi nước mắt nhiều nhất ngày tiển ông ra yên nghĩ nơi nghĩa trang ) .


* * *


Trở lại cái không khí buổi học hôm ấy , điểm danh xong , cô Hương ( cô giáo mà sau này đứa nào trong chúng tôi vẫn hết lòng trân quý ) bắt đầu khảo bài , lúc này thì không khí tự dưng im phăng phắc đến mức tiếng vổ cánh của lũ ruồi bay thoảng ngang mà y như rằng đứa nào trong lớp cũng cảm nhận được , nói như thế để mọi người hình dung được cái không khí trong lớp nặng nề biết dường nào .

Loạt soạt âm thanh phát ra từ các trang giấy của sổ gọi tên lên trả bài của cô Hương vang lên , những đứa nào thuộc bài thì trong lúc này gương mặt chúng nó tự tin thấy rõ , còn ai biếng nhác thì khỏi phải nói ra ai cũng hiểu , gương mặt thất thần và lấm la lấm lét như chó ăn vụng bột , thú thật hôm ấy tôi thuộc về thành phần lấm la lấm lét .

Nhìn cây viết Bic màu đỏ cô Hương thường dùng để chấm điểm và sửa bài , thấy cô rà gần giữa cuốn sổ , mà đoạn đó thì học trò mang vần K vần H , tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lòng ngực khi cô Hương gọi :

- Hùng !

Nghe cô gọi tên Hùng tôi tự hỏi thầm không lẽ số mình mạc rệp cở vậy sao ? , nhưng tôi cũng còn chút hy vọng mong manh , vì cái lối cô kêu tên trả bài theo cách không ? đụng hàng ? với bất cứ thầy cô nào khác , cô Hương thường gọi tên trước , rồi cô ngẫng lên nhìn xuóng phía dưới , qua mục kính Cô xem những ai mang tên theo vần vừa được xướng lên sẽ dễ dàng phát hiện những đứa không thuộc bài , vì tính cách của những đứa đó như tôi vừa diễn giải .

Cô Hương gọi tiếp :

- Lê Chí Hùng , em cho biết câu nói của một danh tướng thời xưa :

? Ta thà làm quỷ nước Nam , chớ không thèm làm vương đất Bắc ? người đó là ai ?

Nghe không phải cô gọi tên mình , cả đám tên Hùng chúng tôi tủm tỉm cười xem như thoát nạn mù chữ , vì chúng tôi hay để ý khi cô Hương đã gọi tên Hùng rồi , thì hầu như không bao giờ gọi tiếp tên của các đứa còn lại mang tên Hùng , chỉ tội cho thằng lê Chí Hùng (trong lớp gọi nó là Hùng Lê ) đang trân mình đứng chịu trận do chưa tìm được câu trả lời .

Một đứa bạn ngồi gần thằng Hùng ( lê) thấy nó chết đứng như Từ Hải bèn
nhắc tuồng cho nó :

- suỵt ...suỵt... Trần .. Bình .. Trọng .. Trả lời đi

Do cái đứa nhắc bài hơi nhát gan câu Trần Bình Trọng chưa đủ âm lượng đến tai thằng Hùng lê , hơn nữa lúc ấy cái âm thanh phát ra từ miệng đứa nhắc bài đã bị át đi bởi tiếng động cơ máy bay của Hảng hàng không Air Việt Nam đang gầm rú lấy đà cất cánh khỏi phi đạo ( do ngôi trường này nằm gần phi trường Tân Sơn Nhất ) , thằng Hùng lê nghe tiếng được tiếng mất , nó quyết định năm ăn , năm thua trả lời không cần suy nghĩ :


- Dạ thưa cô Câu nói trên là của... Của .. Trọng ...

Cô Hương gặng hỏi nó :

- Cái gì Trọng ?

- Dạ Kim Trọng đó cô ...

Nghe câu trả lời không giống ai của thằng Hùng Lê cả lớp cười ầm lên như vỡ chợ .

- Bốp .. Bốp .. Bốp

Tiếng cây thước kẻ trên tay cô Hương gõ lên bàn , cô đang vãng hồi trật tự :

- Các em im lặng ... Im lặng . Lê Chí Hùng , lên đây cô bảo .

Chỉ tay lên cái bàn dài phía trên cùng của lớp , cô Hương tiếp :

- Em nằm lên đây , xuôi hai tay về phía sau , cô phạt em ba roi vì không thuộc bài.

