Số 158
Ngày 1 tháng 6 năm 2015
Nguyệt San Giao Mùa
P.O. Box
378
Merrifield, Virginia
22116
USA
Thư Ngỏ
Hôm nay đã qua tháng 6 rồi mà sao trời Cali còn lạnh vào buổi chiều.
Bắc Cali tuần này nhiệt độ cứ lẩn quẩn ở hàng 6, tuần tiếp lên hàng 7. Những năm trước thường trong dịp Lễ Father's Day trời nóng nhiều, có khi lên đến hàng trăm. Lạ thật.
Tình trạng biến đổi khí hậu, với ba bốn năm liền Cali hạn hán, những dòng sông, nhất là những hồ chứa nước bị cạn kiệt, đáy hồ nứt nẻ trông thật đáng lo ngại,
Thống đốc Tiểu bang đã ra lệnh hạn chế dùng nước để tưới cây. Buổi trưa nhìn dãy hoa trong vườn nghiêng rũ càng thêm buồn, trong khi đó nhìn trên Net thấy Saigòn mênh mông nước ngập, với cảnh người dân dắt xe lội trong những vũng nước đen ngòm.
Mới đó mà cuộc đổi đời năm 1975 đã trôi đi bốn mươi năm. Thời gian, không gian và đời người theo nhau chạy đua, để rồi những kỷ niệm dẫu ngọt ngào hay đau đớn cũng dần rơi rụng không một chọn lựa.
Bốn mươi năm không thể không quay nhìn lại, để nhìn ra sự thật, nhìn ra chân lý cuả Bên thắng cuộc cũng như Bên thua cuộc, đau lòng với tình đồng bào ruột thịt đã bị một chủ nghĩa sai lầm làm cho mấy triệu người Việt Nam đã chết một cách vô ích. Giá như kẻ thắng cuộc không kiêu ngạo một cách mù quáng, nhìn và học hỏi theo người Mỹ sau cuộc Nam Bắc phân tranh, thì bây giờ nước Việt chúng ta không mang nỗi nhục thua kém cả Campuchia và Lào.
Giờ này, tôi ngồi viết Thư Ngỏ cho Gia Mùa, lòng tôi không hận không thù người CS, nhưng trong lòng luôn đeo đẳng một nỗi đau đớn, nhìn thấy cả một lớp người ngu muội cúi đầu dâng đất dâng biển cho giặc Phương Bắc, phản bội lại tiền nhân đã bốn ngàn năm hy sinh biết bao máu xương để bảo vệ và mở mang đất nước giàu đẹp như ngày nay...
Cầu xin Hồn Thiêng Sông Núi phò trợ cho một Việt Nam sớm không còn bóng dáng của những tên bán nước "hèn với Giặc, Ác Với Dân" .
Mạc Phương Đình
Ban Biên Tập Giao Muà
Bài vở trên Giao Muà là do các tác giả gửi đăng và Giao Muà không chịu trách nhiệm về nội dung. Muốn xin trích đăng lại, xin liên lạc với GiaoMua@hotmail.com.
I . Thơ _______________________________________________________________________
1. Em, Người Dưng Khách Qua Đàng | ______Lê Miên Khương | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
2. Tìm Lại Dấu Quê Hương | ______ Hàn Thiên Lương | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
3. Quán Cà Phê Giọt Đắng | ______ Sông Cửu | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
4. Mộng Sầu | ______ Jacaranda | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
5. Tháng 5 Đà Lạt Mưa Tình | ______ Tuyền Linh | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
6. Bụi Trắng | ______ Hoàng Yến | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
7. Dòng Sông Chảy Ngược | ______ Nguyễn Thị Thanh Dương | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
8. Xa Giấc Mơ Buồn. | ______ NguyênHoang | ||||||||||||||||||||||||||||||||||
9. Đường Khuya |
______ Du Yên 10. Lạc Lõng |
|
______Chung Thủy | 11. Vợ Tôi |
|
______ Sông Trà | 12. Nhớ Lời Cha Khuyên |
|
______Song An Châu | 13. Dịch Thơ Thôi Hộ |
|
______Phạm đình Nhiên |
14. Quà Vu Quy Cho Con phần IV |
|
______
Nguyệt Vân |
15. Sao Đêm |
|
______Vành Khuyên |
16. Thời Gian |
|
______Vân Hà |
17. Buồn Vui Cùng Bạn |
|
______Mạc Phương Đình |
18. Lệ Trên Phím Sầu |
|
______Nguyên Hà/Uyên Thuý Lâm |
19. Về Gọi Phố |
|
______Đông Hương |
20. Ngàn Dặm Quan San |
|
______Trần Đan Hà |
|
II . Văn _______________________________________________________________________
1. 2009 Buồn ___________ Nguyễn Thị Thanh Dương | 2. Hiến Chương Tình Yêu (truyện dài nhiều kỳ) ___________ Tình Hoài Hương |
3. Duyên Số ___________ Vành Khuyên |
4. Căn Nhà Sau Cửa Biển (truyện dài) ___________ Phan Thái Yên |
5. Một Nét Đẹp Trong Tiếng Việt, chữ Nước. ___________ Trần Thành Mỹ |
IIỊ Trả Lời Bạn Đọc__________________________________________________
1. Nhắn Tin/Trả Lời Bạn Đọc _______ Ban Biên Tập |
I . Thơ __________________________________________________
II . Văn___________________________________________________________
Nguyễn Thị Thanh Dương
Nguyễn Thị Thanh Dương
2. Hiến Chương Tình Yêu (truyện dài nhiều kỳ) Tình Hoài Hương
Hiến Chương Tình Yêu Tình Hoài Hương
Vành Khuyên
Vành Khuyên
4. Căn Nhà Sau Cửa Biển (truyện dài) Phan Thái Yên Phan Thái Yên
5. Một Nét Đẹp Trong Tiếng Việt, chữ Nước.
Trần Thành Mỹ Trần Thành Mỹ
IIỊ Hộp Thư Toà Soạn
___________________________________________________
Thể lệ để nhận Nguyệt San Giao Muà:
1) Để vào danh sách của NSGM (subscribe),
xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
Địa Chỉ Liên Lạc:
Nguyệt San Giao Muà
Copyright
2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors
Chị Tư Chuột lái xe vào bãi đậu của hãng thấy lỏng le, không chật xe như trước kia nữa. đến trễ một chút là kiếm chỗ đậu xe ngon lành không phải dễ.
Chị xách gỉo, xuống xe bước vào hãng, cảnh bên ngoài đã tiêu điều, bên trong càng u ám hơn, người thưa thớt và gương mặt ai cũng phảng phất nỗi lo, trao nhau cái nhìn đồng cảm như hỏi nhau rằng trong chúng ta mai này ai đi ai ở?.
Cả tháng nay hãng liên tiếp lay off nhân viên văn phòng và công nhân sản xuất. Mới tuần trước chủ hãng họp đột xuất toàn bộ công nhân viên để thông báo tình hình khó khăn của hãng, thời buổi khủng hoảng kinh tế của nước Mỹ đã ảnh hưởng đến hãng này, một hãng luôn tự hào là vững mạnh, làm ăn giỏi suốt hơn 30 năm qua.
Chị vào phòng giải lao thì bà Bông đã đến bên chị với nét mặt như vừa trong một đám tang gia:
- Em nghe chị kể vợ chồng thằng con trai của chị ở California làm ăn thành công, nhà cao cửa rộng lắm mà, hai vợ chồng cô con gái thì làm chủ mấy tiệm nail.
Bà Bông thở dài:
- Đúng thế. Vợ chồng thằng con trai làm chủ một cửa hàng bán Donut rất đông khách, thời điểm nhà cao gía ngất trời hai vợ chồng hí hửng mua ngay căn nhà bạc triệu, trả tiền down vài trăm ngàn. Bây giờ nhà cửa xuống gía thậm tệ, cửa hàng donut lại ế ẩm, xuống dốc trông thấy, vợ chồng tôi phải gởi tiền phụ giúp chúng nó trả tiền nợ nhà hàng tháng, nếu không thì nhà băng tịch thu nhà chúng nó ở vào đâu? Mà khổ qúa, hồi ấy tôi cũng đã khuyên chúng là mua nhà vừa túi tiền thôi, tranh đua với người ta nhà to xe đẹp làm gì cho khổ vào thân mà chúng không nghe, cứ lý luận mua nhà Cali chỉ có lời không bao giờ lỗ, nhà càng cao gía càng lời nhiều. Bây giờ thì ngược lạỉ
- Vậy chị bảo nó bán căn nhà ấy đi, mua căn nhỏ ở cho bớt nợ nần.
- Đã tính tới nước ấy rồi, nhưng gía nhà xuống thấp qúa, trị gía căn nhà không đủ trả tiền nợ nhà băng, thì lấy tiền đâu mà mua căn nhà khác dù là nhỏ hơn?
- Trời ơi, như vậy là mấy trăm ngàn tiền down nhà trước kia cũng tiêu luôn hả chị?
- Ừ, coi như bao năm trời làm ăn cật lực giờ trắng tay, mà còn nợ thêm. Không đánh bài mà bị thua cay, thua đậm, vì gía nhà đất ở California là gía ảo, thời cao gía, nửa triệu bạc chỉ mua được một căn nhà cũ, với số tiền ấy về Texas mua được căn nhà to lớn, lộng lẫy. Thế mà nhiều người Việt Nam vẫn mơ ước đất Calif. làm như nơi ấy có rừng vàng biển bạc.
- Chị ơi, chẳng phải thế đâu, chắc vì nơi ấy có cộng đồng người Việt lớn mạnh, có tình quê hương đồng bào.