Sau buổi học đó thằng Hùng Lê nó tự sự với chúng tôi là do nó nghe không rõ tiếng nhắc bài ,từ duy nhất lọt vào tai nó là chữ Trọng , sở dĩ nó trả lời cô Hương bằng cái tên Kim Trọng là do nó nghe anh nó đang theo học lớp đệ tứ thường đọc thơ có tên Kim Trọng , Thúy Kiều gì đó , trong lúc bí quá nó nghĩ Trọng nào cũng là Trọng , nó bèn lấy râu ông này , cắm càm bà kia trả lời cho cô theo cách ? qua tang lề ? cho rồi chuyện ...

* * *
- Ông Xuân nè ! Lớp Nhất (1) của mình ngày xưa đây rồi ! ,ông nhìn cho thật kỹ đi cho đở nhớ , mai mốt lên máy bay về bển đừng có nhớ nhung nữa nghe , ngày nào bên đó cũng nghe ông càm ràm về chuyện xưa tích cũ hoài làm tui phát mệt .

Bà Nhàn kéo ông Xuân đến ngay trước cái lớp cuối cùng thời tiểu học của mình , nhìn lên tấm bảng màu đỏ sơn chữ số màu vàng . Lớp Năm (1) thì ra , qua bao nhiêu thay đổi , biết bao đời Hiệu trưởng cái lớp Nhất một ngày xưa đến nay vẫn là lớp Nhất một , có điều họ gọi tên lớp theo cách mới cửa họ lớp ? Năm 1 ? hoàn toàn ngược lại cách gọi tên lớp của ngày xưa , có lúc tôi tự hỏi :


? Thay đổi cách gọi như thế để làm gì ? Hay họ cố tình làm cho khác đi theo cách giáo dục của ngày xưa ? xem như đổi mới giáo dục ? .

Công bằng nhận xét , suy cho cùng hảy xem lại phương pháp giáo dục của hai thời kỳ , riêng về chữ quốc ngữ cách viết 24 chữ cái của ngày xưa , chữ viết chân phương nhưng thật bay bướm , nét của từng chữ khi viết được kéo lên sổ xuống nét đậm nét lợt nhất là có ? Râu ria ? đầy đủ trông thật đẹp mắt , sau khi cướp chính quyền người ta cho cải cách chữ viết , thật tai hại một số em không thể sửa lại nét chữ của mình sau những năm dài học theo cải cách , xã hội sản sinh một số người viết chữ thiếu đầu thiếu đuôi , may thay sau một thời gian ngành giáo dục nhận ra khiếm khuyết này , nên họ cho cải cánh lại lần nữa bằng cách viết 24 chữ cái giống y như ngày xưa .

Bước vào lớp cũ , cái đặc biệt đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là những dãy bàn ghế trong lớp nơi chúng tôi ngồi vẫn không có gì thay đổi , có điều bề mặt gỗ lên nước láng bóng tự nhiên , mặt bàn cũng vài vết mực cũ và mới loang lổ , nhìn kỹ trên những mặt bàn vẫn còn chi chít vết khắc tên của bao thế hệ học trò . Tôi nghĩ các bộ bàn ghế này có đủ sức thi gan cùng Tuế Nguyệt là do ngày xưa người ta dùng loại gỗ đúng tuổi khai thác , nếu như sử dụng loại gỗ còn non thì có lẽ giờ này người ta đã hóa thân chúng trong bếp lửa không chừng .

Trên tường vôi của năm cũ , màu vàng đất cố hửu của ngày xưa không còn nữa , thay vào đó lớp sơn nưóc màu xanh bóng loáng làm chúng tôi vô cùng hụt hẫng vì nó không còn nguyên bản như thuở nào .

Đang mãi mê thả hồn về những ngày xưa thân ái , chợt bên ngoài cửa lớp có người nói vọng vào :

- Dạ xin chào quý vị ? cựu học sinh ? , xin mời các vị vui lòng vào văn phòng dùng nước và nghỉ chân .

Nhìn qua khung cửa sổ rộng lớn ngăn cách với hành lang bên ngoài là ô lưới mắt cáo bằng gỗ , một người đàn ông ăn mặc giãn dị , mái tóc hoa râm , trên khuôn mặt một cặp kính cận dầy cộm , thấy chúng tôi nhìn , ông ta nở một nụ cười hiền từ và bước hẳn vào lớp .

Người đàn ông cất tiếng nói , phá tan cái không khi bỡ ngỡ của chúng tôi :

- Xin tự giới thiệu với các vị , tôi Là Minh , Đỗ Văn Minh Hiệu trưởng trường mình , tôi nghe em Tuấn bảo vệ báo có anh chị em mình về thăm , dù đang bận việc Tôi tranh thủ về đây để hầu chuyện cùng quý vị .

Đưa mắt nhìn nhau ba chúng tôi ngầm hiểu đang được diện kiến người ? chủ trường ? hiện tại , bất chợt ông Xuân quay sang nói thật khẻ chỉ hai người chúng tôi nghe :

- Ông Hùng này ! Ông có thấy cái tay Hiệu Trưởng giống thằng Minh cùng lớp mình ngày xưa quá nhỉ ?

Nghe Ông Xuân nhận xét như thế Tôi nhìn thật kỹ , cố moi móc mọi ngỏ ngách trong quá khứ , so sánh Thằng Minh một học sinh lúc nào cũng đứng nhất lớp , tên nó bao giờ cũng đứng trên cùng trong Bảng Danh Dự được treo trân trọng trên tường của lớp , và hình ảnh trước mắt chúng Tôi , ông Minh một Hiệu Trưởng hiện tại , có thể thời gian xa cách quá lâu nên cũng khó nhận biết , tôi lập tức hỏi thăm :

- Xin lỗi thầy Minh , Thầy về trường đây lâu chưa ạ !

Thầy Minh chưa Kịp trả lời , bà Nhàn ? Tấn công ? tiếp :

- Có khi nào ngày xưa Thầy Học tại trường này không ? Trông thầy quen lắm đấy .

Với cái cười tủm tỉm , thầy Minh dỡ cặp kính cận ra khỏi khuôn mặt , lấy khăn lau tròng kính và nói :

- Hay ta lên văn phòng đi , uống trà rồi tôi sẽ cho quý vị biết những điều thú vị lắm ..

Bước vào Văn Phòng nơi thầy Minh làm việc , vẫn cách bày trí như xưa , kia rồi trên tường một khung ảnh mang hình ông Đốc của chúng tôi ngày xưa , phía bên dưới bức ảnh có dòng chữ Thầy ĐOÀN TRÍ ĐẠT . ( 1936 - 1995 ) .

Thấy chúng tôi chăm chú quan sát hình ảnh của ông Đốc , thầy minh lên tiếng :

- Có lẽ quý vị thắc mắc tại sao ảnh của Thầy Đạt vẫn còn trong căn phòng này phải không ?.

Mời chúng tôi thưởng thức món trà xanh thơm phức , Thầy minh dẩn dắt chúng tôi về lại quá khứ .


* * *


Một sáng nọ , khi trống trường vang lên báo hiệu buổi học bắt đầu , đã quá ba mươi phút sau hồi trống kia chúng tôi vẫn chưa thấy cô Hương đến lớp , lúc này không khí ồn ào bắt đầu nổi lên . Cả lớp chúng tôi đoán già đoán non , đứa cho là cô bệnh , đứa lại nói nhà cô có việc ... không thống nhất nên chúng tôi bàn cãi thật sôi nổi , có đứa còn chắc rằng hôm ấy sẽ được nghỉ do thiếu giáo viên lên lớp ..v..v...

Thình lình Thầy Phước xuất hiện , thầy là giáo viên của lớp Nhất hai nằm cạnh lớp chúng tôi, thầy nói to :

- Cả lớp im lặng cho Tôi .

Tiếng lớp trưởng vang lên :

- Tất cả đứng dậy ! Chúng em chào thầy .

Cả lớp im phăng phắc , thầy Phước bước lên bục giảng và gay gắt nói :

- Cô Hương hôm nay có việc không lên lớp , Thầy sẽ đứng lớp thay , các em lấy tập học theo thời khóa biểu .. Các em còn ồn tôi sẽ phạt cả lớp.

Buổi học hôm đó với chúng tôi nó dài lê thê , một phần không quen với cách giảng của Thầy , một phần chúng tôi cảm thấy dị ứng với cái răn đe của lần ra mắt đầu tiên của Thầy .