Chị Tư Chuột quên nỗi lo âu của mình, tò mò hỏi tiếp:
- Thế còn cô chủ mấy tiệm nail?
- Làm ăn cái gì cũng có thời thôi cô Tư Chuột ạ, con gái tôi mang tiếng có mấy tiệm nail, nhưng có tiệm đắt, có tiệm ế, bù qua sớt lại lợi tức là bao? nó phải bán lỗ vốn mấy tiệm, nay còn một tiệm chỉ đủ sống còn mà thôi. Cô tính, người ta không có công ăn việc làm, không có tiền thì ai mà đi làm móng tay móng chân? Bán nhà hàng cũng thế, rủng rỉnh bạc tiền người ta mới đi ăn, không thì ăn ở nhà cho đỡ tốn. Đã thế thiên hạ thất nghiệp nhẩy ra mở tiệm nail, mở nhà hàng tới tấp, càng cạnh tranh, càng hạ gía nên chủ nhân chỉ lây lất chứ mong gì làm giàu!
Chị Tư Chuột ngậm ngùi:
- Làm ăn lúc thịnh lúc suy mà chị, như cái chợ Sack.N Save ở gần nhà em, từng đông khách nườm nượp, vậy mà sau này ế ẩm phải dẹp hàng loạt vài cửa tiệm của nó. Nghĩ mà tội nghiệp cho nhà băng, tịch thu nhà cửa, bất động sản thời buổi này cũng như rước của nợ vào người, thì giờ đâu mà chăm sóc? để không thì bị đám bụi đời, đến phá nhà, ăn cắp vặt bên trong, mà bán thì chẳng dễ gì, trong khi thiếu tiền mặt để kinh doanh. Phải chi em là nhạc sĩ Thanh Sơn, tác gỉa ?Nỗi buồn hoa Phượng? em sẽ làm tiếp bài ?Nỗi buồn nhà Băng? cho hợp thời hợp cảnh.
Bà Bông kể lể:
- Nếu cuộc sống chỉ nói đến chuyện ăn mặc thì bên Mỹ này có ai chết bao giờ!. Những thứ hệ lụy khác mới khổ tâm. Ngoài việc cần tiền để phụ giúp con cái đang hoạn nạn, hàng năm tôi vẫn gởi tiền về giúp thân nhân hay người nghèo khó bên Việt Nam, và tôi cần đi làm để có bảo hiểm sức khỏe cho chính mình nữa chứ. Mà có ở với con cái cũng chả thoải mái đâu, một người bạn tôi không có việc làm cũng hớn hở bán nhà cửa về ở với vợ chồng thằng con trai, trông nom cháu nội, dần dần như người giúp việc không công cho nhà nó, mà còn mất cả quyền tự do của mình vì ở đâu phải theo luật lệ đấy.
Chị Tư Chuột ngợi khen bà bạn gìa:
- Những bà mẹ Việt Nam thật bao la, trong số đó có chị, thương con vì con hết cả cuộc đời, chẳng bao giờ nghĩ sung sướng cho riêng mình mà tùy thuộc vào sự vui buồn của con cái.
Rồi chị Tư Chuột quay ra oán trách:
- Chỉ tại ông Bush ủng hộ chiến tranh nên kinh tế nước Mỹ mới điêu đứng thế này. Cho đáng đời, sau 8 năm làm tổng thống mặt ông ấy vừa gìa vừa xấu hơn xưa.
Bà Bông rủa thêm:
- Làm tổng thống chắc gì đã sung sướng? có khi còn bị ám sát chết tươi. Một nghiên cứu mới đây nói rằng tổng thống mau gìa trong thời gian làm tổng thống vì qúa căng thẳng, nghĩa là mình gìa một thì ông ấy gìa hai. Đợi đấy, vài năm nữa ông Obama cũng mặt mày phờ phạc, tóc sợi bạc sợi bay cho mà xem. Làm sao mà ông Obama cứu nổi nền kinh tế chết dầm chết tiệt này? 401K của tôi mất toi một nửa rồi.
Đã tới giờ vào làm, nên bà Bông và chị Tư Chuột tạm chia tay, câu chuyện đang hào hứng chắc sẽ được khơi dậy tiếp vào giờ nghỉ giải lao.
Chị Tư Chuột ngồi vào chỗ làm của mình, bên cạnh bà Mỹ gìa Jean càng làm chị ngứa mắt vì bà này đã đến tuổi về hưu cả năm nay. Khi tình hình hãng bắt đầu sa sút bà Sandy phòng quản lý nhân viên đã khuyến khích bà Jean về hưu nhưng bà vẫn ?ngoan cố? đòi làm thêm và luôn tự hào là tôi cảm thấy qúa trẻ nếu về hưu vào lúc này trong khi mặt bà đầy vết nhăn từ trên trán xuống tới cằm và mái tóc vốn dĩ đã mỏng, nay rụng lưa thưa trông thấy cả da đầu.
Vô tình bà ta đã chiếm mất một chỗ làm của người khác, trẻ hơn bà, cần tiền hơn bà, như chị Tư Chuột chẳng hạn. Mà tại sao hãng lay off người nọ người kia mà không là bà Jean? Có lẽ vì tôn trọng quyền làm việc của người gìa? hoặc họ là những người cần khích lệ và nâng đỡ làm việc?.
Mấy người nhiều chuyện trong hãng đồn rằng bà gìa Jean có người yêu thua kém bà mười mấy tuổi, nên bà luôn o bế, nuôi nấng nó, những đồng lương hưu còm cõi không đủ cho người tình nên bà phải tiếp tục làm việc để có thêm tiền.
Bà Susan ngồi phía bên kia khều chị Tư Chuột:
- Tôi nghe nói nay mai hãng làm việc còn 32 giờ một tuần thôi. Chị biết chưa?
Chị Tư Chuột giật mình:
- Để tiết kiệm tài chánh những máy móc, đèn điện trong hãng phải tắt mở đúng lúc, rồi cắt giảm nhân viên, nay lại cắt giảm giờ làm việc. Hay là hãng sắp sửa đóng cửa?
- Tôi cũng lo thế! Làm 32 giờ thì tôi không đủ sống, tiền thu nhập ít đi mà chi tiêu thì nhiều thêm, bill điện lên gía, mùa Đông năm nay tháng nào căn nhà nhỏ 1,200sqf. của tôi cũng hơn 200 đồng tiền điện. Tôi sẽ đi tìm thêm một công việc part time nào đó?
Chị Rita vừa đi ngang qua nghe thế nói chõ vào:
- Tôi cũng thế, có bao nhiêu thứ cần chi tiêu trong cuộc đời này.
Chị Tư Chuột chợt nghĩ đến bà Bông, thì ra ai cũng có những lo toan của họ, dù ở tuổi gìa hay tuổi trẻ, mỗi người có một lý do khác nhau.
Bà Susan lại ngứa miệng tán dóc:
- Thằng cháu tôi làm technical tại một hãng kia, bị lay off, lãnh tiền thất nghiệp đủ 6 tháng mà vẫn chưa kiếm ra việc làm, nay vừa mới xin một việc, tiền thấp, không đúng ngành nghề mà vẫn phải làm để sinh sống. Tiền thuê nhà, tiền điện, tiền nước không bao giờ biết nghỉ ngơi, mỗi tháng vẫn lù lù xuất hiện như những cơn ác mộng, nên người ta không thể ngồi yên
Chị Tư Chuột não nề:
- Còn đâu lúc hãng thịnh vượng, làm overtime đến ngao ngán, và nhiều người dãy nẩy lên, từ chối không chịu làm. Bây giờ hãng suy yếu làm ít giờ thì than van.
**********
3giờ 30 chị Tư Chuột rời khỏi hãng, về đến nhà thì thằng Cu Tí đi học cũng vừa về đến, trường nó cách nhà nửa block đường nên cứ đi bộ về, khỏi cần ai đưa đón. Thằng bé 7 tuổi khoe:
- Hôm nay con được cô giáo khen làm bài tập tốt.
Chị Tư Chuột mừng rỡ:
- Con mẹ giỏi quá! Bài gì vậy con?
- Bài home work tóan hôm qua mẹ làm giùm con đó, mẹ quên rồi hả?. Tối nay mẹ làm giùm con nữa nhé?
Chị Tư Chuột cụt hứng:
- Tưởng gì! khi nào gặp bài khó thì mẹ mới làm giúp con thôi. Nhưng mẹ sẽ giảng cho con hiểu bài để lần sau con tự làm lấy.
Thằng Cu Tí ước mơ :
- Mẹ dạy cho con học giỏi tóan nhất lớp, mẹ nhé!
Chị thay quần áo và vào bếp, bữa cơm chiều xum họp có mặt đủ thành viên của gia đình. rất quan trọng (sách dạy tâm lý đã bảo thế). Xong chị đi tắm và đợi chồng về.
Anh Tư Chuột về đúng giờ, chắc hôm nay không có khách đột xuất đòi sửa xe gấp, lấy ngay. Nhìn bàn ăn tươm tất, nhìn vợ sạch sẽ tươi mát mà anh cũng tinh ý nhận ra :
- Hôm nay em đi làm bị boss la hay sao mà mặt còn héo thế kia?
Chị Tư Chuột không ngờ chồng hiểu mình đến thế, chỉ nhìn vẻ mặt mà biết cả tâm can:
- Anh ơi, không héo sao được, hãng em đang cho thôi việc tùm lum. Nếu như ngày mai đến lượt em ?