Khi biết tin cô Hương phải nghỉ bệnh cả tuần , ông Đốc quyết định để thầy Phước tiếp tục phụ trách tạm thời lớp Nhất một , với chúng tôi đây là tin xấu trong lòng đứa nào cũng không vui nhưng phải chấp nhận vì không còn cách nào khác .

Buổi học thứ hai với thầy cũng trải qua cái không khí buồn chán như hôm đầu . Đã vậy thằng Minh cái thằng giỏi nhất lớp bị thầy phạt quỳ gối tại chỗ do nói chuyện khi thầy đang khảo bài những đứa khác , thái độ thằng Minh lúc này nó bất mản ra mặt ...

Hôm sau trong giờ học , thầy Phước đang chăm chú chấm bài , học sinh thì cặm cụi làm bài tập làm văn , ai nấy tập trung cao độ để tìm ý cho thật hay mong sao bài văn mình Thầy sẽ cho đọc trước lớp . Chỉ riêng thằng Minh nó vừa viết nhưng thỉnh thoảng nó ngước nhìn về phía thầy Phước .

Do ngồi ngay bàn dãy đầu gần bàn giáo viên , tôi loáng thoáng nghe tiếng Thầy Phước rên rỉ và gãi xột xoạt :

- Ai da , sao ngứa quá vậy nè , chắc bị dị ứng rồi ...


Càng lúc thầy Phước càng gãi nhiều hơn trên khắp cả người , gương mặt thầy đỏ bừng như những người say rượu , bất chợt thầy bỏ ra ngoài ...

- Hí ...hí ...ha ...ha..

Tiếng thằng Minh cười một cách đắc chí , nó nói nhỏ vào tai thằng Thọ ngồi kế bên :

- Mầy biết thầy Phước bị cái gì không ?

Thằng Thọ nghe câu hỏi này , nó lờ mờ nghi thằng Minh có mờ ám chi đây trong câu chuyện này , vì nó vừa hỏi vừa nở một nụ cười đầy bí hiểm .

Tránh cho thằng Minh đọc được ý nghĩ của mình , thằng Thọ làm bộ ngây thơ cụ, nó nói :


-Tao nghi thầy bị dị ứng gì đây , mầy nhớ giờ cô giảng cho tụi mình bài khoa học thường thức nhiều người ăn mấy cái đồ biển như cua ghẹ cá Ngừ chẳng hạn , người nào không hạp nó gây ngứa ngáy khó chịu lắm .

Nghe thằng Thọ nói năng như trả bài , thằng Minh yên chí lớn bởi cái mưu đồ của nó chưa bại lộ , thay vì nó giấu biệt cái tà tâm nơi đáy lòng thì họa có trời mới biết được chuyện gì xảy ra với thầy Phước .

Người đời thường hay nói : ? Thần khẩu hại xác phàm ? , ý nói những người khi nói ra điều gì mà không cân nhắc cái lợi và hại , thì nhiều khi tai họa sẽ đến khi lời nói thốt ra từ của miệng , bởi thế để khắc chế câu trên người ta lại khuyên ? Trước khi nói điều gì ta phải uốn lưỡi bảy lần ? .

Ngày hôm ấy không hiểu Minh suy nghĩ điều gì , sau câu hỏi nó dành cho thằng Thọ nó đã tự giải mã nguyên nhân Thầy Phước gãy đàn dữ dội như thế , nó tâm sự với thằng Thọ với cái giọng ta đây đại ý là nó làm cái chuyện mà trong ngôi trường này chưa ai gan dạ bằng nó .

Thì ra Thầy Phước đã bị trúng phép của thằng Minh rồi , hôm qua bị thầy phạt do cái tội nói chuyện , khi tan học trên đường trở về nhà , gặp mấy bạn lóc nhóc trong xóm thấy gương mặt Minh buồn buồn , sau một hồi gặng hỏi của mấy đưa' bạn , Minh nhà ta kể hết sự tình trong lớp , nghe xong câu chuyện nhiều đứa đã bày cho Minh cách trả thù , bọn nhóc dẩn nó đi hái trái mắt mèo và chỉ cho Minh cách sử dụng , cuối cùng thì như mọi người đã biết Thầy Phước khổ sở hôm đó như thế nào rồi ...

Cô Hương quay lại với lớp Nhất một sau những ngày ở nhà có việc , những tưỏng vụ án trái mắt mèo của hôm nào sẽ lui vào quên lãng , nhưng tục ngữ có câu : ? Cây kim trong bọc lâu ngày ... Cũng lòi ra ? , mà nó lòi ra một cách tình cờ nhờ áp dụng cách khai thác tin tức như nhà thám tử đại tài Sơ lốc Hôm của xứ sở sương mù , cô Hương đã lật tẫy vụ án một cách ngoạn mục khiến thằng Minh tâm Phục khẩu phục .

Trở lại lớp được một tuần , cả lớp đang cắm cúi viết bài , bổng tiếng con Hoàng cô bé ngồi dãy bàn phía trước bàn thằng Thọ la lên oai oái .

- Trò Thọ này nhe , làm đỗ mực vào áo tui rồi nè , méc cô cho coi .

Vừa dứt câu con Hoàng đứng lên và làm liền một mạch khiến thằng Thọ chết điếng cả người , chưa biết xử trí ra sao thì con Hoàng đứng lên méc cô :

- Thưa Cô ! Tự nhiên trò Thọ hất bình mực vào áo em , cô phạt trò Thọ đi .


Với gương mặt giận dữ cô Hương gọi :


- Thọ đâu ? Lên đây cô bảo .

Với gương mặt sợ sệt , Thọ đứng lên và lầm lũi làm theo lệnh cô , nhưng trong lòng nó ấm ức vô cùng , thật ra con Hoàng nói oan cho nó , nhưng vì đây là trường hợp Tình ngay lý gian khó mà giải bày , trước mặt mỗi học sinh thời ấy trên bàn thường được khoét một cái lổ tròn vừa vặn với bình mực khi đặt vào đó,mục đích giữ thăng bằng cho khỏi bị đổ vỡ , không biết lụp chụp như thế nào nó làm cả bình mực văng vào áo cô bé kia , giờ thì nó nghỉ rằng hậu quã khó lường .

- Sao không lo viết bài mà nghịch ngợm quá vậy ? Bây giờ cô đuổi học em nhé , à mà cô nghe mọi người bàn tán hôm trước thầy Phưóc bị ? ngứa ngáy ? cũng do em làm phải không ? ( nó đâu có biết bị cô Hương dùng chiêu run cây nhác khỉ ) , tuy mang tâm trạng của Quan âm thị kính nhưng trước cách nói chận đầu của cô Hương khiến thằng Thọ phải thú thật và chỉ ra thủ phạm mặc dù trước đó thằng Minh hăm he nếu tiết lộ bí mật nó sẽ nghỉ chơi và không chia bớt phần quà bánh lúc ra chơi dưới sân trường .

- Dạ vụ Thầy Phước không phải em làm thưa cô , còn áo bạn Hoàng vấy mực thì em không cố ý .

Cô Hương truy tiếp :

- Vậy chứ vụ thầy Phước ai làm nếu như không phải em , nói thật đi cô sẽ không phạt em .

Như vớ được chiếc phao cứu sinh trong cơn giông bão giữa biển khơi , Thọ Lấm lét nhìn về Phía Minh , đôi mắt nó như thầm nói : hãy tha thứ cho tao , riêng Minh nghe cô Hỏi tới khiến nó thật sự hoãng sợ , nó co rúm người lại như một cách trấn an cho mình .

- Dạ thưa cô .. Vụ thầy Phước là do... bạn....

Nói được bao nhiêu đó Minh bật khóc , đưa tay dụi mắt nhưng nó cũng không quên quan sát thằng bạn thân nhất đời nó , lấy lại bình tỉnh với tâm trạng phóng lao , phải theo lao , nó nói tiếp .

- Thưa cô ! Do bị thầy Phước phạt oan trong một giờ học nên bạn .... M..ị.n.,h đã lấy trái mắt mèo làm cho thầy bị ngứa , bạn Minh rất hối hận việc làm này nhưng bạn chưa dám xin lỗi thầy .

- À ra thế đấy , em về chổ cô tính sau , Minh đâu ? Lên cô bảo .

Như chú mèo bị mắc mưa Minh cúm ra cúm rúm nhè nhẹ đi lên bục giảng , gương mặt nhợt nhạt xanh như tàu lá chuối .