Anh Tư Chuột cười khà khà:
- Hãy vui hưởng 24 giờ ngày hôm nay vì em vẫn còn việc làm. Em lo trước chuyện chưa xảy ra, chẳng khác nào em khóc than chuyện biệt ly khi mình chưa nhắm mắt lìa đời.
- Anh lúc nào cũng lạc quan vô tư, hèn gì cứ ngả lưng xuống giường là ngủ, và người thì phát triển mập ra. Trong khi em còn trằn trọc bao nhiêu chuyện cho ngày mai, ngày mốt.
- Nhưng em có gầy đi tí nào đâu? Và cũng phát triển mập không thua kém gì anh! Không phải em chỉ lo ngày mai, ngày mốt mà cho đến 15 năm sau, khi thằng Cu Tí học Đại học và trả nợ xong ngôi nhà này. Em đã từng mơ đến ngày ấy. Có phải không?
- Ai mà không mơ như thế cơ chứ, nhưng còn đi làm thì ngày ấy mới đến.
Anh Tư Chuột an ủi vợ:
- Thời buổi này bao nhiêu hãng lớn, hãng nhỏ trên nước Mỹ đều cắt giảm nhân viên, xin chính phủ tài trợ để sống sót, nhiều business đóng cửa. Năm 2009 là một năm bắt đầu của tổng thống đảng Dân Chủ với nhiều khó khăn cần giải quyết. Nói tóm lại, năm 2009 buồn nhiều hơn vui. Cả nước Mỹ cùng gánh chịu gian nan chứ chẳng riêng ai, nếu em bị mất việc thì anh sẽ ở lại shop xửa xe mỗi ngày vài tiếng kiếm thêm tiền cho qua cơn sóng gío, tới khi em kiếm được việc làm khác.
Chị Tư Chuột cảm động:
- Và mình phải sống tiết kiệm lại anh ạ, đợi qua năm 2009 coi có thay đổi chút nào không?
- Thế kế hoạch mua cái xe mới cho em đi làm thì sao? Em đã từng nói không muốn thua kém mấy cô Mễ làm cùng hãng, từ quần áo, tới xe cộ cơ mà.
- Em quyết định lại rồi, kế hoạch mới thay cho kế hoạch cũ, vẫn đi xe này cho tới khi nào nó không chạy được mới thôi. Còn tụi nó ăn diện đẹp, xe đẹp thì nợ cũng ?đẹp? chứ hay ho gì.
- Em thay đổi chớp nhóang y như chính quyền bên Việt Nam vậy đó. Kế hoạch nọ, nghị quyết kia, chòng chéo lên nhau, không biết đâu mà lần
Chị âu yếm giục chồng và réo gọi con:
- Anh đi tắm rửa rồi ra ăn cơm. Cu Tí ơi, xong chưa?
Cả nhà quây quần ngồi bên nhau, vợ chồng hạnh phúc, thằng con ngoan. Chị có một mái gia đình ấm cúng vui vẻ thì năm 2009 buồn, với kinh tế khó khăn, cuộc sống cam go, cũng có thể vượt qua.
Chị mỉm cười nghĩ thế và thanh thản ăn bữa cơm ngon .
( Feb.-2009).
**************
Phần Thứ Nhì
Chương 12
Ơn Đời Đãi Ngộ
Thương kính trao về đại gia đình Trần Ngô.
Vào tháng ngày gần cuối đời có lẽ ba má Mười ngao ngán cảnh đời ô trọc, nhân tình thế thái lọc lừa, dối trá. Nay ba má chọn nơi Mỹ Chánh nầy làm quê hương thứ hai chăng? Không đi tu ở đâu tốt bằng chốn rừng sim bạt ngàn nầy thật! Nơi cái xứ mà bầu trời hầu như rực lửa, chẳng bao giờ dịu mát lớp da đất. Mùa hè gió phương Nam thổi từng cơn nóng khô hừng hực, xoáy theo nhiều con trốt, bốc hốt tất cả mọi thứ gì có trong tầm cuốn, tàn phá dữ dội, cướp giật nhà cửa và nhiều thứ không thể tưởng tượng nỗi.
Mười ví ba má giống như Khuất Nguyên thời Chiến Quốc lưu loạn liên miên. Cổ nhân là người trí thức hữu ngã, hữu nghì, tài trí, đức hạnh, là bậc trượng phu ngay thẳng. Khuất Nguyên là một thi hào của Trung Hoa. Nhưng gặp Sở Hoài Vương bất tài, ham mê tửu sắc, không lo việc nước. Khuất Nguyên bèn nhiều lần khuyên can. Nhưng nhà vua không chịu nghe, lại nghe lời xu nịnh, đã hãm hại ông. Nên Khuất Nguyên bị lưu đày, ông buồn chán viết thiên ?Ly Tao?, làm bài phú ?Hoài Sả, rồi tự cột đá vào người nhảy xuống sông tuẫn tiết chết thảm, để cảnh cáo nhà vua. Sách Luận Ngữ đã viết: ?QUÂN TỬ nghiêm trang, mà không tranh với ai. Hợp quần với mọi người, mà không bè phái?. Thật quá hay.
Hoàn cảnh cổ nhân ngày xưa, và ông thầy thuốc sắp đến tuổi "cổ lai hi" nầy, không khác chi mấy. Có khác chăng là ở chỗ biết vận nước đến thời kỳ tha hóa, ba tự giam mình trong góc núi, lánh xa bể đời luân lạc, mong phục hồi mảnh đất trống, khô cằn sỏi đá đã bị đời vùi dập tơi tả, chính phủ chưa cần trưng dụng, lịch sử bỏ quên: Quên Đất Nước, quên con người. Nhưng, có hai người không quên ba; Một người là em của ba: chú Trần văn Lý, người làng Cây Đa, Phủ Hải Lăng, chú đã đứng ra lập Hội Đồng Chấp Chánh tại Trung Kỳ. Chú làm Thủ Hiến Trung Việt năm 1948. Người thứ hai là ông Trần Văn Hữu, người lập ra Quân Đội Quốc Gia, là một chính khách lỗi lạc. Công dân quý trọng ông, đồng tiền thời đó có giá trị cao, tương xứng với mức cần lao. Đồng bào được đãi ngộ xứng đáng. Hai ông đã mời ba tham chính. Ấy vậy mà ba chỉ mỉm cười hoà nhã cám ơn, ái ngại lắc đầu. Xin không. Ba má chỉ lặn lội lò mò tìm về nơi hoang dã. Đó là phần cuối con đường đi tìm sự sống. Bên người già nua run rẩy trên luống đất thiếu mầu mỡ, thiếu tin tưởng. Đó là kết quả một đời lao lực, cần mẫn của mẹ cha đã nhỏ từng hàng nước mắt chan mồ hôi hột trên luống đất khô cằn. Ba má vẫn không sờn lòng cấy lại nắm mạ đầu tiên, với hy vọng bừng lên sóng mắt bờ môi. Không có máy cày, thì con người làm thay trâu bò, vươn vai ưỡn ngực ra kéo, cổ cày vai bừa.
* * *
Trước tiên, Mười tạ ơn Thượng Đế cho con người có sức lực bền bỉ, dẻo dai, can đảm phi thường như ba má. Ngài ban cho sự sống ở môi trường nào, mức độ nào, gia đình Mười vẫn sống kiên cường, trong sạch và danh dự, cố vươn lên với đời. Khi ba má rơi vào hoàn cảnh cay đắng, Mười không hiểu ba má có hối tiếc vì quyết định (có thể sai lầm), lúc họ trở về trên bờ quê nghèo xưa cũ không? Con đường nào cũng có ánh sáng và bóng tối, có vinh hoa và cơ hàn, điều kiên định dứt khoát duy nhất là: Ba má đi trên con đường đó, có khả năng phán quyết sự vật trong bóng tối cơ cực. Hầu vượt ra ngoài ánh sáng sung mãn không? Hay, đôi khi ở ngoài ánh sáng, còn bị thất bại! Mười chẳng thấy ba má thở than, mà có phần cam chịu qua nhân cách sống vị tha, ba má coi trọng hạnh phúc, tình thương, phúc lợi người khác hơn sống cho mình. Ba đúng là vị lương y như từ mẫu. Vẫn hay, ba má không muốn thổ lộ nỗi niềm, xin người khác nhỏ giọt chút lòng trắc ẩn?
Không niềm vui nào khác ngoài việc trong nhà Mười thích nghe radio thường xuyên. Gia đình mình bây giờ gồm có bốn người, (ba má, anh Thuyền, Mười) rất biết ơn người đã chế tạ ra chiếc radio. Người đã nghĩ ra việc thiết lập đài phát thanh. Qua làn sóng điện, chúng ta có thể nghe nhiều chương trình vui vẻ & hữu ích. Mười xin cảm ơn các nhạc sĩ đã phổ lời thơ, ý nhạc chuyển vào lòng đời. Dù xa xôi muôn trùng cách trở tận góc núi đầu ghềnh. Dù tay chân bận rộn vô vàn, bên tai mình vẫn nghe được bao nhiêu chuyện buồn vui xếp lớp lăn tăn, hoặc nghe giọng ca ấm áp tình người qua lời ca tuyệt hảo: họ đã thở vào không gian lẫn thời gian, như: Duy Trác, Sĩ Phú, Anh Ngọc, Tôn Thất Niệm, Mai Hương, Lệ Thu, Thanh Thúy, Bạch Yến, vân vân? và giọng ngâm thơ dạt dào âm điệu trữ tình Hồ Điệp.