- Các em xem đây , Minh đã có hành động không đúng , thầy có phạt oan đi chăng nữa các em không thể hành xữ thế này .

Cô Hương nói tiếp :

- Các em hảy chép bài tiếp , Minh theo cô lên văn phòng .

Lên đến văn phòng ông Đốc , Minh tự nghĩ với cái tội tày đình này thì coi như nó sẽ bị đuổi học là cái chắc , may cho Minh sau khi biết rõ ngọn ngành câu chuyện , do sự hối lỗi thật sự , do hạnh kiểm tốt , và nhất nó là học sinh xuất sắc của lớp , của trường nên Minh nhà ta được tha bổng sau những lời răn đe thật nhiều .

Như được tái sinh lần thứ hai , từ đó về sau Minh thật sự làm cho toàn trường nở mặt nở mày , kỳ thi vào lớp đệ thất năm đó Minh là thủ khoa của cả Trường .

- Nãy giờ Ông kể lại kỷ niệm lớp mình hồi xưa , nó làm cho tôi sống lại cái tuổi thơ chúng mình quá !.

Bà Nhàn nói với Thầy Minh , bà vẫn chưa hết thắc mắc :

- Ông Minh nè ! Mà sao ông về đây làm hiệu trưởng hay quá vậy ? Rồi ông Đốc mình mất ra sao ? Tụi tui lâu lắm mới trở lại Việt Nam ,à mà sao ông có được hình thầy Đạt ?

- Không giấu gì mấy bạn , qua câu chuyện mình vừa kể cho các bạn , cái hôm thầy Đạt miễn tôi. cho mình , thú thật trong lòng mình có cái nhìn khác về Thầy, thầy nghiêm khắc lắm , nhưng nhiều vị tha , các bạn cứ nghĩ xem giá như hôm ấy mình bị đuổi học thì...

Thầy Minh bỏ dỡ câu nói , chúng tôi chợt thấy đôi mắt thầy ươn ướt , lấy khăn tay lau vội dòng nước mắt , nghẹn ngào thầy Minh tiếp :

- Ngày Mình đậu đệ thất thì ít lâu cha mẹ Mình lần lượt qua đời , nếu không có Thầy Đạt chu cấp tiền bạc thì Mình đâu có cơ hội học hành và có được như hôm nay . Bởi thế Thầy Đạt với mình như người cha thứ hai mình phải kính trọng tôn thờ .

Hớp một ngụm trà nóng , thầy Minh kể tiếp :

- sau ngày 30 tháng 4 , mình cũng long đong số phận , là giao' viên nhưng cũng học tập tại chổ cả tháng , mình được phân công về dạy tại trường đây , khi thầy Đạt về hưu mình là người thay thầy quản lý mái trường của chúng mình đến hôm nay .

Nóng ruột vì sao thầy Đạt mất , bà Nhàn nhắc :

- Ông Đốc nghỉ hưu rồi cuộc sống ra sao ? Thầy kể tôi nghe .

- Xem ra bà Quý ông Đốc của chúng mình lắm đây . ( thầy Minh nói ).

- Tội nghiệp Thầy Đạt , cống hiến cho giáo dục nhiều công sức , ngày thầy về hưu thầy vẫn ở lại căn phòng nhỏ trong khuôn viên trường , thầy mất đi sau cơn bạo bệnh , đám tang thầy thật to , bao thế hệ học trò hay tin đều đến tiển thầy về nơi an nghỉ cuối cùng , vòng hoa phúng điếu rất nhiều , điều này nói lên tấm lòng của người đến viếng , nhưng theo tôi đó là lãng phi quá lớn ...

- Theo di chúc Thầy Đoàn Trí Đạt , toàn bộ số tiền thu được qua phúng điếu , nguyện vọng thầy muốn nó là quỹ học bổng cho những mảnh đời cơ nhở nhưng ham học ...

Trước di ảnh của Ông Đốc , mấy anh em chúng tôi nguyện với thầy , sẽ cố gắng đem cái tri thức lãnh hội được của ngày xưa truyền lại cho thế hệ sau này khi có điều kiện , ngước nhìn khuôn mặt Phúc hậu của ông chúng tôi thấy ông cười cái lũ quỷ nhỏ ngày xưa ,ôi sao mà thương quá cái tuổi hồn nhiên nhưng .. Tụi bây quậy thật dữ .