Nhất là gia đình Mười cần thùng thư cũ kỹ nhỏ xíu, nhưng rất quan trọng đối với mọi người. Nếu không có thùng thư, không có truyền thông báo chí, thì gia đình nầy không thể liên lạc với ai. Không hề biết tin tức xảy ra trong nước, qua tờ nhật báo mà ba đặt mua mỗi ngày. Mười cám ơn: Sở Bưu-điện, những người phát thư. Những nhà in ấn báo chí. Những văn, thi, hoạ, nhạc sĩ đã nhiệt tình trải lòng mình ra viết nhiều truyện hay khắp đó đây.
Ngày xưa ba má cho Mười tung tăng đến trường, vui vẻ vô tư lự hồn nhiên, như cánh bướm đầu xuân gặp nắng mới, Mười không biết lo đói khát, nhọc nhằn, vất vả, âu sầu. Vật chất không làm Mười lo toan phiền muộn. Còn bây giờ? Vấn đề quan trọng là làm sao có tiền mua thức ăn cho tám người lực điền dùng. Lo tiền trả công nhật cho họ vào chiều thứ bảy? Lo thu gom đống củi khô vào chất bên chái hiên nhà, nếu để củi ngoài sân, có cơn mưa rào bất chợt, bị ướt, thì làm sao nấu thổi? Mười rất biết ơn người nông dân đã ra sức làm lụng vất vả, nhọc nhằn. Để người chủ và nhà nông cùng chia sẻ cơm ăn áo mặc. Tìm đâu có gạo, mắm, lương khô mà dự trữ mùa đông? Khi cơn mưa phùn gió bấc, cơn rét rừng lạnh xé ruột da, nếu không có người dệt cửi, không có thợ may, thì không có áo ấm che thân! Sung sướng thay khi mình không phải chạy lo từng ngày.
Nếu vườn nhà ai gần hơn, có lẽ anh Thuyền, (và sẽ có Mười theo anh) hái trộm rau cải, cây trái, mà làm món ăn. Thật thế! Vấn đề giáo dục, trí dục, đức dục, đạo đức ở học đường, qua sách vở, từ chương. Nay trở thành khôi hài đen trước nỗi cùng khổ. Thì, giờ giáo huấn công dân, "Tủ Sách Học Làm Người", là con số không rỗng tuếch. Sách vở, bút viết, giấy trắng mực tím mực xanh, mà làm gì, nếu mình đang "đói rã ruột". Khi sự đói khát đẩy con người đến cao độ, nàng tưởng tượng, thèm miếng ăn kinh khủng. Mười mơ mình giàu sang, ăn toàn cao lương mỹ vị. Chỉ cần nghĩ đến thôi, nước miếng đã ứa ra đầy miệng, là Mười cảm thấy khát khao, cố tìm mọi cách để có món ăn. Dù là món ăn đạm bạc nhất. Thế nhưng, Mười vẫn tri ân những ngôi trường cũ, và nhất là trường đời đã dạy nàng học hỏi nhiều điều thú vị qua những năm tháng lớn khôn.
Một hôm anh Thuyền bẫy hụt con chim hoàng anh rất đẹp, anh sợ nếu nắm chặt, nó sẽ chết. Nên anh nắm nhẹ quá, nó mỗ vào tay, và vùng ra thoát thân. Hai anh em đứng dưới cây tùng cụt cành, tiếc hùi hụi ngẩn người nhìn theo con chim hoảng hốt bay vút về chân núi. Trên tay anh vương lại vài lông ống, có tí máu hồng tươi. Anh Thuyền không dám bẫy bắt chim nữa. Mười thẩn thờ đem chiếc lông chim vào nhà, cắm trong lọ sứ nhỏ trên bàn học, vẩn vơ buồn suốt mấy ngày. Thời gian trôi qua, giữa bến bờ yên lặng kéo dài, cánh lông không còn tươi màu vàng sáng, sắc nét như xưa. Gợi lên lòng Mười buồn phiền nhiều hơn khi chim Lẻ Bạn:
Mỗi ngày bên khung cửa.
Nhìn qua nóc nhà xưa.
Tôi ngỡ ngàng quan sát:
Con sáo đậu dàn thưa.
Hai con kia rỉa cánh.
Một con nằm ngắm mây.
Bạn tình trên góc ngói.
Thơ thẩn nhìn mây bay.
Cho đến mãi một ngày.
Hai con kia không thấy.
Đã vỗ cánh xa bay.
Một mình sáo còn lại.
Trong gió đứng bơ vơ.
Lạc lõng và trông chờ.
Tiếng gọi đàn thương nhớ.
Mình cảm thấy ngẩn ngơ.
Buồn xa vắng mênh mông.
Lẻ bạn giữa trời đông.
Dù chỉ là chim sáo.
Tha thiết tình mặn nồng.
Giọng kêu chim lạc đàn.
Lặng lẽ hờn tiếng vang.
Còn đâu lời chim hót
Thánh thót xuân tình sang. (*)
Ít lâu sau, Mười lấp ló nơi song cửa, len lén nhìn hai con sáo làm tổ dưới nhánh chạc ba cây vú sữa, cạnh góc hiên nhà. Trên cây dừa, chim ác là là thân đen nhánh, có khoan trắng ở ức, nó không biết làm tổ, nên rình tổ trống vào đẻ trứng nhờ. Mười lắng nghe anh chị chim líu lo trò chuyện, nhẹ nhàng, thánh thót. Nàng đoán hôm nay chúng vui hoặc buồn. Nàng cười vu vơ, dõi mắt nhìn công việc xây tổ diễn tiến đến đâu. Một hôm, Mười ngồi nhặt rau bên hiên nhà, thì nghe tiếng chiêm chiếp, ríu rít non nớt trên tổ. Mười đứng dậy nhìn lên. Hai cái đầu nho nhỏ lơ thơ vài sợi lông, mỏ vàng mở lớn, chim ngóng cổ dài đưa qua đưa lại, run run, chờ mẹ mớm mồi. Sau đó ít lâu, nàng thấy bố mẹ làm huấn luyện viên cho bầy con nhỏ chuyền cành, chim bay từng đoạn ngắn. Khi mọc đủ lông cánh, chim bay đi xây dựng tổ ấm riêng. Thỉnh thoảng chúng quyến luyến quay lại chốn xưa, xôn xao, ríu rít nhiều giọng hót ân tình. Lạ thay, lúc trưởng và thành quay trở về chốn cũ, chim rủ thêm nhiều bạn bè thân thuộc, nội ngoại hai bên, hội hè đình đám, chúng ríu ra ríu rít suốt tháng. Chúng cất cao tiếng hót thâm tình lảnh lót bay xa, hân hoan hòa ái không hề biết mỏi mệt. Chúng tri ân nơi chúng đã chào đời. Cây vú sữa càng đông vui. Má vãi gạo, lúa, ra sân cho chim ăn. Chim có đàn cất tiếng hót thật hay. Như thể chim biết tạ ơn người ưu ái đãi ngộ.
Nhìn đàn chim chao cánh lên trời cao trong tiếng phi cơ gầm rú, Mười lại trang trọng nghĩ đến những người Lính Việt Nam Cộng Hòa, và tri ân họ: Anh pilot lả lướt vút cánh vào vùng đạn mũi tên. Anh Lính Dù bay bướm lơ lửng trong không trung. Anh Hải Quân hào hoa trên những giang thuyền dập dồn sóng vỗ. Anh lính Bộ Binh, Pháo binh, Thủy Quân Lục Chiến. Thiết Giáp. Cảnh Sát. Địa Phương Quân, vân vân? Họ vất vả nhọc nhằn băng rừng vượt núi, lội đầm lầy?, hầu giữ gìn non sông Việt Nam gấm vóc không hổ danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Lính đem an cư bình yên đến từng ngỏ nhà. Thì, nếu Anh Là... Người Thương, hoặc anh là ai, Mười cũng?
Nếu anh: Lính Nhảy Dù
Can trường giữ biên khu
Sánh vai ta cùng bước
Nắm tay diệt quân thù.
Nếu anh là Bộ Binh
Hay là lính Pháo Binh
Đọc thư em dịu ngọt
Những vần thơ chân tình.
Anh là Thiết Giáp quân
Em là mây mùa xuân
Lang thang trên đầu núi
Che nắng cho người thân.
Nếu anh là Phi Công
Lả lướt trên thinh không
Em là vì sao sáng
Soi đường giữa đêm đông.
Nếu anh: Lính Hải Quân
Em mơ là Nữ Hoàng
Nối nhịp cầu tao ngộ
Tình yêu xuyên đại dương.
Nếu anh yêu QUÊ HƯƠNG
Cùng chung một con đường
Em nguyện làm thi sĩ
Đem thơ trải tình thương. (*)
* * *
Tháng ngày dần qua, dần quả trong niềm tiếc nhớ không cùng về dĩ vãng đậm mầu, đã một thời đượm nét phong phú hân hoan. Một mình Mười len lỏi trở về trên con đường mòn vắng khuất, nàng lặng lẽ nghe tiếng lá khô lao xao trở mình? Tiếng vạc kêu đàn lẻ loi. Tiếng còi tàu buồn bã rúc trong sương chiều phủ sớm. Con tàu đã đi xa khuất, còn để lại một dải khói trắng đục cuồn cuộn lướt thướt kéo dài đến tận chân mây, trôi trôi trên phiến trời mùa đông xanh xanh bàng bạc và ảm đạm lạ thường. Nhìn con tàu kéo theo dải lụa xám đục, khiến lòng Mười buồn bã vô hạn, trong lúc tiếng bước chân Mười quạnh hiu, cô lẽ dẫm trên sỏi đá lạo xạo. Mùa Hè gió Lào thổi qua dãy trường sơn, nóng muốn lột da, cũng khiến Mười buồn. Tiếng lá tranh xào xạc lùa trong gió mùa Thu rì rào. Mùa Đông gió Bắc thổi về, lạnh lẽo run cầm cập, cảnh vật thảm sầu, cây cối tàn tạ bật gốc, ngả nghiêng. Phiền úa. Chao đảo.
Tất cả... Mười nghe rõ, như tiếng lòng vang vọng. Buồn thiu. Còn đâu nữa những ngày yên vui bên mái trường xưa. Nơi có chuỗi cười giòn hồn nhiên vỡ toang cổ họng! Còn đâu tháng ngày tung tăng dạo bước, cùng bạn bè qua bao thác mộng hồ mơ! Đâu còn ngày cũ vai kề vai, tay trong tay, mắt nhìn mắt, môi tìm môi. Hai người yêu chụm đầu bên nhau, mình ngắm nhìn mặt trời êm ả gửi muôn tia nắng vàng rạo rực thương tặng trái đất!? Còn đâu suối gần đồi xa, cánh đồng cỏ nâu vàng êm mịn như nhung lấp ló ngàn tia nắng lung linh đuổi nhau trên lá cỏ. Mặt trời âu yếm nhảy nhót trên hai mái đầu xanh chụm lại. Ta đọc cho nhau nghe bức thư tình thắm thiết. Tìm đâu thấy con đường đất đỏ, ngoằn ngoèo uốn lượn thấp cao xẻ sườn đồi ra làm đôi. Đâu đêm đông buốt giá xứ lạnh Lâm Viên Đà Thành. Dưới bầu trời đầy sương mù, có đôi bạn nhìn lên chòm cây tìm đếm các vì sao e lệ qùy gối bên nhau nép mình bên đài mây. Mình cùng ngắm nhìn đời sống phù dung trần thế. Còn đâu buổi trưa Hạ rạo rực tình thư. Ngày Thu xôn xao nỗi nhớ. Chiều mùa Đông ấm áp mật ngọt tình hồng cạnh lò sưởi! Ôi! Quá khứ xa xôi, tưởng đã tàn phai theo tháng năm, nào ngờ bừng dậy theo bước thấp bước cao, đang trôi về trong đời sống khổ hạnh, lắm ưu phiền. Cái tình nho nhỏ chia xa, Mười tưởng chừng có thêm ít sợi tóc đã rụng. Thật ra, đây là một cái đầu đầy tóc rụng! Thực tế khổ đau. Thực tế buồn lắm! Và; Kỷ niệm chẳng thể phôi pha.
Mười đóng khung cuộc đời mình nơi khu rừng già hoang vắng. Không ai biết mặt biết tên. Giản dị âm thầm, chất phác nghèo nàn như cô thôn nữ đồng nội được số phận an bài. Cuộc đời nàng sẽ bình thản, không khùng câu mồi bằng miếng bả phù vinh, hầu đạt đỉnh chung trong hoàn cảnh quá ư khắc nghiệt sao!? Tuy nhiên, rảnh rang đôi chút, Mười mở lại xấp thư cũ, nhìn ảnh chụp chung với bạn ở Đà Lạt, nàng xót xa tự hỏi: "Ơ! Có một thời xa xôi nào, mình sung sướng vô tư lự, vui vẻ hồn nhiên đến thế sao? Một Thương-Mười tươi thắm giữa vườn hoa học trò, có người yêu hào hoa phong nhã. Và mình đã sống nơi chốn phồn vinh ấy sao? Thật đúng là nàng đã sống những ngày qua. Chứ không là mở" Chính tháng ngày sống gian khổ sau nầy nơi chốn nhà quê, vào vùng chiến tranh, đã cho Mười biết bao đấu tranh với từng cơn bão lòng. Ngắm ảnh bạn cất trong album, bên góc va ly, rồi nhìn mặt mình từ phiên gương nhỏ phai mờ, chiếu rọi lại. Mười thấy nhói buốt từng cơn đau trong tim. Ước gì đằng sau tấm gương rạn nứt nhiều miếng kia, họ đang chứng kiến Mười có cuộc sống thế nầy. Bạn sẽ cười vui, chìa tay ra đón tôi. Hay tôi chỉ thấy phản ảnh phiên gương lạnh lùng!?
Lòng Mười chợt nao nao, xót xa, nhớ nhung quặn lòng, ưu phiền man mác, ấy mà? nàng vẫn nhớ ơn ân tình đó bất tận. Một áo lạnh nhung mầu vàng mơ, kỷ niệm ngày ấy do chàng ân cần trao tặng. Chiếc áo sao gợi biết bao nỗi buồn phiền, không vui thích. Tại sao? Có phải nay Mười chỉ còn một chiếc áo mong manh nói lên phận nghèo, sự tàn phai theo tháng ngày đong đưa nỗi nhớ thương mến tiếc trên nhánh thời gian? Lắm lúc, Mười nằm vắt tay lên trán, nhìn mái tranh thủng lỗ, đem ánh mặt trời xuyên qua, nhảy nhót trên nền đất nện mốc meo. Nàng nghe tiếng kèo cột rít khô khan, vặn mình răn rắc. Mỗi lần gió mưa chuyển mùa, thì bấy nhiêu dự tính tốt đẹp của cô gái phơi phới nét xuân-thì, chợt tiêu tan theo mây khói. Cổ nhân đã nói: "Thứ nhất vợ dại trong nhà. Thứ hai nhà dột. Thứ ba nợ đòi". Gia đình nầy hội đủ ba yếu tố đáng buồn chăng?
Dẫu sao sống trong vùng lửa đạn liên miên, Mười vẫn xin cảm ơn mái nhà tranh đơn sơ: nơi đã từng là chốn dịu êm nồng thắm cho gia đình Mười an vui trong cơ hàn thanh bạch. Vậy mà chốn đơn hèn ấy từng ấp ủ đầy tình yêu thương cuống quít mẹ cha ngọt ngào, đã cho chúng con mật ngọt tình yêu gia đình đằm thắm. Cho con biết quyến luyến tình thân thiết với tha nhân, có tình quê nồng nàn. Và hòa ái tạ ơn bếp lửa sưởi ấm mình trong ngày đông giá rét. Ánh lửa hồng nhảy lung linh tự miền quê chân chất, đã lồng vào tình người Việt Nam thấm đẫm hương yêu trong ta...
* * *
Gia đình chị Huyền đang ăn cơm trưa, thấy em đến thăm, cả nhà vui vẻ chào hỏi. Mười xuống bếp lấy thêm chén đũa và ngồi vào bàn ăn qua loa chén cơm. Xong, em lấy quà ba má gửi cho gia đình chị ruột. Mười kể tình cảnh cha mẹ già ở chốn đèo heo hút gió cho anh chị nghe, rồi nói:
- Theo em thấy, với số vốn liếng ba má đã bỏ ra lâu nay để: phá đồi vỡ núi đồi mà làm mấy trại ương cây giống rất quy mô, và đồ sộ đó, tốn tiền bạc và sức lực nhiều quá. Chi bằng ba má mua một cái nhà nhỏ, con cái nếu ai hiếu thảo, mỗi tháng tài trợ cho ba má them vài ngàn. Ba má sẽ sống nhàn hạ yên ổn, không quá khổ cực thân xác như ở nhà quê. (Nếu ba má không thích ở với ai, thì như vậy). Chứ "giàu nhà quê không bằng ngồi lê thành phố". Ba má già rồi, vẫn khổ cực với ruộng vườn vất vả làm việc quên ăn quên ngủ, vẫn không hết việc. Suốt đời ba má cơ cực. Dù có tri thức, nhiều tiền thật, nhưng chẳng mấy khi thân tấm thân ba má an nhàn.
Hôm kia ba má đã giao mọi việc cho mấy người bà con ở dưới Làng lên trông coi. Ba má quá mệt mỏi vì vật chất của cải phù vân, không muốn gì nữa. Thú vui duy nhất của ba là thích mở mang đất đai. Quy tụ bà con, cháu chắt, xóm làng, ai không có công ăn việc làm, gom họ về ở một chỗ. Ba lo cho họ có cuộc sống khá hơn, là niềm ước mong canh cánh bên lòng. Với ý chí kiên cường, bác ái, ba đã đưa hai mươi lăm gia đình từ dưới làng xa xôi lên vùng nầy làm ăn sinh sống thoải mái, đầm ấm và thành công. Cha mẹ già ở lại giữa cảnh đồng quê, hoang vắng buồn tênh. Ba má đã sống đớn hèn, thầm lặng trong bốn mùa thương khó, âm thầm với tháng năm trầm thống loạn ly từ Thành xuôi về Tỉnh, về Xã, Ấp, trên con đò quê hương. Qua bao thăng trầm trĩu nặng hai vai gánh gồng, còm cõi, vất vả ngược xuôi.
Khi nghe em bàn tính về ba má, anh Thương, chị Huyền, đồng ý với em điểm nầy, họ hẹn đầu tháng sẽ ra thăm ba má, và bàn chuyện đó. Chị Huyền cười, nói với anh:
- Nhiều khi thấy ba má quá tội. Cha mẹ nuôi mười con. Nhưng mười con không nuôi nỗi cha mẹ là vậy. Mình cứ mua một căn nhà nhỏ nhưng đầy đủ tiện nghi cho ôn mệ an cư, tự do. Có lẽ tốt hì.
Các cháu Châu, Trân, Vân, đã đi học trường dòng Tabert. Sơn đi nhà trẻ. Anh Thương đổi về làm ở Tiểu đoàn 52 Công Binh Kiến tạo, trong nhà có tất cả là chín người, nhưng chỉ mỗi mình anh đi làm việc, đồng lương Thượng-sĩ, không thiếu hụt, nhưng không dư dả! Anh Thương đổi ra Đà Nẵng, cả nhà lại dọn đi, đời lính nay đi mai ở, vợ con lính chẳng mấy khi yên ổn một nơi. Chị Huyền đã sanh thêm một cháu trai. Tất cả năm cu cậu! Chị rất kỵ vì người ta nói: Có năm thằng con trai liền một dây ở trong nhà, là ngũ qủy! Chị mong kỳ nầy có một "công nương". Nhưng khi thấy mặt bé sơ sinh khôi ngô lạ, chị không muốn gì hơn. Về nhà, chị lo xông hơ rất kỹ: Gừng muối, nghệ, riềng, giã nhỏ, mỗi loại một hũ, ngâm rượu chôn dưới đất bách nhật, xong chị đào lên. Thứ thoa mặt, thứ thoa thân thể. Chị nằm trên vạt giường tre, ở dưới gầm giường thì đốt hai lò lửa, chị lăn qua trở lại, như con cá nướng. Chị luôn xức dầu gió, gội đầu bồ kết, trùm kín mền, xông nước lá hương nhu, lá sả, lá bưởi, lá cam, quít, ổi, vân vân...
Căn nhà nhỏ lúc nào cũng tối mù, luôn luôn thiếu ánh sáng. Không có gió và không khí, chị kiên gió nằm trong phòng kín, khiến cả nhà ngột ngạt, vì mùi hỗn hợp trên toả ra muốn nghẹt thở. Thật khó ngửi. Thấy chị ở cử, Mười sợ đến rùng mình. Bà mẹ chồng chị chịu thương chịu khó, bà lo cho con dâu và cháu nội chu đáo, mặc dù nay cụ gần chín mươi tuổi. Do chẳng có ánh sáng, mắt không tỏ, cụ sơ ý chưa lau sạch nước, cụ lại bôi nước bả trầu vô cuống rốn cháu nên bị lở. Khi chị phát hiện ra cuống rốn cháu lở loét, thì đã muộn. Từ bác sĩ công, tư, bất cứ nghe ai mách bảo thầy hay thuốc giỏi, anh chị đều đi chữa trị cho cháu. Có người bày tìm con gà ác, họăc con cóc đen còn sống, mổ bụng chúng, úp con vật lên ngực cháu trong bảy ngày, họ cũng làm. Anh chị tốn tiền kinh khủng.
Sau cùng cháu nằm trong Tổng Y Viện Duy Tân suốt hai tháng hè. Tại đây Trung-úy y-sĩ Ngọc độ ba mươi tuổi, ở Sài Gòn mới đổi ra làm việc, ông rất tận tâm, chu đáo. Ông ngồi hằng giờ bên giường bệnh nhân, để theo dõi từng diễn biến nhỏ nhặt. Có lẽ sự nghiêm nghị, đứng đắn và lo lắng, khiến khuôn mặt trắng trẻo có in thêm nếp nhăn, ông đeo kính cận, mắt đỏ hoe trân trân nhìn từng cử động cuả cháu, ông giàu lòng nhân ái, chứng kiến nhiều cảnh thương tâm bi lụy, nước mắt ông sẽ tuôn chảy nhiều. Mỗi lần lên cơn động kinh uốn ván, cháu khóc thét, tay chân co giật, bụng ưỡn ra, đầu ngửa về sau lưng, mắt dại thần sắc. Cháu càng ngày càng gầy trơ xương, trông quá thảm. Y sĩ Trung-úy viết giấy cho cháu về nhà thì hai giờ sau cháu tắt thở. Cháu ra đi êm ái như ru đời vào giấc mộng tiên, cháu không vặn mình la khóc, làm kinh, như khi cháu còn sống. Cháu nằm giữa hai hàng bạch lạp sáng ngời. Chính tay cha đóng quan tài cho con, mà mắt như anh rể Mười lạc thần.
Người ta nói khi văn thi sĩ tả chuyện đau buồn, ai oán, chia ly, họ ưa thêm thắt trời mưa gió bão bùng, lụt lội tơi bời, cho ly kỳ, hấp dẫn. Nhưng tháng nầy là mùa mưa, vài hôm nay đã mưa lớn. Mưa ngoài trời thật. Mưa cả trong lòng. Nhiều người đến thăm viếng, chia buồn. Chị Huyền phân công mấy đứa con canh chừng xác của cháu Hải từ tám giờ tối đến mười giờ đêm. Anh chị thức từ mười giờ đến ba giờ sáng. Mười và con bé người làm coi chừng xác cháu từ ba giờ đến sáu giờ sáng. Ba giờ sáng! Hai phụ nữ non đời chết nhác, tim đập thình thịch, quặn thắt từng cơn đau điếng trong lồng ngực nghẹt thở, họ ngồi co ro nơi góc ghế. Nhắm mắt lại Mười sợ ma, mở mắt ra nhìn cháu nằm trơ trọi trên giường lạnh lẽo, nước mắt Mười tuôn trào. Mười len lén nhìn đâu đâu cũng sợ ma. Sợ kinh khủng! Mười lanh toát cả thân run sợ đi vặn đồng hồ báo thức, cả nhà dậy lúc bốn giờ. Mười không dám vô phòng ngủ, sợ ma đi theo mình. Cô em bị chị la cho một trận, vì tội lếu láo vặn đồng hồ lên.
Chị Huyền không biết khi anh Tư bị tai nạn xe hơi khá nặng, phải chở vào cấp cứu. Chị Khánh gọi Mười lên bệnh viện coi chừng anh (cho chị ngủ trưa một chút). Thấy anh Tư đầu băng trắng, trán và hàm dưới bị bể, mặt mũi sưng húp, tím bầm méo mó, tay chân anh đầy máu, mỗi lần anh thở phì phò thì phun máu mũi, khó nhọc. Mười sợ đứng tim, ngất xỉu. Đủ ba lần, Mười đến thăm anh rể là xỉu, khiến chị Khánh phải gọi y tá, mời bác sĩ đến chích thuốc cho Mười. Chị Khánh tức bực vô cùng, đã mắng nhiếc em, có đứa em yếu bóng vía, khi đụng chuyện, cần nhờ em giúp đỡ một tay. Chẳng những em không làm nên trò trống gì, mà khiến chị thêm lo lắng, vất vả mệt nhọc hơn. Các chị không biết rằng: Mười rất nhạy cảm, thương cảm, đầy xúc động trước cảnh thương tâm, không thể cầm nỗi lòng trước những đớn đau của người khác.
Trời mưa gió và từng cơn bão ùa về suốt tuần, lê thê áo não không lúc nào tạnh, khi mưa nặng hạt, khi mưa phùn gió bấc. Mặc dù thế, lúc đưa cháu đến nơi an nghỉ cuối cùng, bạn bè thân nhân đi tiễn biệt rất đông. Ba má, anh chị ở Huế đã vào Đà Nẵng trước ngày đám tang cháu vài ngày, toàn gia đình chụp chung vài tấm ảnh lưu niệm. Chị Huyền kêu khóc thảm thiết, người chị mềm nhũn như cọng bún, dù hai người kèm hai bên nách nhưng chị vẫn đi không vững. Kể từ khi chị mang bầu cháu đến bây giờ, chị tốn rất nhiều tiền, sức lực chị đã cạn kiệt hết.
Sau ngày cháu từ trần ít lâu, Mười cắp sách đi học lại, Mười bận túi bụi với bài vở khó, do mình quá dốt, nhưng nào còn có ai ở bên cạnh chỉ dạy cho? Trường lạ, lớp mới, không có một người bạn hỏi thăm, dù câu chào hỏi xã giao lạt lẽo, ngắn nhất. Thật buồn, chẳng có gì vui. Mười tự đóng khung cuộc đời mình giữa bốn bức vách, khép kín nụ cười, đóng cửa trái tim đau thương vào cuối ngăn kéo vô hình. Mười buồn bã xếp thư từ hình ảnh, tặng vật lưu niệm của Hoàng Phương Nam niêm phong vào một túi xách, rồi lặng lẽ cất dưới đáy va ly, chờ lúc nào có dịp thuận tiện, chính tay mình sẽ hoàn lại cố chủ. Cuộc chia biệt dẫu không hề có lý do, thì dù sao ít nhiều đã phụ tình nhau rồi. Hơn nữa thời gian cách ly quá lâu, không thư từ liên lạc gắn bó, không gian vời vợi cách trở, xa xôi biền biệt, thì ít nhiều gì, tình cảm cũng nhạt phai trong lòng mỗi người. Mười muốn trở thành cánh chim hạc bay thẳng về miền Nam, đứng im trên cành cao xa xa nhìn thấy Nam hạnh phúc. Thầm nhớ anh, yêu mến anh như người thân quen nhất. Thua thiệt có về mình, Mười xin nhận chịu.
_ * _
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
Vợ chồng gã xung khắc. Thật kỳ, chồng nói một câu thì vợ tức chịu không nổi nói lại hai câu. Chả phải là vợ gã muốn gã khùng lên nhưng ả ghét bị hiểu lầm. Ả bao giờ cũng muốn nói cho chồng hiểu được mình nghĩ gì mới thôi. Thế mới ra lắm chuyện.
Có trách, trách ông Tơ, bà Nguyệt, xe duyên lầm cho gã và ả. Lầm gì nổi, đi mãi tới đường cùng, chả thấy ai, giờ có là hai người xấu nhất trên thế gian này, gặp nhau tại một góc trời, không còn có thể nhìn chỗ nào khác thì gã và ả vốn là của nhau nên mới gặp nhau kiểu đó. Còn lạ gì trò đời nữa! Ả trách ông Trời một thời gian rồi thôi không trách nữa. Ả đâm ra tội nghiệp gã, vớ phải mình, một người đàn bà hay nói. Trách mình không được bao lâu ả lại đâm ra hận gã, hận là tại gã nói ít thôi chứ có phải ả muốn nói nhiều đâu. Cái vòng này cứ luẩn quẩn, riết rồi ả chả còn biết trách ai, mà trách cái miệng mình, cái đầu mình, nghe chừng như ả chưa bao giờ muốn làm điều đó, lòng ả ý tốt mà. Có ai hiểu dùm cho ả không?
Lâu rồi, ả và gã cũng chả thân thiết gì, tại cứ hục hặc mãi chữ nghĩa mà. Nghĩ mà tội! Khó lắm mới có 2 mụn con, đó là lúc quẩn, chả muốn đem vạ về nhà. Ả và gã ngã vào nhau, dù chỉ một lần trong bao nhiêu năm, Trời Phật hoá thương, cho đại hai đứa bé cho ả và gã bận rộn, bớt cãi nhau cho thiên hạ đỡ tiếng ồn. Không cãi đâu có nghĩa là êm ấm. Ả chỉ bận quá nên không có thời gian mở miệng. Gã chỉ mệt quá vì lo tả, sửa cho hai đứa con mà tạm quên cái tính nói nhiều của ả đi, cho ả muốn nói gì thì nói. Mệt quá rồi! Ông ngã vào có hai lần thì hai lần đúng hai đứa con. Thật tình gã cũng công nhận gã có duyên số với ả thật. Thế không thì sao mà cứ buồn chán quá, nghĩ tới chuyện xa nhau là lại có chuyện bị níu kéo khiến gã phải suy nghĩ lại mà ở lại với ả như thế này.
Ả cũng lạ, khổ lắm! Mà biết có đi đâu, như lúc chưa chồng, họ hàng anh em người ta khinh cho chứ lại. Qua đây 15 năm, ả cũng vẫn chưa bức ra được cái áo làm một người đàn bà Việt nam, sợ tai tiếng bỏ chồng. Ơ không sống được với nhau thì bỏ chớ còn để làm mắm à. Ả đâu có sợ bỏ, nhưng cũng như những người đàn bà khác, ả thấy tội cho hai đứa con, có bố mất mẹ, có mẹ mất bố, tiền phụ cấp, thăm nuôi, chán bỏ xừ. Á lên nét, cũng thấy khối người được ra phết, nhưng biết người ta có thực không, lại ôm cái gối mơ mà ngủ rồi bỏ cái hiện thực dù có phủ phàng trước mặt đi nữa, ả không nỡ. Ả cười cho suy nghĩ vu vơ của mình. Nét là nét, thực là thực. Ả lại pha trộn hai thứ vào, thực với chả nét. Có nói ả tửng cũng không quá lời.
Ả và gã, ngày này qua tháng nọ, không cãi nhau thấy buồn, cười với nhau mãi cũng chán. Có người dại miệng bảo, vợ chồng không cãi nhau không phải vợ chồng. Đồ cái thằng hâm ! Thế khó chịu sau lúc cãi nhau có ai khó chịu dùm không cho này.
Ả và gã có lẽ lúc này hơn bao giờ hết tin rằng vợ chồng không là cái gì cả ngoài hai chữ Duyên và Số, ờ phải, duyên nợ và số phận ạ.
Không tin? Không tin cũng đâu thể làm gì khác hơn đâu.
Cứ nhìn những cặp vợ chồng khác mà coi thì rõ.
Vì Lý do kỹ thuật, xin tạm nghỉ 1 kỳ. Chân thành cáo lỗi cùng bạn đdọc.
Thác Bản Giốc
Ngưòi ta thường bảo con người có thể kéo dài đói ăn trên mười ngày nửa tháng nhưng khát thì khó quá một tuần. Người Việt ta lại gọi một cách nôm na thân thương quốc gia mình bằng một từ đơn âm Nước còn có nghĩa là nước để uống để dùng. Trong ngôn ngữ toàn cầu khó mà tìm được từ nào mà tượng hình tượng thanh đánh động vào ngũ quan tình cảm tâm hồn một cách tự nhiên thân tình như từ Nước của chúng ta.
Thật ra trên thế giới, nước nào cũng có nhiều xưng danh cho đất nưóc mình. Pháp chẳng hạn là Patrie, état, nation, pays natal, la terre de nos ancêtres, tiếng Việt ta Tổ quốc, Quốc gia, Quê hương, đất nước, tiếng Hán Việt là QUỐC, nhưng chưa tìm thấy tiếng nước ngoài nào mà có từ có dấu ngắn gọn bình dị với võn vẹn bốn chữ cái mà gợi tình lẫn ý quan yếu quen thuộc gần gũi thiết tha như chữ Nước của ta.
Dẫn chứng ta có trong các từ hay thành ngữ Hán Việt như « tận trung báo quốc », « lương sư hưng quốc », quốc nạn, quốc hận,?
Trong bản nhạc « Tình ca » của Phạm Duy « Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời? »
« Tình hoài hương » : « Quê hương tôi có con sông đào xinh xắn,
Nước tuôn trên đồng vuông vắn »?
« Thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc. »(Trần Bình Trọng)
« Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. »(Lý Thường Kiệt).
« J?ai quitté mon pays? » (Enrico Macias)
« Pourquoi le prononcer, ce nom de la Patrie ?
Dans son brillant exil, mon c?ur en a frémi ; »?(Lamartine- La terre natale)
« Je ne connais de mon pays que des photos de la guerre « ?
Un jour, j?irai là bas te dire bonjour, Vietnam. »( Marc Lavoine ? Bonjour Vietnam)
Nói về nước, chữ Nho là THỦY, nước còn là nguồn sống cho sinh vật cỏ cây. Trên mặt địa cầu nưóc chiếm 2/3 diện tích chung phần còn lại 1/3 là đất. Không có nước không có sự sống trên hành tinh nầy qua nước mưa, nước suối, ao hồ, sông biển.
Trong thơ văn, ca dao tục ngữ :
« Cây có cội, nước có nguồn. »
« Uống nước nhớ nguồn. »
« Nước non năng một lời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng non. » (Tản Đà )
« Đời cha ăn mặn, đời con khát nước. »
« Còn nước còn tát. »
« Nước trong quá thì không có cá,
Người xét nét quá thì không có bạn bè. ».
Sơn tinh Thủy tinh
Bức tranh thủy mặc...
Vì thế ngay khi đổ bộ lên mặt trăng trước kia hoặc như hiện nay Hỏa tinh, các nhà phi hành gia hay các robot trên các phi thuyền thám hiểm không gian được phóng lên thường có nhiệm vụ đầu tiên đặc biệt là lấy mẫu đất trên hành tinh ấy đem về phân tích xem gồm có nguyên liệu gì nhất là có sự có mặt của nước để chuẩn bị cuộc hành trình định cư trong tương lai.
Hơn thế nữa, thông thường ai cũng biết là người dân nước nào tất hiểu rõ thấm nhuần, sử dụng nhuần nhuyễn tiếng nước mình hơn. Mỗi ngôn ngữ đều có sắc thái đặc thù riêng «nồi nào vung nấy » do đó rất khó hoặc không thể so sánh cho đúng được dù trong thực tế có tiếng của nước giàu nghèo, nhược tiểu hay siêu cường, diện tích nhỏ to, nhiều người sử dụng hơn.
Chẳng hạn như trước kia, tiếng Pháp được xem như là ngôn ngữ chính yếu trong văn kiện bang giao quốc tế vì tiếng Pháp dễ đọc, rõ ràng diễn tả chính xác qua cách sử dụng khúc chiết Mode và Temps (Cách và Thì ) của động từ. Tuy nhiên, văn phạm Pháp quá phức tạp, chi li còn áp dụng nhiều quy tắc cầu kỳ như Accord du participe passé, cách chia động từ theo mode temps và ngôi thứ quá phân định, do đó viết khó hơn nói, đòi hỏi trình độ thực sự nếu không nhiều lỗi chính tả, sai sót trong lối hành văn. Từ đó tiếng Pháp mất dần sức hấp dẫn và địa vị hàng đầu của mình nhường chỗ cho tiếng Anh thực dụng luân lưu chuyển tải dễ dàng hơn.
Ngoài ra ngày xưa chúng ta hình dung bầu trời rộng mênh mông bao la không thuộc riêng một ai. Rồi càng văn minh luật quốc tế phân định vùng không gian nào trên đầu là không phận của nước đó. Phi cơ phải tuân thủ triệt để luật trên, nếu vi phạm có thể bị triệt hạ như thường. Thế là bầu trời cũng bị con người tư hữu hóa luôn rồi.
Ngày nay môn địa lý chẳng những cho ta biết rõ những những nét đại cương về trái đất, phân định rõ bằng những cộc mốc biên giới vị trí biên giới của mỗi quốc gia. Vậy là đất cũng được bàn tay bộ óc con người chi phối theo luật chiếm hữu của nhân loại.
Còn nước thì thế nào ? Cũng có luật giao thông hàng hải quốc tế, thềm lục địa mỗi nước được tính bằng hải lý. Nhưng giống như không phận vì không thể có cộc mốc biên giới hữu hình rõ rệt như trên đất liền nên có nước lớn mộng bá chủ xâm lăng trong vùng Đông Nam Á chẳng hạn, bất chấp luật quốc tế ấn định lại mốc biên giới mới ở miền Bắc nước ta ở Ải Nam quan và Thác Bản Giốc và đơn phương ngang nhiên hơn vẽ « đường lưỡi bò » trên Biển Đông uy hiếp ép đẩy lùi thu hẹp thềm lục địa các nước nhỏ lân cận hay chung quanh gây tranh chấp biển Đông.
Đường lưỡi bò
Chúng ta cũng biết là tự ngàn xưa, ngoài sự cần thiết cho đời sống con người như ăn uống vệ sinh, nông nghiệp, ngư nghiệp, chuyên chở vận tải, hải lộ đường thủy còn là đường giao thông đầu tiên nhanh chóng hơn đường bộ để lưu thông, liên lạc khám phá, mà con người đã biết sử dụng bao phương tiện qua đường sông đường biển, lúc đầu bằng những dụng cụ thô sơ như bè, bè mảng, ghe, thuyền, thuyền buồm rồi dần dần đến tàu chạy bằng hơi nước, rồi máy nổ và điện tử, tàu hiện đại ngày nay vượt đại dương, càng ngày càng to lớn tiện nghi, an toàn và thoải mái hơn gấp bội.
Và chúng ta không quên cũng chính nhờ tính phiêu lưu mạo hiểm, tìm tòi phát kiến địa lý vĩ đại mà bao nhà thám hiểm Âu châu đã tìm ra bao đất mới, thế giới mới qua đường bộ hay trên biển qua đại dương.
Bản sao con tàu buồm Hermione mà Lafayette vượt Đại Tây Dương sang Mỹ 1780
France Hermione Lafayette
Marco Polo (1254-1324) nhà thám hiểm Ý đầu tiên đã đến Trung quốc bằng « Con đường tơ lụa ».
Christopher Columbus (1451-1506) nhà hàng hải Ý đi bằng đường biển về phía Tây Đại Tây Dương và khám phá châu Mỹ, 12/10/1492 tới San Salvador mà Ông vẫn nghĩ là Ấn độ nên gọi thổ dân đầu tiên là Indian.
Vasco de Gamạ (1460-1524) nhà thám hiểm phiêu lưu Bồ đào Nha đầu tiên đi bằng thuyền từ Portugal tới vùng phía Đông kết nối châu Âu và Á với hành trình xuyên đại dương. Năm 1497, Ông đến Ấn độ vòng qua Mũi Hy vọng (Cap de Bonne Espérance ?Cape of Good Hope) cực Nam lục địa Châu Phi.
Hầu tước Pháp La Fayette dùng thuyền buồm Hermione được gọi là « La Frégate de la Liberté » vượt Đại Tây Dương năm 1780 sang giúp Mỹ trong cuộc Cách mạng Hoa kỳ. Và đến thế kỷ 21, một bản sao mới chiếc Hermione được hạ thủy rời cảng La Rochelle đi Mỹ năm 2015
Nói đến óc phiêu lưu khám phá mao. hiểm, chúng ta không thể không nhớ đến nhà hàng hải địa lý Pháp mà còn là nhà đại văn hào viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng từ trước đến nay Jules Verne (1828-1905). Trong các tác phẩm của mình, Ông còn đã tiên đoán hầu hết các phát minh khoa học lớn của thế kỷ 20, cung cấp cả kiến thức khoa học từ Những chuyến bay bằng khinh khí cầu « Cinq semaines en ballon » 1863, Từ địa cầu đến Mặt trăng « De la Terre à la lune « 1865, Vòng quanh Mặt trăng 1870, Vòng quanh thế giới trong 80 ngày « Le Tour du monde en 80 jours 1873, và Hai mươi nghìn dặm đưới đáy biển « 20.000 lieues sous les mers « 1870.
Cho đến thế kỷ thứ 20, Thor Heyerdahl (1914-2002) nhà nhân chủng học thám hiểm Na Uy còn đã sử dụng chiếc bè Kon Tiki với 6 người thực hiện cuộc vượt qua Thái Bình Dương gần 8000km sau 101 ngày đêm năm1947 an toàn.
Chiếc bè Kon Tiki
Nhà thám hiểm nổì tiếng người Anh Tim Severin trong phái đoàn đó có Ông Lương Viết Lợi tham gia cuộc hải hành bằng chiếc bè mảng vượt Thái Bình Dương đi được 5500 hải lý còn 1100 dặm đến Hoa kỳ, phát xuất từ Hong Kong sang Mỹ tháng 3/1993.
Bè mảng Thanh Hóa vượt 5.000 dặm qua Thái Bình Dương
Vậy so sánh ba phương diện trời đất nước, nước vẫn là sinh lộ quan yếu nhất cho mỗi quốc gia.
Ngay con người từ lúc còn trong bụng mẹ, bào thai vẫn tròng trành trong tiềm thủy đỉnh tử cung.
Những con sông kinh đào ao hồ thác nước đều là nguồn mạch sống cho tạo vật sinh linh trên hành tinh xanh nầy. Chính các con sông lớn như Missipsipi của Mỹ, Hằng Hà (Gange) ở Ấn độ, Hoàng hà và Dương Tử Giang ở Trung quốc, Mékong qua sáu nước Á châu đổ ra biển Đông qua 9 cửa sông tại Việt nam, đã góp phần cốt yếu cho sự phồn vinh của đất nước nào sông đã chảy qua.
Do đó biết được điểm tối ư quan trọng ấy, các nước ngự ở thượng nguồn có thể gây khó khăn bắt chẹt các nước nhỏ dọc theo sông nhất là nước ở hạ nguồn mà Việt nam ta là một.
Trong văn chương Pháp có câu
« J?aime la lettre M parce qu ?on la prononce AIME,
Je n?aime pas là lettre N parce qu ?on la prononce HAINE ».
(Tôi thích chữ M vì ta đọc là AIME = Yêu thương,
Tôi không thích chữ N vì người ta đọc là HAINE (H câm)= Hận thù).
Người Anh cùng có câu đáng suy gẫm :
« Believe giữa có chữ Lie,
Friend cuối vẫn có chữ End,
Lover cũng có lúc Over,
Wife trong lòng vẫn có If ?.
Ngâm nga các câu tiếng Pháp Anh trên, thật thích thú phát hiện thêm đây cũng là một nét đẹp khác tô điểm chữ Nước ta độc đáo hơn. Thử đánh vần chữ NƯỚC ta có N+ƯỚC (Anh ước), vậy trong chữ Nước có vần Ước mà tuyệt vời thay, Ước mơ, ước nguyện thể hiện hoài bảo của thế nhân, quyền tự do căn bản của mỗi con người, anh cũng như tôi, không phân biệt giàu nghèo mạnh yếu già trẻ và không có ai có quyền cấm cản trừng phạt.
Cám ơn tổ tiên đã thông minh sáng tạo tuyệt vời ngay trong dòng chảy văn hóa dân tộc mọi thời. Dù chữ Quốc ngữ bằng mẫu tự la tinh sinh sau đẻ muộn, một trong những danh từ thuần Việt tiêu biểu như chữ Nước vẫn hiên ngang sát cánh sống theo thời gian thời đại lịch sử, khoe nét đẹp và ý nghĩa
toàn vẹn của từ đơn âm nôm na bình dị dễ hiểu gắn bó thắm thiết qua bao thăng trầm của đất nước vượt cả sự cầu kỳ bác học khó hiểu khó viết trong một thời cao điểm của chữ Nho Hán Nôm.
Chúng ta con cháu Rồng Tiên được thừa hưởng thành tựu tinh thần siêu việt ấy, hãy kiên trì tự hào gìn giữ, phát huy hoàn thiện cải tiến nét đẹp, tính đặc thù độc đáo, sự trong sáng của ngôn ngữ mình luôn vì văn hóa còn, Tổ quốc còn theo gương của tiền nhân đã có công gầy dựng đất nước Việt Nam ta trên 4000 năm.
Nguyệt San Giao Muà xin cám ơn những thân hữu đã dóng góp bài vở cho Nguyệt San Giao Muà số 158 . Một số bài khác sẽ được đăng dần vào số tới. Mong mỏi sẽ nhận được những sáng tác của các bạn bốn phương để cho Nguyệt San Giao Muà thêm phần hương sắc trong tương lai.
2) Để rút ra danh sách của NSGM (unsubscribe),
xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
3. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về:
GiaoMua@hotmail.com
4. Mọi bài vở, đóng góp, xin gửi về:
GiaoMua@hotmail.com
Nguyệt San Giao Muà
Homepage: http://www.GiaoMua.com
Thể lệ gửi bài cho Nguyệt San Giao Muà:
Mong bạn gửi Bài cho GM theo cách này là tốt nhất :
1. Dùng mẫu chữ Vietnet (VIQR) hay Unicode
2. Viết Hoa chữ đầu của bài và bút hiệu. Ví dụ: Giọt Mưa Trên Lácủa NS Phạm Duy
3. Gửi bài ngay trong email (không kèm file), để cho BBT khỏi mất công download xuống để đọc
4. Gửi tất cả các bài trong 1 tháng 1 lần trong1 email, nếu tiện.
5. Bài vở xin gửi đến trước ngày 25 mỗi tháng
6. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com
Cám ơn bạn rất nhiều, vì nhân sự có hạn, BBT không thể ngồi đánh máy lại từng đề bài hay bút hiệu.
P.O . Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA
Trang Nhà