* * *


Tiển chúng tôi ra cổng trường sau khi dẩn chúng tôi thăm lại khắp nơi trong trường , nhìn trong sân rải rác đó đây những cánh phượng Hồng rơi rụng , tôi có cái cảm nghĩ :


? Những cánh hoa rơi rụng kia dường như muốn nhường nhựa sống cho những nụ hoa vừa hé trên cành , cũng như Thầy Đoàn Trí Đạt của chúng tôi , ông vĩnh viễn ra đi và nhường lại cái sự nghiệp giáo dục lại cho thế hệ kế tiếp ?.

Tạm biệt mái trường xưa Ông xuân , bà Nhàn quay về nơi đất khách ,ở nơi xa đó, thời gian nó gậm nhấm kỷ niệm thời niên thiếu của ông bà từng ngày từng giờ , riêng tôi vẫn còn cái hạnh phúc đơn sơ là mình có cơ hội ngắm nhìn nơi mái trường xưa bất cứ lúc nào Tôi muốn , cái Hạnh phúc mà ông Xuân và Bà Nhàn thật lâu mới có cái diễm phúc này ./,

( Viết xong một ngày đầu mùa Hạ 2011 tại Sài Gòn )

Hai Hùng SG


Mục Lục


III . Những Bức Thư Tình_____________________________________________

Thư Tình Tháng Này


DHH




Anh Yêu Dấu,

Tìm lại nhau như những con thuyền trên biễn tình mênh mông. Cả hai ta đều phải đương đầu với những cơn giông bão, tưởng chừng như cuốn trôi chúng ta. anh lo sợ, chán ngán cuộc đời này, em đau buồn, thu mình lại trong vỏ ốc, nằm chờ cơn sóng đưa mình trờ lại với đại dương, có như thế chúng ta mới cảm thông nhau, đúng không anh ? Em tự trách, và tự hỏi, tại sao chúng ta không gặp nhau sớm hơn ? Anh có tin vào hai chữ " Nợ Duyên " không ? Duyên thì chúng ta đã có, còn nợ thì không biết là bao nhiêu đây ?

Em vẫn lênh đênh giữa biển đời
Con thuyền theo sóng gió chơi vơi
Nỗi niềm khép kín nào ai biết
Tan vỡ buồng tim tím ngút trời
*
Em vẫn còn đây nhớ bóng hình
Lệ buồn rơi mãi chẳng niềm tin
Tiếc thương dĩ vãng vàng son ấy
Tìm bóng tình nhân với mảnh hình

Viết Cho Giao Mùa
March 2014
ĐHH


Mục Lục



IV . Hộp Thư Toà Soạn ___________________________________________________



Nguyệt San Giao Muà xin cám ơn những thân hữu đã dóng góp bài vở cho Nguyệt San Giao Muà số 143 . Một số bài khác sẽ được đăng dần vào số tới. Mong mỏi sẽ nhận được những sáng tác của các bạn bốn phương để cho Nguyệt San Giao Muà thêm phần hương sắc trong tương lai.

Mục Lục


Thể lệ để nhận Nguyệt San Giao Muà: 1) Để vào danh sách của NSGM (subscribe), xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
2) Để rút ra danh sách của NSGM (unsubscribe), xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
3. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com 4. Mọi bài vở, đóng góp, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com Nguyệt San Giao Muà Homepage: http://www.GiaoMua.com Thể lệ gửi bài cho Nguyệt San Giao Muà: Mong bạn gửi Bài cho GM theo cách này là tốt nhất : 1. Dùng mẫu chữ Vietnet (VIQR) hay Unicode 2. Viết Hoa chữ đầu của bài và bút hiệu. Ví dụ: Giọt Mưa Trên Lácủa NS Phạm Duy 3. Gửi bài ngay trong email (không kèm file), để cho BBT khỏi mất công download xuống để đọc 4. Gửi tất cả các bài trong 1 tháng 1 lần trong1 email, nếu tiện. 5. Bài vở xin gửi đến trước ngày 25 mỗi tháng 6. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com Cám ơn bạn rất nhiều, vì nhân sự có hạn, BBT không thể ngồi đánh máy lại từng đề bài hay bút hiệu.

Địa Chỉ Liên Lạc:

Nguyệt San Giao Muà
P.O . Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA

Trang Nhà 

Web Counters
Web Site Hit Counter

Copyright 2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors