Số 180

Ngày 1 tháng 4 năm 2017

www.GiaoMua.com

Nguyệt San Giao Mùa
P.O. Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA

GiaoMua@hotmail.com

Thư Ngỏ



Mùa Xuân vừa trở lại trên vùng Bắc Mỹ nhưng thời tiết năm nay có nhiều thay đổi không giống như những năm trước. Miền Tây đã vui với nắng nhiều hơn mưa, còn miền Ðông thì đã tháng Ba rồi mà vẫn còn bão tuyết. Trên đất lạ quê người, dù đã được sống và làm việc gần một phần tư thế kỷ, nhưng đôi chân tôi vẫn còn lạ lùng, chưa có được những tháng ngày lang thang qua những tiểu bang Miền đông với rất nhiều bạn bè nhiều lần rủ rê đến chơi cho biết. Thôi thì đành chôn chân với San Jose, Thung Lũng Hoa Vàng, một địa danh mà rất nhiều người trên Thế giới văn minh có thể ít ra đã nghe nói đến một vài lần.

Hôm nay, tôi xin được khoe với Bạn Thung Lũng Silicon, vùng đất nằm lọt thỏm giữa những dãy núi,. với những thảm hoa màu vàng như hoa cải nơi quê nhà. Xa hơn nơi phía Bắc là San Francisco nổi tiếng với cầu Golden Gate, gần gũi hơn phía Nam là thành phố nhỏ GilRoy, vùng đất trồng tỏi hàng đầu. Thung Lũng Hoa Vàng là nơi chốn đã khai sinh ra những Hảng Ðiện tử nổi danh Thế giới như IBM, Apple, Yahoọ., thu hút, cũng như đào tạo hàng trăm ngàn chuyên viên điện tử, trong số đó đã có hàng ngàn người tị nạn đến từ Việt Nam với thế hệ thứ hai, thứ ba đạt được những thành quả đáng kể. Và mới đây San José được chọn là một trong Ba thành phố đáng sống nhất ở Mỹ.

San José với trên trăm ngàn người Mỹ gốc Việt, nên sinh hoạt đồng hương suốt bốn mùa trong năm cũng luôn được khới sắc, linh động. Những buổi Hội chợ Xuân ,những Ðại nhạc hội, những buổi hội ngộ Liên trường, hội ngộ địa phương từng tỉnh, thành phố nơi quê xưa, luôn được diễn ra trong những ngày Hè, ngày Xuân đầm ấm. Trong sinh hoạt chính trị, San José cũng đã có một Phó Thị Trưởng gôc Việt, hai, ba Nghị viên của Thành phố. Năm nay bên cạnh San Jose là thành phố Milpitas vừa có Tân Thị Trưởng và một tân Nghị viên trẻ gốc Việt đắc cử.

Và bây giờ, bây giờ là Tháng Tư, Tháng quốc hận nhắc nhở về nỗi đau mất quê hương, San José cũng đã mấy chục lẩn trong năm nay tổ chức biểu tình để bày tỏ đồng tình với đồng bào nơi quê nhà trước thảm hoạ môi trường Formosa, và hiểm hoạ mất nước vào tay Trung Cộng.

Xin được chia xẻ chút vui buồn hôm nay, đầu tháng Tư 2017 đến cùng Quí Bạn.

Mạc Phương Ðình
Ban Biên Tập Giao Mùa

Mục Lục

Bài vở trên Giao Muà là do các tác giả gửi đăng và Giao Muà không chịu trách nhiệm về nội dung. Muốn xin trích đăng lại, xin liên lạc với GiaoMua@hotmail.com.

I . Thơ _______________________________________________________________________

1. Vụng Về ______ Mạc Phương Ðình
2. Tình Yêu Người Lính Biển ______Nguyễn Thị Thanh Dương
3. Tưởng nhớ Hai Bà Trưng ______Vân Hà
4. Trăng Khuya Ðổ Bóng Bên Thềm ______Song An Châu
5. Tuổi Hạ Buồn ______ Chung Thủy
6. Thủ Thỉ Với Luân Hoán.. ______ Hồ Chí Bửu
7. Những Nỗi Mất Mát ______ Chương Hà
8. Người Ấy ______ Dạ Lan
9. Mây Hồng ______ Nguyễn Hải Bình
10. Nhớ Nhung... ______ Diệp Yến Thanh
11. Lệ Sầu Chảy Ðến Ngàn Sau ______ Tử Du
12. Tháng Tư Giết Ðời Son Trẻ ______ Tình Hoài Hương
13. Tượng Ðài Xưa ______ Trần Thành Mỹ
14. Khúc Giao Mùa Ðông-Xuân ______ ChinhNguyên/H.N.T.
15. Cho ... ______ Trần Thị Hiếu Thảo
16. Ðâu Rồi. Tiếng Ru Ca Dao ______ Du Yên
17. Thềm Hoang Lá Mục ______ Ðông Hòa Nguyễn Chí Hiệp
18. Xa Mặt Cách Lòng ______ Chương Hà
19. Vài Bài Thơ Xuân ______ Lê Miên Khương
20. Tiễn Biệt Mùa (Ngày, Tháng) Ðông ______ Trần Huy Sao
21. Tháng Tư, Cột Ðèn Không Cẳng Ði Ra Biển ______ Nguyễn Ðông Giang
22. Phù Vân ______ Hàn Thiên Lương

II . Văn _______________________________________________________________________

1. Từ Bắc Vào Nam ___________ Nguyễn Thị Thanh Dương
2. Hiến Chương Tình Yêu (truyện dài nhiều kỳ) ___________ Tình Hoài Hương
3. Nhà Thơ Vân Hà ___________ Trần Thị Hiếu Thảo
4. Mỗi Năm Hoa Ðào Nở ... ___________ Song An Châu
5. Vài Cảm Nghĩ về Tục Ngữ Ca Dao ___________ Phạm hy Sơn

III . Trả Lời Bạn Ðọc__________________________________________________

1. Nhắn Tin/Trả Lời Bạn Ðọc _______ Ban Biên Tập

I . Thơ __________________________________________________

1.  Vụng Về   


Thì thôi nhé, mùa Xuân em phía trước 
dừng lại chi bên cánh cửa mùa đông 
những tàn phai bên gối nhỏ se lòng 
mai rồi có ngọt ngào hương tuổi mới 
chút kỷ niệm treo tháng ngày diệu vợi 
tình em trao ươm một chút hương bay 
con chim nào khản giọng hót trên cây 
theo nỗi tiếc mùa xuân không ở lại 
nhánh tay vụng đêm nào mơ dấu ái 
để bâng khuâng thao thức gọi đời nhau 
hai mươi năm một bỡ ngỡ ban đầu 
con tim lạc điệu tình buồn sấp ngửa 
thì thôi nhé câu thơ chiều mở cửa 
đẩy vào trăng vào gió những thưong yêu 
những khát khao quay quắt đủ bao điều 
rơi rụng xuống thì thầm theo giọt lệ 
đừng ngần ngại giữa không, và có thể 
thời gian đâu là liều thuốc nhiệm mầu 
đời ngắn dài nào có nghĩa gì đâu 
hoa tình ái vẫn dịu dàng nở muộn 

                                                
 Mạc Phương Ðình  
Mục Lục


2. Tình Yêu Người Lính Biển ( Tặng anh Viên & chị Hồng Thủy) Anh lính hải quân tàu ra sông biển, Nhật ký hải hành anh viết tên em, Mơ theo gió trăng, buồn tiếng sóng đêm, Biển chinh chiến và biển tình dậy sóng. Về thành phố những ngày tàu neo bến Màu da anh mang nắng gió phương nào, Ðến thăm em nắng gió cũng về theo, Áo anh trắng như trùng khơi sóng biển. Ðường phố có anh hải quân lạc bước, Vui bên em mà nhớ biển ở đâu, Ði bên em mà nhớ cánh hải âu, Mùa biển lặng hay mùa chim báo bão. Chia tay nhau ngày phép qua ngắn ngủi, Anh lên tàu mang hình ảnh của em, Biển và em. Anh đều nhớ đều thương, Biển và em. Hai tình yêu lý tưởng. Anh, người lính hải quân mùa chinh chiến, Tháng Tư bảy lăm anh đã lên bờ, Tháng Tư buồn con tàu cũng bơ vơ, Tàu của anh chưa kịp về bến mẹ. Anh bây giờ đã qua thời tuổi trẻ, Ngược xuôi đời vẫn nhớ biển nhớ sông, Ðôi khi anh nghe tiếng sóng trong lòng, Ðôi khi anh thấy mây trời vương vấn.. . Anh đã đi giữa trời cao biển rộng, Mây và sóng theo tàu anh lênh đênh, Sao khuya xa hay lúc mặt trời gần, Là những người bạn đồng hành thân mến. Anh hải quân lên bờ từ lâu lắm, Ðời lính xưa là một cuộc bể dâu, Biển và em là hai mối tình đầu, Biển đã xa chỉ còn em ở lại. Nhưng anh vẫn là người của biển đấy, Quân phục không còn, tình chẳng nhạt phai, Anh ở trên bờ tình vẫn cả hai, Em là em, em cũng là sông, biển. Nguyễn Thị Thanh Dương
Mục Lục


3. Tưởng nhớ Hai Bà Trưng
Hôm nay thành phố Atlanta Phụ nữ nhớ ơn của hai bà Trưng Trắc một lòng trung với nước Trưng Nhị, cùng nhau cứu sơn hà Nước Việt lưu danh từ muôn thuở Dù phải lưu vong , sống xa nhà Vẫn mãi noi gương người nữ kiệt Ghi tấm lòng son, chống gian tà. Vân Hà 19/3/2017 MẤT MẸ Mẹ nằm mòn mõi cơn đau Lòng con quặn thắt, cùng nhau nguyện cầu Cả đời trong chốn bể dâu Cha ra đi truớc để sầu mẹ mang Chúng con yêu mẹ vô vàng Nhưng đời là những buộc ràng nỗi lo Muốn kề bên mẹ nhỏ to Thời gian trôi mãi, để cho mẹ chờ Ðớn đau nay đến bất ngờ Mẹ không còn nữa, dẫu mơ khó tìm Xác thân mẹ đã lặng im Xót xa ngơ ngác như chim lạc bầy Cúi đầu chấp nhận giờ đây Con mồ côi mẹ đời này, mẹ ôi ! Dương trần âm cảnh chia phôi Cầu hương hồn mẹ lên ngôi VĨNH HẰNG Vân Hà Viết Tặng Sơn 9 tháng 3 -2017 Thơ tặng cho người "Không hiểu là số trời Hay là tại em Mà đời anh lận đận" Nhưng anh không hề ân hận Khi đã trót yêu em trong suốt cuộc đời Vừa nghe tiếng em cười Anh như rộn rã trong tim Gần nửa thế kỷ trôi qua, anh vẫn dõi tìm Bóng dáng em giữa cùng trời cuối đất Một điều rất thật, Linh hồn anh như vừa được hồi sinh Khi lắng nghe em kể chuyện đời mình Anh và em, một mối tình ngang trái Có bao giờ mình nhớ lại Và nhận ra rằng, nó vẫn sống mãi với thời gian. Thôi thì, giờ quanh ta đang đầy những buộc ràng Hãy cho nhau những gì êm ái Ngọt ngào, dù chỉ là trong giấc chiêm bao. Thương tặng chị......NV

Vân Hà

Mục Lục


4. Trăng Khuya Ðổ Bóng Bên Thềm Từ lâu tôi vắng thơ nàng Nghĩ rằng tình đã sang trang qua rồi Thôi đành, người đã quên tôi Như con nước chãy, dòng đời cứ trôi Nay tôi phiêu bạc phương trời Nhớ hình bóng cũ một thời bên nhau. Giờ em không biết ra sao Bên nhà cuộc sống thế nào hả em? Trăng khuya đổ bóng bên thềm Nhớ thương người cũ đêm đêm vọng về Nhớ em, nhớ cả trăng quê Nhiều đêm trăng sáng ngồi kề bên nhau Nhỏ to hai đứa thì thào Chuyện tình muôn vẻ, muôn màu không thôi. Giờ đây em đã xa rồi Nay anh viễn xứ bên trời nhớ em Trăng khuya đổ bóng bên thềm Nhớ thương em quá đêm đêm gối sầu ... Song An Châu Tìm Ðâu Hình Bóng Cũ Tôi về thăm lại quê hương Sầu nghiêng bóng ngả bên đường quạnh hiu Hỏi anh - anh đã về chiều Hỏi chị - chị đã đìu hiu mộ phần Trên đường cỏ mọc cuốn chân Mình tôi, tôi đứng tần ngần hỏi thăm Ðường nào về ngõ ông Năm Ngày xưa tôi đã nằm dầm nhà ông Nhà ông nay cũng trống không Hỏi thăm cô Út:- "Có chồng từ lâu!" Lòng tôi đau nhói gợn sầu Tình xưa nghĩa cũ nay đâu mà tìm Nay em như thể cánh chim Xa bay ngàn dậm biết tìm nơi đâu? Còn tôi xa xứ từ lâu Cũng hoài thương nhớ, đêm thâu chong đèn Từng trang nhật ký cũ mèm Xem đi xem lại lời em nhẹ nhàng Tình xưa bóng cũ cưu mang Dầu bao cách trở, thời gian qua rồi Ðâu ngờ dâu biển đổi dời Nhưng hình bóng cũ trong tôi vẫn còn. Song An Châu


Mục Lục


5. Tuổi Hạ Buồn Thẩn thờ xóa hết những tình thư Nước mắt rơi theo phút tạ từ Ai đã quên rồi câu ước hẹn Thôi đành? tan nát cả hồn thở Mấy lần chim sáo vội sang sông Mấy lượt đau thương buốt nghẹn lòng Lặng lẽ một đời luôn chung thủy Một đời lặng lẽ mãi chờ mong Cuối buổi chiều tàn vẫn đắng cay Hoàng hôn rũ rượi lá khô bay Nắng vàng tắt lịm bên thềm nhớ Tuổi Hạ sầu nghiêng bóng lạc loài Nào biết đời thêm khúc đoạn trường Âm thầm đón nhận nỗi bi thương Xót xa chia biệt người vong phụ Tê buốt trong tim vạn tủi hờn? Chung Thủy


Mục Lục


6. Thủ Thỉ Với Luân Hoán.. Ta biết huynh về thăm quê hương Vẫn còn đầy ắp những yêu thương Chim bay tám hướng còn nhớ tổ Ðâu giống như ta đã cuối đường Chúc mừng huynh trở lại thăm quê Một thời tha thiết với đam mê Theo chân lữ khách rời quê cũ Nay bỗng ùa theo kỷ niệm về Lỡ có khi nào huynh xuôi nam Ðể nhìn chiến hữu đất phương nam Những người khi trước cùng sinh tử Nay bỗng buồn thiu ngấn lệ tràn Ta sống an nhiên đất của mình Qua rồi chiến tích của đao binh Mà sao ta nghĩ mình như đã Giữ ở trong lòng lửa chiến chinh..?? LỜI TÌNH BUỒN CHO NHAU.. Biển đời sóng vỗ lô nhô Biển tình ầm ỉ nhưng vờ tịnh yên Ta đi về cõi vô biên Vẫy tay chào mỏi chút tiền duyên xưa Ngước nhìn mây trắng lưa thưa Vành trăng một nửa cho vừa lời ru Còn ư ? Chỉ giấc mộng du Tĩnh ra mới biết là thiên thu buồn Thôi rồi ? Lệ đã mù tuôn Còn chăng một chút say cuồng vọng rơi Tạ từ một mảnh tình côi Khép mi là hết tình đời huyễn mơ Chỉ còn đây mấy lời thơ Tri âm tri kỷ hững hờ gió bay Thôi em ? Dáng liễu trang đài Xuôi tay là hết tháng ngày bão giông .. QUÁN CHIỀU MƯẢ Quán cóc liêu xiêu - chiều thứ bảy Ta ngồi tâm sự với ta thôi Uống ly rượu đắng hồn tê tái Mưa vẫn âm thầm ? mưa cứ rơi Ta quẳng đời mình trong gió lốc Yêu em là xả láng đời mình Yêu em là bỏ đời đơn độc Tìm chút duyên tình trong phiêu linh Ta lỡ phong trần ? đời mạt kiếp Yêu nhau thì cũng chỉ giả vờ Giang hồ ai cũng là đại hiệp Ta vẫn cóc cần ? ta có thơ Thì gã làm thơ ? chiều ly biệt Tay vẫy chào nhau phút ngậm ngùi Còn chăng một chút tình tha thiết Sông lạnh mây mờ sông cứ trôi.. ?Những hào sĩ đứng bên bờ nhật nguyệt Vỗ tay cười nhìn lớp sóng lô nhô ? (*) Ta khinh mạn ? cho đời mình trôi miết Về?về đâu ? Sông chẳng có bến bờ? ----------------------------------------------- (*) thơ Nguyễn Bắc Sơn.. Hồ Chí Bửu


Mục Lục


7. Những Nỗi Mất Mát Khi tôi biết tình yêu đầu đời Thì người thương ra đi rất sớm. Tôi có tới chín anh em khắng khít Nên càng sợ điều mất mát. Vậy mà trong trận chiến cuối Một em tôi sớm đã xa rời. Người hôn thê đã năm năm bò rơi. Rồi người vợ đầu ấp tay gối mười mấy năm thay đổi. Mất mát thấy như cố muốn níu với Tình phải bao nhiêu vá víu, đấp đổi. Ðể còn hạnh phúc đầm ấm ,gia đình quây quần. Cũng có một ngày cha tôi bất ngờ khuất bóng. Sự mất mát thấy như không thực Vậy mà cũng phải nhận biết Tới mấy lần mới thấu sự hụt hẩng. Mới thấy phần liên hệ ràng buộc Mỗi đứt đoạn là mỗi đau lòng Tôi dù có mẹ rất lâu Tình quyến luyến lại thêm phần sâu đậm Mất mẹ như mất hết đời sống... Thêm một đứa em còn trẻ lại chết trẻ Cái xót xa chịu đựng càng khó khân. Lần hồi bảy anh em còn lại tóc đều bạc trắng Nhận chịu sự sống chết vô thường Vẫn lo lắng đứa nào mất,đứa nào còn Sợ người còn lại cứ mãi khóc thương người mất Cuộc đời, sự mất còn sao mà buồn nhất 3-2017

Chương Hà
Mục Lục


8. Người Ấy " Người ấy" làm thơ tặng cho Tôi.. Nào ngờ vương vấn chút tình rơi.. Nhặt thơ "người ấy tôi phúc đáp.. Từ đó về sau " nợ cã đời" Cách một đại dương ở phương trời Mà tình " người ấy" rất gần tôi.. Cữa lòng rộng mỡ tôi vui lắm Tim đã gửi về chốn xa xôi . "Người" mang hơi ấm đến cho tôi Ôi chao ! Tôi đã yêu mất rồi ! Từ đó tim lòng luôn thổn thức Khát khao chờ đón một bờ môi... Thư tình lãng mạn qua lời thơ Nữa kiếp mà tôi đã đợi chờ Từ đây nữa kiếp đời còn lại Bình minh ló dạng đẹp như mơ

Dạ Lan
Mục Lục


9. Mây Hồng Một lá ngô đồng bay theo gió Ðộc hành lãng tử đón thu sang Hôm nay trời vào thu Trong nắng sớm đón ngù mây hồng cẩm Theo bước chân đi, chút gì hơi ấm Như có em lãng đãng một nụ cười Nhặt lá vàng rơi Em thủ thỉ ?chuyện mình là đó? Rồi hết mùa thu, đông về trước ngõ Mộng yêu thương vương vấn một tình cầm Tất cả phù vân Như chiếc lá ngô đồng bay theo gió Nhưng vẫn có em lòng còn bỏ ngỏ Ðợi vòng tay mộng ảo của yêu thương Rồi hết mùa thu, một cõi tà dương Nơi bến cũ vẫn cón mây hồng cẩm Montebello, Sep 16, 2014 Nguyễn Hải Bình

Mục Lục


10. Nhớ Nhung... Chiều qua dạo bước đường xưa Bỗng dưng nhung nhớ buổi trưa quen nàng! Nắng thu rơi rớt sợi vàng Lung linh chiếu sáng hai hàng cây xanh... Chập chờn suy nghĩ quẩn quanh Về người mộng ấy chân thành tôi thương. Ðến nay cảm mến còn vương Dù không gặp nữa tiên nương ngày nào! Yêu đương một thuở dạt dào Trong tôi còn lại nghẹn ngào nhớ nhung... (Montréal)
Diệp Yến Thanh





Mục Lục


11. Lệ Sầu Chảy Ðến Ngàn Sau Rồi một mùa xuân tôi đi, Thầm hẹn cùng em sẽ về, Bốn mươi hai năm chia ly, Bụi ngàn đất đỏ vườn quê. Ban-Mê yêu dấu trong tôi, Như niềm hạnh phúc một đời, Ấu thơ của một con người, Mất rồi sầu dễ chi vơi. Tôi nhớ mùa Xuân năm xưa, Ðạn bom thay pháo Giao thừa, Làm tan giấc mộng hẹn hò, Rồi tan mất cả ấu thơ. Hơn bốn mươi năm xa em, Tôi mong tìm lại thân quen, Những chiều phố thị lên đèn, Vinh Sơn, Xóm Ðạo, . . . đường đêm. Khải Ðoan bây giờ ra sao, Giáo đường còn tiếng kinh cầu, Vang vang trong mỗi sáng chiều, Lời kinh gởi hết tin yêu. Con quỳ lạy Chúa trên cao, Quê hương con đầy khổ đau, Sơ sinh cho đến bạc đầu, Chỉ còn xin Chúa nhiệm mầu. Tôi nhớ mùa Xuân mất nhau, Mùa Xuân chôn cuộc đời sầu, Tháng ba nhát chém tim nhau, Lệ buồn chảy đến ngàn saụ

Tử Du
Mục Lục


12. Tháng Tư Giết Ðời Son Trẻ Tháng Tư mất nước ê chề Từng cơn biển động ủ ê ngọn sầu Ba Mươi quốc hận. Lòng đau Muôn Ðời sụp đỗ cơn sầu ngút cao Cha, con: lao tù ?cải tạỏ Bao trùm bóng tối cồn cào ốc đảo Nướng tuổi xuân trong ngục thất quá bạo cường TRONG NGOÀI* đói khát căm hờn thấu xương Ðảng trị dân như phường dã thú Oan nghiệt thay hỡi "loài" cùng máu mủ Quốc tang ôi! lũ bán nước diệt dân! Mất Hoàng Sa nỗi hận vô ngần Tàư cướp cả xác khô thân héo (dường như đã chết cho tự do). Xưa thanh bình mùa xuân chưa hết Giờ sự sống nhục nhằn nhiều trái ngang Ngàn năm uất hận vô vàn Cơm chan nước mắt sô tang ngút trời Xót thương Ðất VIỆT hỡi ơi! * Trong Ngoài* Trong tù ?cải tạỏ & Ngoài dân Việt Bán nước* (Ải Nam quan và biển Hoàng Sa) Tàư = Tàu chệt *** Tình Hoài Hương
Mục Lục


13. Tượng Ðài Xưa Ðứng mãi im lìm ngắm nước non, Trơ gan không tỏ nét cỏn con. Quắc thước đấng anh hùng liệt nữ, Có hồn sao chẳng chút buồn vui ? Phi ngựa tuốt gươm thề chống giặc, Trên đài cao pháo lệnh tiến quân. Hô chiến sĩ tung cờ xung trận Bất khuất thay tượng đá vô tri ! Bức tượng đồng đen tạc thánh hiền Áo dài khăn đóng dáng thanh liêm. Vinh danh tên tuổi trong ngoài nước Gương sáng lưu danh bậc trí thiền. Chẳng trang ưu việt cũng anh hào, Mộng vá trời bừng dịp hướng cao. Công danh điểm rộ tô trang sử, Bảng vàng xưa ghi dấu hiền tài. Mưa nắng dệt tơ vương mái tóc, Cát bụi buồn bám chặt châu thân. Nước ngầm đọng trên mi u uẩn Nghĩ suy chi đầu đội rong rêu. Gẫm thế sự bể dâu quay tít, Tự do rồi hạnh phúc bao lâu. Tượng phỗng xưa tiên đoán được đâu Ai biết, tùy thế thời thời thế. Ðời có lúc ba chìm bảy nổi, Nhục vinh thua thắng cứ xoay vần. Hận thù tất gọi lòng thù hận, Vứt thương yêu, bội bạc như vôi. Ðừng hỏi sao tượng buồn giá lạnh, Ngao ngán thay bỏ vỏ vắt chanh. Lúc nâng cao hạ bệ sao đành, Tiêu xác, hồn quyện vào đất nước. Họ là những anh hùng lịch sử, Ðã một thời gìn giữ quê hương. Hy sinh vì tổ quốc đau thương, Xứng sống mãi trong lòng dân tộc. Trần Thành Mỹ Mục Lục


14. Khúc Giao Mùa Ðông-Xuân 1- *Mùa Ðông vẫn kéo dài như bất tận Sắp vào Xuân chưa thấy nắng bừng lên Chicago, Boston, New York, Washington Bão tuyết điên cuồng cấu cào mặt đất. *California sắp qua thời nắng hạn Bớt khô cằn nhưng lũ kéo đất bùn trôi Vùng Trung Tây tạm vắng tornado Mây lơ lửng trên cầu trường S.Bowl hùng tráng. *Ðây Atlanta bàu trời sa xuống thấp Từng đợt chilli giá lạnh cắt thịt da Vài cánh chim bạt gió khuất mờ xa Mây quấn vành khăn đỉnh toà nhà cao ngất. 2- *Bên đây bán-cầu có người ngồi im lặng Nhìn bàu trời trên cao, nhìn phố xá bên tường Kia những giòng xe lũ lượt nuốt con đường Như giòng chảy cuộc đời êm trôi xuôi ngược. *Mặc giông tố bão bùng, mặc mùa Ðông tuyết giá Mặc mùa Xuân chưa xuất hiện nơi này Người người vẫn đi tìm sự sống tràn đầy Như loài thú săn mồi, như cỏ cây hút nước. *Bên kia bán cầu, Sài-Gòn không bão tố Chợ hoa Xuân rực rỡ ánh đèn màu Người và xe chen lấn chạy cho mau Như vội vã đi tìm chân hạnh phúc. 3- *Vẫn người ấy từ căn phòng ấm áp Mắt mơ màng nhìn vũ trụ vần xoay Hai cảnh đời tương phản hiện quanh đây Trẻ sống động, già đi dần vào cõi chết. *Nhưng cả hai, trẻ già, không tồn tại mãi Xác thân người tạm nghỉ dưới mồ sâu Tro cốt người tạm trú trên đài cao Rồi tất cả sẽ nát tan như bụi cát. *Cát bụi ấy mang linh hồn bất tử Sẽ lang thang trong vũ trụ bao la Trẻ hay già sẽ gặp lại tìm nhau Không đối chọi như cảnh đời hiện hữu. 4- Ðông chưa tàn nhưng mùa Xuân sắp tới Bàu trời Xuân sẽ rực rỡ huy hoàng Chúng ta hân hoan nâng chén tiễn Ðông tàn (Không phải đợi dịp linh hồn tìm nhau gặp gỡ). ChinhNguyen/H.N.T. Mar.6.2015 Thơ và hoa Xuân Anh có thấy mùa Xuân đã tới Ngàn hoa tươi nở đẹp nơi nơi Nở cả trong lòng em rực rỡ Bởi tình yêu ngự trị hồn thơ. Gởi cho anh bài thơ Xuân mới viết Viết trên nền giấy vẽ một cành hoa Màu chữ tím tượng trưng lòng nuối tiếc Tiếc một lần lỡ bỏ dịp đi xa. Em ở lại dù anh lên tiếng gọi : Hãy dìu nhau đi khắp thế gian này Như đôi én tung trời không biết mỏi Khi thấy miền đất hứa mới ngừng bay. Anh đã chọn đúng con đường mộng ước Từ nơi xa vẫn hi vọng người xưa Mau bỏ lại niềm tin và ảo tưởng Ðể cùng anh xây dựng tổ uyên ương. Anh có nhận bài thơ em đã gởi ? Hẹn Xuân này em chắp cánh bay theo Cuộc tái hợp tưng bừng hoa Xuân nở Tâm hồn ta rộn rã tiếng Thơ reo. Apr.1.2016 ChinhNguyên/H.N.T.
Mục Lục


15. Cho ... Anh vuốt ve định tinh cầu mở cửa Cho hồn em về âu yếm mãi tâm anh Cho nắng mơ một ngày tươi đẹp thanh thanh Cho đem đúa tắt nhanh luồng ánh điện? Cho tơ trời lên lòng xao xuyến Cho nước kia âu yếm chút thạch ngầm, Cho mây trời lơ lửng hóa thân Cho lũ quạ biến thành công hết Cho mùa đông hứa thành xuân tết Cho chút mưa bong bóng nở lên trời Cho mắt em cười mà nước mắt tuôn rơi Cho tóc em ướt cũng hóa thanh hoa bất tử? TTHT _____________ Bên Anh .. Bên anh bữa cơm tối Buổi chiều qua vồi vội Hoàng hôn như nghiêng xuống Chia đôi bóng riêng mình... Anh bảo em đói chưa? Em cười nói thưa chưa Bữa cơm không mỹ vị Nhưng hai đứa nhìn ưa .. Anh kho tôm đậu tương Lại có thêm cà rau muống Em nhìn thương quá thương Sông nào chảy bao nhiêu Siết được dòng nước chảy Tôi thương anh bao nhiêu Siết được nhau nu cười .. Trần Thị Hiếu Thảo
Mục Lục


16. Ðâu Rồi. Tiếng Ru Ca Dao Tôi nằm ngủ yên trong bầu sữa mẹ tuổi thơ tiếng ru ca dao nồng nàn thời tuổi dại đưa tôi vào những giấc mơ thần thoại buổi trưa hè làng quê trên hiếc võng đong đưa kẽo kẹt mà giờ này đã mịt mờ xa nẽo nhớ bầu sữa mẹ trong vòng tay che chở cho tôi lớn dần con chim đủ lông cánh đến một ngày rời tổ ấm bay xa mãi miết tìm đến những háo hức chân trời xa lạ không gian thì bao la sức mòn cạn kiệt ngoảnh lại đã xa bờ đâu vòng tay mẹ thân mang đấy vết xẹo một thời lao vào cuộc chiến tiếng gọi ngàn đời của ông cha lịch sử oai hùng từ hai bà Trưng Triệu đến vó ngựa Quang Trung hẹn ba quân mở hội mừng xuân chiến thắng giữa Hà Nội còn loang máu giặc Bắc phương thơm mùi thuốc súng cho đến một ngày oan nghiệt thảm thương 30 tháng 4 năm 1975 tiếng quân lệnh đầu hang âm thanh báo tử một thời súng gươm?! VGX 10 tháng 3, 2017 ÐÔI DÒNG TÂM SỰ ...MẤY NỐT PHÙ HOẢ để lại đời Từ miền Ðông Bắc vượt trùng khơi Anh Hoa thi sĩ, người năm cũ Lục Bát Hoa Văn mãi sáng ngời Thời gian tri ngộ trải mấy thu Từ xưa phố núi phủ sương mờ Quen nhau độ ấy, bao năm nhỉ? Cùng xót xa đau với ngục tù? Bước chân lưu xứ buồn thân phận Ðành mượn vần thơ trải chút tình Giọt đắng phù vân nơi cõi tạm Mặc đời dâu biển vẫn trung trinh. Anh ở một nơi, tôi một nơi Vẫn nhớ tới nhau một góc trời Cùng nỗi buồn riêng, đời lẻ bạn Ðôi vần thương nhớ gửi nhau thôi. Cầu chúc Hoa Văn vui cháu con Dưới ngọn Cờ Vàng mãi sắt son Tổ quốc, danh thơm cùng trách nhiệm Ðất Tổ ngàn năm chuyện mất còn. Cám ơn Thi sĩ Hoa Văn tặng sách Oklahoma City Feb 10, 2017 Du Yên
Mục Lục


17. Thềm Hoang Lá Mục Chiều thu đi qua lá vàng rơi đầy trước sân nhà em, gió bấc về mỗi lúc mạnh hơn ? một dòng không khí khô khan của tháng ngày ?. thềm hoang lá mục . Xa em từ độ thu về Chiều nay trở lại bên hè nhớ thêm Lửa lòng chưa tắt, chưa quên Thế nên buồn vẫn mình ên giữa đời Bước chân chậm về ngõ tối , rừng thu man mác với thanh âm của mối tình ly biệt . Vẫn một niềm đau khi nghĩ về em , lời buồn khó tả !. Bao năm đi qua , cổng nhà em bây giờ rêu xanh che phủ ? những giọt mưa cuối cùng đủ làm ướt vai người trở lại ? hơi lạnh lan tỏa ? một nỗi ước ao đến vô bờ rằng có em để dựa nhau đi qua miền kỷ niệm ? nồng nàn hơi thở thân quen ? Nửa đời cứ mãi long đong Chiều nay lạc lối qua vùng nhớ xưa Tóc sương bạc trắng hững hờ Thời gian hoai mục chơ vơ tháng ngày Ngỡ rằng chìm tận cõi say Thấy em cười nói mà day dứt sầu Tỉnh hồn tan biến nơi đâu Khó cầm hạt lệ nôn nao của lòng Bây giờ em đã hư không Xa xôi một cõi khó trông lối về Ðành thôi chìm giữa u mê Bởi còn nhớ mãi ước thề với nhau Thềm hoang lá mục thuở nào Có hay ta vẫn còn xao xuyến tình Thềm hoang lá mục nằm yên Theo dòng hoài niệm con thuyền tương tư Ðông Hòa Nguyễn Chí Hiệp THĂM MỘ NGÀY XƯA (thuận nghịch độc) Sương trắng đồi hoang vắng cuối rừng Lá xanh màu nắng rọi sau lưng Ðường bên dốc cũ rong rêu bám Mộ trước mây im gió khẽ ngừng Vương vấn cảnh xuân chiều nhớ vọng Luyến lưu tình ái lệ sầu rưng Dương trần kiếp bạc đời ly cách Thương xót lệ rơi mãi khó dừng 15.02.2017 Ðông Hòa Nguyễn Chí Hiệp
Mục Lục


18. Xa Mặt Cách Lòng Trời đất bốn mùa Anh, mùa trắc trở Giửa em hai mùa thương nhớ. Vạn vật xoay vần Anh chỉ một lòng Từ em, nửa đợi nửa mong. Thiên nhiên mưa nắng Anh cứ héo hon Khi em đông ấm, xuân nồng. Ðất trời mênh mông Anh hoài trông ngóng Nở chi xa mặt cách lòng. Chương Hà
Mục Lục


19. Vài Bài Thơ Xuân Bám vào ca dao Tầm xuân đang nở trên môi Mắt em xanh biếc lên ngôi nụ cười Xuân về mang lại thắm tươi Anh trôi vào mộng ước làm trăng sao Anh đi về miền núi cao Còn em ở lại bám vào ca dao Thương mình lỡ vận lao đao Lá rung trước gió liễu đào mỏng manh Chỉ đôi lần cầm tay anh Mong duyên được bén sợi thành ? lứa đôi Hôm nay tơ sợi rõ rồi Gió anh thổi đứt chỉ sồi hai tả! Lê Miên Khương Cầm tay em đón nắng Anh giang tay ôm mùa xuân Và cầm tay em đón nắng Vốc từng nắm đầy hạt trắng Giữ chút ấm cho ngày đông Bên phương anh mùa xuân tới Lá biếc cựa mình trên cành Rót nhựa yêu lên ngọn mới Thắp môi hồng hôn cỏ xanh Lê Miên Khương Anh có về đón Tết Anh có về đón Tết với em không Trời giêng hai có màu xanh rất lạ Anh sẽ thấy em nói không thái quá Miên man xanh của lòng đất trên cành Lê Miên Khương Xuân đang gõ cửa Hình như mùa xuân đang gõ cửa Tuyết tan cây mẫm nụ trên cành Chim về vui hót dưới nắng hanh Lòng anh nở líu lo chim chuyền Lê Miên Khương Mùa xuân tới Mùa xuân đang tới. Ừ xuân tới Nắng tháng tư về trời đất thơm Bài thơ mật ngọt anh đang viết Trao tặng một người mắt cỏ rơm Lê Miên Khương Sang xuân Thì ra trời đã sang xuân Nắng hong hanh ấm lâng lâng trong lòng Lá non đưa tiển nàng đông Buồn xưa dưới nắng cũng không còn đầy Lê Miên Khương
Mục Lục


20. Tiễn Biệt Mùa (Ngày, Tháng) Ðông vái một vái rập khuôn đời lễ nghĩa tiễn biệt[ngày,tháng]mùa Ðông qua áo ấm mền bông lần hồi bỏ quá chuẩn bị nám da giữa trời nắng chang Ðông quá thời đi khơi dòng tản mạn không co ro chẳng cúm rúm chi trơn Xuân nắng về từ sáng tận chiều hôm khách khí chi cứ vui mời Xuân tới có rảnh rang ghé hiên trăng ngồi với nói ba hồi bốn chuyện buổi quê nhà thời sơ mướp ngó hoài nhau tơi tả giờ vẫn còn nhau nơi chốn lạc đường từng ghém đời chụm củi nhiễu nhương ngặt củi ướt quá thời lửa nhen không nổi mới dắt díu nhau vượt vòng vây tân khổ đặng hôm nay ngồi tằng hắng thơ văn câu chữ trong Thơ có đôi khi lạc vận nhưng tình yêu lạc mấy cũng không chừa muối mặn gừng cay hùn vốn hồi xưa có bớt xén chi đâu vẫn y nguyên hồi đó ta vốn thuở giờ ăn cục nói hòn Thơ cũng vậy cứ đời thường cơm áo văn hoa quá hóa ra đời sống ảo không thiệt lòng mình ta vốn bất ưng... Trần Huy Sao TÂM TÌNH TỰ TRUYỆN con mồ côi từ lúc mới ba ngày Mạ xót nhau bỏ con tự mình rụng rốn cóc cụt đuôi ai nuôi mày lớn dạ thưa Ðời con lớn nhờ bú thép Mạ làng xóm đó thôi ai cũng nói con trời trời nuôi thiệt bất ưng lời nói xuôi nói ngược không có mấy Mạ xóm làng làm sao có được hôm nay con ngồi nước mắt ân tình mấy Mạ chừ nhắc nhớ mấy cũng làm thinh mô có còn mà nói đặng lời công đạo nhờ mấy Mạ con lớn lên mập mạnh no tròn ơn nghĩa này con há dễ làm thinh mổi mùa Vu Lan nỗi buồn riêng câm nín bông trắng con cài hết thảy Mẹ xóm làng hồi Mạ con đi bỏ con suốt ngày bú thép mấy Mạ xóm làng ơi ân nghĩa vô ngần nay chớm lấn ngần tới tầm ngang hồi đó hồi mấy Mạ đi xa con cũng biệt quê nhà bầu sữa thép cưu mang thuở nào con vẫn nhớ Mạ quê hương Mạ làng xóm ngày xưa... Trần Huy Sao
Mục Lục


21. Tháng Tư, Cột Ðèn Không Cẳng Ði Ra Biển mặc cho gió mưa , người ra biển ở đây cũng chết, chỉ còn liều tháng Tư, lùa tù lên núi ở thị thành lúc nhúc, cảnh ruồi bu! mùa nầy năm xưa , anh ra biển vợ con bỏ lại, phú cho trời anh như chuột rúc ,trốn chui nhũi cũng thí mạng cùi , với cuộc chơi tháng Tư ơi hởi ! trời rơi lệ giọt buồn nhỏ xuống, thấm non sông cột đèn không cẳng, đi ra biển cách mạng 30 , ở đất liền tháng Tư sợ quá, lên cơn sốt chỉ còn thần dược... đi vượt biên chỉ còn bỏ chạy, cho xa khuất ở lại làm chi, với xích xiềng! ở lại làm chi , hởi người ta? thà ra biển chết , ngóng quê nhà thà ra biển chết, mà không nhục ỏ lại làm gì , người Quốc gia ? anh viết bài thơ buồn, tháng chạp nuước mất nhà tan, phận lưu đày hởi ơi ! tháng chạp buồn như vậy thì tháng Tư buồn biết bao nhiêu ! cali - nguyễn đông giang T Ư Ơ N G P H Ù N G *Mến tặng Bằng hữu , nhân chuyến hành phương nam Cali 032006-nđg Cám ơn bằng hữu , còn mong đợi Sơn khê ngàn dặm , có ta về Có ta hằng hữu , cùng nhật nguyệt Và cuối đời , buồn nỗi nhớ quê Cám ơn Trời đất , cho ta gặp Những bạn bè xưa , những cố tri Xem đời tù tội , như đi chợ Nhắm mắt qua sông , biệt kinh kỳ ! Cám ơn nước Mỹ , cho ta được Qua đây tạm trú , sống ngày còn Nghìn trùng cố lý , lòng đau nhói Ðành phải giả từ , cõi nước non Nhớ xưa lăng lộn , trong binh lửa Mong ước sao , có ngày hòa bình Ðạn vẫn liên tu , đi tới bến Ngày lại tiếp ngày , chuyện tử sinh Nay ở xứ người , còn thất trận Tiếc từng thằng bạn , đã hy sinh Nâng ly để biết , mình còn sống Ðể đáp đền em , nợ ân tình Nước Mỹ mở lòng ra , mời gọi Non cao đất rộng , chúng ta về Ta về , cùng cất cao lời hẹn Chờ buổi tương phùng , tại cố quê . NGUYỄN ÐÔNG GIANG thưa rằng quê mất ta chừ , lênh đênh như sông sông rong chơi , ta phiêu bồng . Bỏ quê có ai , hỏi ta ngày về thưa rằng quê mất . Hỏi về thì chưa Cali Nguyễn Ðông Giang
Mục Lục


22. Phù Vân Có hoa nào nở mà chẳng tàn Mây trời vừa tụ lại mau tan Bình minh mới rực, hoàng hôn đến Hạ vàng mới đó lại thu sang! Bốn mùa luân chuyển tàn năm tháng Ðầu thôi xanh tóc hết xuân đời Mấy cuộc chia xa sầu cách biệt Giữa cõi phù du mãi đổi dời! Một mùa yêu dấu cũng qua mau Ðể lại lòng nhau những trái sầu Tất cả mờ theo đường gió bụi Kỷ niệm còn đây những vết đau. Rõ cõi trần gian lắm lụy phiền Lao xao chen lấn chẳng bình yên Cái danh cái lợi toàn hư ảo Một bể trầm luân thật hão huyền! Cười nghiêng đổ rượu khoe màu áo Phút chốc lệ buồn chuyện đổi ngôi Hoá ra như chỉ tuồng sân khấu Chẳng có vui chi, nỗi ngậm ngùi! Thôi thì thôi chỉ là phù vân Nữa đời đã hết những ngày xuân Mất chi thôi cũng đừng luyến tiếc! Tinh hồn!- lắng đọng tiếng chuông ngân! 19-9-2016 Hàn Thiên Lương
Mục Lục


II . Văn___________________________________________________________

1. Từ Bắc Vào Nam


Nguyễn Thị Thanh Dương


Sau ngày 30 tháng Tư cuộc sống của cả miền nam Việt Nam đã đổi đời, đổi từ sướng sang khổ, đổi từ tự do sang kềm kẹp, đâu đâu cũng là những cuộc sống dè dặt và khó khăn, gia đình chị Bông cũng nằm trong cảnh ấy.

Món tiền của cha mẹ chị dành dụm gởi trong ngân hàng Việt Nam Thương Tín kể như mất toi, món tiền của vợ chồng chị cũng gởi trong Việt Nam Thương Tín thì chị may mắn hơn, tháng 8 năm 1975 chị sinh thằng con thứ hai, chị đã viết đơn ra ủy ban phường xin xác nhận hoàn cảnh vừa mới sinh con nên ngân hàng Việt Nam Thương Tín lúc này do nhà nước quản lý đã cho chị lãnh 10 ngàn đồng.

Tiền của mình bỗng bị cướp trắng trợn, phải nằm trong diện khó khăn, ma chay, sinh đẻ hay hoạn nạn gì đó mới được nhà nước cứu xét trả lại 10 ngàn đồng cho dù tổng số tiền gởi là bao nhiêu và rồi số tiền còn lại chết yểu, chết oan ức không bao giờ trở về với chủ.

Vài năm sau khi chị Bông đi thăm chồng tù cải tạo tại trại Z30C rừng lá Hàm Tân Thuận Hải, chị gặp bà vợ ông Nguyễn Văn Mão giám đốc ngân hàng Việt Nam Thương Tín cũng đi thăm chồng, người nổi tiếng đi đến đâu ai cũng biết. Ông giám đốc ngân hàng còn sa cơ thê thảm thế kia thì xá chi món tiền nhỏ nhoi của mình.

Với chế độ mới người ta phải cẩn thận từng lời ăn tiếng nói kẻo bị tù oan. Một thằng bé hàng xóm chị Bông trong lúc chơi đùa với các bạn ngoài đường nó hát nhại câu hát trong bài ?Túp lều lý trưởng? là ?Từ ngày giải phóng vô đây mình khổ thật nhiềủ anh bộ đội đi đường nghe thấy, chẳng biết anh đang đi đâu vậy mà cũng mất thì giờ bắt nó đưa lên uỷ ban phường nhờ giáo dục lạị, bố mẹ nó phải làm giấy cam kết dạy dỗ con để bảo lãnh nó về, cũng may nó tuổi vị thành niên, nếu lớn hơn chắc đi tù cải tạo vì tội phản động, xuyên tạc chế độ.

Có hôm chị Bông đi chợ đang mua bó rau muống, bà bán rau người miền Nam thấy hai anh bộ đội xách giỏ đến gần bà đã vồn vã mời chào :

- Mời hai đồng chí mua raụmuống?.

Hai anh đã không mua mà khó chịu gắt gỏng:

- Ai đồng chí với bà, ăn nói phải cẩn thận nhé

- Bà đã đi bộ đội đã chiến đấu với chúng tôi ngày nào chưa mà gọi chúng tôi là đồng chí, hả?

Hai anh bộ đội mặc quân phục đội nón cối chân đi dép râu làm từ lốp xe chắc là ?anh nuôỉ lo việc bếp núc cho đơn vị hay cơ quan tập thể nào đó, hình ảnh các bộ đội mặc quân phục đi chợ, hai ống quần xắn lên khỏi mắt cá chân cho gọn thật khôi hài, thật ngứa mắt trông như người đi cày đi cấy nhưng nhìn mãi thành quen mắt không ai còn ngạc nhiên nữa.. Các anh đi chợ bằng xe đạp thồ, rau cỏ chất đầy, thời ấy bếp ăn tập thể hay tư nhân thì rau luôn là thức ăn chủ yếu.

Bà bán rau xưng hô hai từ ?đồng chí? với hai anh bộ đội là bày tỏ sự thân thiết, tưởng lấy lòng họ lại bị họ mắng...Khi hai anh bộ đội đi xa bà bán rau buông câu nói hậm hực:

- Bộ tao ham làm đồng chí với mày sao, tao chỉ muốn bán cho mày mấy bó rau thôi, đừng có chảnh nghe con.?

Người thắng cuộc miền Bắc vui mừng háo hức tràn vào miền Nam đủ mọi hình thức, làm việc, công tác, thăm thân nhân hay đi cho biết miền Nam, ngắm cảnh miền Nam để ăn mừng cho bao công lao của họ đã hi sinh chiến đấu.

Nhưng người dân miền Nam chẳng mấy ai muốn ra thủ đô Hà Nội của bên thắng cuộc cả.

Bố chị Bông cũng không có ý định về thăm quê cũ, ông không lạ gì Việt Cộng, thời buổi sau 1975 tranh tối tranh sáng, trong miền Nam cũng đã có kẻ thời cơ hại người rồi, bố chị đã bị công an đến nhà ?mờỉ lên ủy ban phường ?làm việc?, cả nhà rất lo ngại không biết chuyện gì đã xảy ra và sẽ xảy ra. Từ phường bố chị bị chuyển lên ủy ban huyện và biệt tăm biệt tích hơn 1 tháng mới được tha về.

Thì ra có kẻ hàng xóm nào đó đã tố với ủy ban quân quản bố chị là ?mật vụ chìm?của ?ngụy quân nguỵ quyền? trong khi ông chỉ là cảnh sát viên bình thường trong phủ thủ tướng ...

Trong Nam đã thế nói gì đến miền Bắc của phe chiến thắng, những người di cư 1954 nay trở về thăm miền Bắc sẽ bị để ý, bị ?nhân dân? khinh miệt trả thù.

Bố chị chỉ gởi cầu may một lá thư về quê cũ cho người em họ để hỏi thăm họ hàng quyến thuộc, gọi là ?cầu maỷ vì sau bao nhiêu năm ly tán kể từ 1954 chẳng biết thân nhân còn ở quê không. Thế mà lá thư vẫn có người nhận và người em họ của bố đã trả lời thư.

Ban đầu chị Bông không tin, một mực nói:

- Làm gì một lá thư không số nhà lại đến tay người nhận được? Có chắc đây là thư của chú Côi không?

Bố chị giải thích:

- Chú ấy đã kể về những họ hàng nội ngoại, bên nội và bên ngoại các con cùng quê mà, chú Côi còn kể về những kỷ niệm giữa bố và chú ngày xưa thì chính là chú còn ai vào đây nữa .. Ở phố thì bố không biết chứ ở quê thì cả làng cả xã ai cũng biết nhau, lá thư gởi tên người nào thì sẽ đến đúng tay người ấy, chẳng cần số nhà ngoài tên làng tên xã.

- Nhưng lạ ở chỗ cả một thời gian dài từ 1954 đến giờ mà họ vẫn không rời khỏi làng quể

- Vì tình quê cha đất tổ, vì luật lệ hành chính xã hội ràng buộc nên họ vẫn bám lấy làng quê. Biết đâu vài chục năm sau nữa chúng ta gởi thư về người thân ở làng quê này vẫn không cần số nhà, tên đường..

Sau lá thư của bố thì gia đình chị Bông nhận được những lá thư của các thân nhân khác, chắc chú Côi đã khoe thư của bố chị với mọi người. Thư viết trên trang giấy học trò, có thư chữ viết nắn nót, có thư chữ viết như gà bới nhưng thư nào cũng đầy ắp nhớ thương và không bao giờ thiếu câu mở đầu nghiêm chỉnh trên mỗi lá thư là :? Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam . Ðộc lập tự do hạnh phúc?, xong ?thủ tục? với nhà nước rồi nhân dân mới viết riêng tư gì thì viết.

Chị Bông đã ngạc nhiên hỏi bố:

- Thân nhân của bố viết thư như viết tờ đơn, họ làm việc cho chính quyền nên quen tay chăng?

Bố chị chép miệng:

- Họ là nông dân thôi, nhưng là ai thì cũng là người của miền Bắc bao nhiêu năm sống với xã hội chủ nghĩa.

Không ngờ chỉ một lá thư bố chị gởi về hỏi thăm những thân nhân nội ngoại ấy mà đã nhận lại những tình cảm qúa đổi thắm thiết, sau những thư từ là những người khách không mời đã lần lượt từ Bắc vào Nam thăm gia đình chị Bông..

Năm 1978 gia đình chị đón một khách đầu tiên từ miền Bắc vào. Lúc này xe lửa Thống Nhất Bắc Nam đã thông, gía vé bao cấp còn rẻ.

Một hai đứa trẻ con hàng xóm chạy xộc vào nhà chị Bông hí hửng báo tin:

- Chị Bông ơi, nhà chị có khách ngoài Bắc kìa. .Bà ấy gánh hai bao tải to lắm

. Chị Bông cũng vui mừng thông báo ngay với bố:

- Bố ơi khách Bắc này chắc giàu lắm, họ gánh hai bao tải qùa vào cho nhà mình.

Bà cô ruột của chị Bông đã gồng gánh từ Bắc vào Nam , bà hỏi thăm từ đầu đường đến cuối xóm nên cả khu xóm ai cũng biết nhà chị đang có khách Bắc.

Bố chị dặn dò:

- Ðây là em ruột của bố, chúng ta ?giấy rách phải giữ lấy lề? tiếp đãi cô hậu hĩ . Ngày xưa khi bố theo ông nội đi làm ăn xa quê cô Cam đã mấy lần dẫn mẹ các con từ làng quê đi Hà Nội đến Bắc Giang rồi Móng Cái thăm bố...

Thời điểm lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm đều phải mua bằng sổ hạn chế theo từng đầu người không đủ ăn đủ dùng nên bố chị đã cẩn thận dăn dò thế, kể lể ân tình thế để phòng xa vì đã từng có cảnh khách đến nhà người ta không muốn mời ăn ở sợ hao tốn. Miếng ăn cái mặc bỗng lên ngôi, gía trị tình cảm con người bị chà đạp xuống thấp.?

Vào đến nhà cô Cam đòi thắp hương cho ông nội chị và mẹ chị, cô nước mắt ngắn dài khóc thương người cha xa cách từ năm 1954 và bà chị dâu hiền lành vắn số.

Mấy đứa em háo hức thì thầm với chị Bông:

- Chị ơi, cô Cam mua những gì mà nhiều thế?

Chị Bông sốt ruột:

- Không biết, đợi cô thắp hương xong sẽ mở qùả

Các em và hai con chị Bông tò mò và nao nức chờ cô Cam cho qùa, không biết là những qùa gì trong hai cái bao tải to tướng bằng vải ấy. Cô mở cái tay nải nhỏ trước, lấy ra mấy quả chuối tiêu chín nẫu đã nhũn mềm và tiếc rẻ:

- Chưa kịp ăn thì nó chín cả rồi, trong Nam nắng nóng qúa, mấy qủa chuối này cô mua ăn lúc đi đường, vẫn còn ăn được các cháu ăn đỉ

Thấy chẳng đứa nào muốn nhận mấy qủa chuối thâm đen cô Cam lại moi trong tay nải ra mấy bịch bỏng, mỗi nắm bỏng to tròn bằng nắm tay, cô Cam hớn hở mời mọc::

- Ðây là qùa cô mua cho các cháu, bỏng ở làng quê ta trẻ con nào cũng thích, gạo rang thành bỏng trộn với đường mật và gừng thơm ngon lắm.

Ðứa em gái út của chị Bông thất vọng:

- Ở đây cũng có bỏng này, thế còn món gì trong hai cái bao kia hả cô?

Thằng Bi 3 tuổi con của chị Bông cũng bắt chước dì nó vòi vĩnh:

- Bi muốn cô mở cái bao to kia cho cháu qùả

- Này con, dì út gọi là cô Cam nhưng con phải gọi là bà Cam , từ từ bà Cam sẽ cho con qùa mà..

Chị Bông mắng con đừng nóng lòng mà lòng chị vẫn chờ mong hai bao tải kia được mở ngay ra.

Cô Cam trả lời con cháu út nhưng nhìn chị Bông để giải thích:

- Cái món này các cháu không ăn được, không phải qùa cháu ạ, đây là tỏi vườn cô thu hoạch, năm nay tỏi ở quê ta được mùa nên mất gía, bán rẻ như cho mà người ta còn chê không muốn mua, nhân thể chuyến đi cô mang vào Nam may ra bán khá hơn, thu đồng vốn nào hay đồng vốn ấy..

Tội nghiệp cô Cam đã mang cả gánh tỏi từ Bắc vào Nam .

Chị Bông thất vọng thì ít nhưng các em và hai con chị thất vọng thì nhiều, chúng đành nhận mấy nắm bỏng đặc sản của làng quê cô Cam còn hơn không có món gì.

.Cô Cam bảo chị:

- Mai cháu dẫn cô ra chợ bán tỏi nhé, ở đây cô xứ lạ quê người.

Chị Bông bùi ngùi thương cô:

- Vâng, cô muốn chợ gần chợ xa gì cũng được?

Cô Cam đã gánh tỏi ra chợ tìm các bạn hàng và bán sỉ cho họ với gía rẻ bèo nhưng cô bảo cũng đỡ hơn gía ở quê rồi cô buồn rầu kể:

- Những mùa bội thu lại là mùa mất tiền cháu ạ, công sức mình như đổ sông đổ biển, có năm thu hoạch khoai tây gía qúa rẻ, vừa bán đổ bán tháo vừa tranh thủ luộc khoai tây ăn trừ cơm ngao ngán đến tận cổ thế mà vẫn ăn không kịp, khoai tây mọc mầm tua tủả

Thấy cô Cam tiêu thụ được gánh tỏi bố chị rất vui, chỉ sợ cô em nghèo khổ phen này mất hết vốn liếng trồng trọt.

Những ngày cô ở chơi mấy chị em chị Bông đã đưa cô đi chơi Sài Gòn, đi sở thú và đến thăm vài nhà họ hàng hay người làng người nước, đến nơi nào cô Cam cũng thích. Cô cảm động nói:

- Cám ơn anh và các cháu đã cho em đi tham quan nhiều nơi, xưa nay em chỉ quanh quẩn bên ao làng, bên ruộng nương..Sao mà đường phố Sài Gòn hoành tráng thế cơ chứ..

Ðời cô Cam là một bể khổ, lấy phải người chồng vũ phu lại phụ bạc, ăn ở với vợ có 3 con rồi bỏ đi lấy vợ bé, cô làm lụng ruộng vườn quần quật mà nuôi con vẫn bữa đói bữa no. Ông chồng bệnh chết, người vợ bé hiền lành nhu nhược chẳng biết nương tựa ai mang 2 con về nhà vợ cả xin ở chung. Hai bà vợ của ông chồng qúa vãng cùng ở chung nhà thuận hòa như hai chị em ruột và nuôi 5 đứa con, nếu không biết thì chẳng ai phân biệt những đứa trẻ ấy là con bà nào vì hai bà đều thương yêu chúng như nhau, hai bà đều cật lực làm việc để nuôi chúng...

Ông chồng thật tốt số, lấy hai bà vợ cùng hiền lành phúc hậu, hai bà vợ góa cùng yên phận thờ chồng, ông tha hồ sung sướng yên nghỉ nơi chín suối..

Có lẽ giai đoạn cuộc đời cô Cam sống chung với ?tình địch? lại bình yên hạnh phúc hơn khi sống với người chồng.

Bà vợ bé cũng đoản mệnh như chồng, hiện 5 con vẫn sống với một bà mẹ là cô Cam ..

Ngày cô trở về Bắc bố chị đã mua vé tàu cho cô và tặng cô món tiền nhỏ, cô đã rưng rưng nước mắt trách anh trai từng xông pha theo cha buôn bán khắp phương Bắc, giỏi giang nhanh nhẹn thế mà cái ngày di cư cha và anh đi thoát sao không dẫn cô theo để đời cô bao nhiêu năm nghèo khổ cho đến bây giờ.?

Sau cô Cam những năm sau đó chị Bông không thể nhớ theo thứ tự những ai đã từ Bắc vào Nam thăm gia đình chị, họ hàng gần, họ hàng xa đều được bố chị tiếp đãi thân tình và cho tiền tàu xe lượt về quê, có người chỉ là người làng, họ đi buôn hàng vào Nam cũng ?quá cảnh? nhà chị để có chỗ tạm trú ăn ở không mất tiền và ít nhiều cũng có qùa mang về, những bộ ly tách đẹp ngày nào chị Bông đã mua trong các cửa hiệu trong thương xá Tax trưng bày trong tủ chè cũng mang ra tặng cho khách vì họ khen đẹp và khao khát được một bộ tách như thế, cả những tấm khăn lông to đẹp chị vẫn cất để dành trong tù chưa dám dùng đến cũng là món qùa tặng cho khách. để làm kỷ niệm. Cuối cùng tủ chè và tủ quần áo của nhà chị rỗng dần chẳng có gì đẹp hay đáng giá nữa.

Chị Bông lo xa::

- Bố ơi, nếu cứ cái đà này thì ?.cả làng sẽ vào thăm nhà mình, gạo mua theo sổ thì ít , gạo chợ đen thì đắt đỏ..?

Bố chị luôn an ủi:

- Người ta có qúy mình mới vào thăm, một giọt máu đào hơn ao nước lã?cao lắm mỗi người chỉ vào thăm một lần, đừng để bố mang tiếng cả đời.

Một hôm có chiếc xe xích lô máy đậu xịch ngay trước cửa nhà chị Bông, trên xe bước xuống là một bà Bắc kỳ mặc quần đen, ống quần ngắn lấc cấc, chân đi đôi dép nhựa màu trắng, tay xách một cái làn mây. Bà nhớn nhác nhìn số nhà chị rồi lao vào nhà gọi to:

- Anh ôi, các cháu ôỉ

Bố chị chạy ra ngỡ ngàng:

- - Chào chị, chị đây là ai nhỉ?..??

- Em là vợ Côi đây, Côi và anh hay chơi đùa với nhau ngày xưa ấy.. Nhà em kể rằng.hai anh em họ mà cứ thân thiết hơn cả anh em ruột.

Và thím Côi òa khóc như mưa :

- Ôi anh ôi, ối các cháu ôỉ!!

Bố chị luống cuống:

- A, thím Côi đây hả? nhưng chuyện gì thế thím Côi? Nhà quê có tin gì xấu chăng?? mong thím bình tĩnh kể tôi nghẻ

Chị Bông cũng ái ngại hỏi thăm:

- Hay thím vừa bị kẻ cắp móc túi ở bến xe ??

Thím vẫn nước mắt tuôn rơi::

- Ôi anh ôi, ôi các cháu ôi. Chẳng có việc gì xảy ra cả, em vào thăm anh và các cháu đây, chỉ vì cảm động quá khi găp nhau em không sao cầm được nước mắt?.

Thì ra thế. Một bà thím họ xa cách cả không gian và thời gian thậm chí chưa biết mặt các cháu sao mà tình cảm tha thiết đến thế, làm chị Bông cũng cảm động theo.

Thím Côi khác hẳn với cô Cam, thím mang cho các cháu nhiều qùa bánh và luôn âu yếm xoa đầu nắm tay các em chị Bông và hai con chị Bông làm như chúng từng quen thuộc với thím, từng ở trong vòng tay của thím. Thím còn móc túi lấy ra những đồng tiền lẻ cho các cháu để muốn mua gì thì mua, trẻ con thích thím Côi ra mặt.

Khách Bắc nào cũng được gia đình chị Bông tiếp đón tương tự, dẫn đi thăm chợ Bến Thành, đi chơi sở thú và đi thăm họ hàng làng nước.

Bố của bố chị và bố của chú Côi là hai anh em ruột, thím Côi đã tha thiết nói với bố chị:

- Anh cho em xin một tấm hình của ông để em mang về Bắc thờ cúng với ông em., bây giờ đất nước ta hòa bình nhà nhà đoàn tụ, hai anh em ông ấy cũng đoàn tụ trên bàn thờ hương khói anh nhá.

Thế là hình ông nội chị Bông được trao cho thím Côi, ông sẽ trở về quê cũ, ngồi trên bàn thờ với ông em ruột sau những thăng trầm bể dâu của thời cuộc, của cuộc đời.

Một tuần sau thím Côi bảo chị Bông:

- Thím vào Nam thăm gia đình cháu nhân thể muốn mua món đồ điện tử mang về nhà dùng, nghe nói hàng điện tử ở Sài Gòn có nhiều loại xịn lắm?

- Vậy thím muốn mua gì cháu sẽ dẫn thím ra đường Huỳnh Thúc Kháng bán đủ thứ hàng điện tử tha hồ cho thím chọn lựa.

- Chỉ còn 2 ngày nữa thím về Bắc mà còn bận đi thăm mấy người nhà bên thím ở Khánh Hội và đi mua sắm thêm nhiều món quần áo nên bận rộn lắm. Cháu là người thành phố rành rẽ hơn thím, cháu cứ mua hộ thím 1 cái đài cát sét loại nào hiện đại nhất là được, bao nhiêu tiền không thành vấn đề. Thế thôi, cháu nắm bắt được ý của thím chưa? Cháu quán triệt chưa?. .

- Vâng cháu hiểu rồỉ

Thím Côi rộng rãi và xài sang qúa, chị Bông ngầm nể nang thím. Như đọc được ý nghĩ của chị Bông, thím Côi khoe:

- Cháu ơi, nhà nước ta đang từng bước xóa đói giảm nghèo, chẳng mấy chốc mà ai cũng có điều kiện như thím mua đài nghe tin tức khỏi cần nghe loa từ uỷ ban thông tin văn hoá xã nữa. Loa đọc ra rả rát cả tai..

Chị Bông vui vẻ vì được thím tin cậy:

- Cháu sẽ mua 1 cái đài cát sét bảo đảm thím sẽ vừa ý.

Thím Côi nói xong không đưa tiền hay nói năng gì thêm, chắc là thím quên, chị Bông không dám nhắc sợ thím buồn thím giận người nhà không tin cậy nhau trong khi thím đến nhà chị đã bộc lộ bao nhiêu là tình cảm, đã xin hình ông nội chị để thờ cúng, đã móc túi cho các em chị cho con chị tiền mua quà vặt.

Chị Bông bàn với bố:

- Thím đi cả ngày thăm họ hàng bên thím mà ngày về quê cận kề hay là con cứ bỏ tiền ra mua cái radio cassette rồi về thím trả sau bố nhỉ?

Bố chị gật gù:

- Phải đấy, chắc thím ấy bận rộn nên quên chưa đưa tiền hoặc là thím chẳng biết gía cả bao nhiêu mà đưa nên đợi con mua hàng về thím mới trả tiền sau ...

Chị Bông đã đi đến mấy con đường nổi tiếng chuyên bán hàng điện tử để chọn mua 1 máy cassette ưng ý nhất giá tương đương 5 chỉ vàng, mang về nhà chị khoe thím món hàng đẹp nhưng thím chỉ nói cám ơn vẫn không đá động gì đến tiền bạc dù chị đã mấy lần nhấn mạnh cháu phải bán đi mấy chỉ vàng để mua cái máy này.

Ngày mai thím Côi sẽ ra ga Hòa Hưng về Bắc, chị Bông thấp tha thấp thỏm đợi chờ thím trả tiền từng giờ, từng phút, chị đã vờ nhắc nhở:

- Thím xem lại hành lý có quên gì không.?

- Ðủ cả cháu ạ?

Thím ngọt ngào như đường như mật :

- Các cháu có quên thím thì quên chứ thím chẳng bao giờ quên các cháu.

- Thế ?thế?cái máy cát sét thím lên tàu phải cẩn thận đề phòng kẻ cắp nhé, những 5 chỉ vàng đấỷ?

- Cháu vô tư đi, kẻ cắp nào dám đụng đến thím? Thím từng đi buôn mạn ngược rừng xanh núi đỏ thím còn không sợ nữa là?

Cuối cùng chị Bông chịu đựng hết nổi bèn ngượng ngùng nói::

- Thím ơi, còn tiền cái máy cát sét của cháu thím chưa đưả..

- Ấy chết thím quên chưa báo cáo với cháu là thím đã mua hàng hết tiền rồi, thím mua một mớ quần áo may sẵn về quê bán kiếm tí lời tí lãi bù lỗ tiền tiêu vặt chuyến đi này cháu ạ.

Chị Bông thót cả tim:

- Vậy là?.??

- Thím cháu mình đi đâu mà mất, về quê thím sẽ gom tiền gởi trả cháu ngay, cháu muốn tính tiền lời thím cũng trả.

- Cháu mua bao nhiêu thím trả bấy nhiêu là được rồi.

Năm chỉ vàng thời điểm này và trong hoàn cảnh của chị Bông thật lớn lao vậy mà thím đã khơi khơi mượn nợ chị một cách nhẹ nhàng và tài tình qúa.

Những gia đình Bắc kỳ di cư 1954 như gia đình chị Bông đều có khách từ Bắc vào thăm, phần nhiều chủ nhà đều phải tiếp đón và cho qùa tùy theo hoàn cảnh gia đình.

Nhà chị Mai bạn thân của chị Bông thì may mắn hơn, bà bác ở Hà Nội mang vào Nam rất nhiều qùa cho em và các cháu, bà mang vải hợp tác xã, bát đũa và cái phích nước Trung Quốc thịnh hành thời đó?

Vào đến Sài Gòn bà chị Hà Nội mới ngã ngửa khi thấy căn nhà 3 tầng lầu nguy nga của gia đình em ngay trên con đường lớn gần bệnh viện Từ Dũ

Bà Hà Nội nói với bà Sài Gòn::

- Chị nghe tuyên truyền trong miền Nam đói khổ thiếu ăn thiếu mặc nên chị đã mang vải và mua chợ đen mấy ký lương khô cho nhà em bồi dưỡng đây. Ai ngờ..

Bà em Sài Gòn thành thật:

- Vải hợp tác xã toàn mùi dầu mua về các con em không chịu may mặc em phải bán lại con buôn, còn lương khô thì có ngon lành gì đâu, ăn vào chỉ tổ khát nước.?

- Ừ, nhưng lương khô tổng hợp nhiều chất bột bổ dưỡng, bộ đội chiến trường nếu mất nguồn liên lạc có lương khô và nước thì vẫn sống và chiến đấu đấy em?.

Bà chị Hà Nội đi dạo khắp nhà và trầm trồ khen nhà em gái to lớn còn hơn cả cơ quan nhà nước ở Hà Nội. Bà bùi ngùi :

-.Chị cứ tưởng đời chị là yên ổn sung sướng hơn người, hai vợ chồng đều là cán bộ, chế độ tem phiếu đầy đủ, chính phủ cấp nhà ở ngay Hà Nội dù chật hẹp và chung hộ với gia đình khác nhưng khối kẻ mơ mà không có. Vào miền Nam thấy nhà em chị tủi thân qúạ, 3 tầng lầu có 3 cái chuồng xí, còn nhà chị phải dùng chuồng xí tập thể..?

Ðể đáp lễ bà chị, mẹ Mai đã tặng chị nhiều hàng hóa gía trị gấp mấy lần món qùa bà đã nhận.

Gia đình chị Bông đã sang Mỹ định cư, không còn ai ở lại Việt Nam dĩ nhiên không kể những thân nhân miền Bắc. Mối liên hệ tình cảm vẫn tiếp tục, những người khách không mời năm xưa vẫn nhận qùa mỗi cuối năm.

Bố chị nói đúng, cho tới bây giờ gia đình chị vẫn gởi thư về thân nhân miền bắc chỉ cần ghi tên người nhận và địa chỉ vẫn không có số nhà, vẫn là tên làng tên xã không hề thay đổi.. Thật bền bỉ đến kinh ngạc và thán phục khi hơn 3/4 thế kỷ mà người ta vẫn ở yên một chỗ nếu tính những người cùng trang lứa với bố chị sinh từ năm 1927 tại làng quê này.

Sau vụ biến cố September 11, 2001 gia đình chị Bông nhận được lá thư từ miền Bắc của chú Côi, chữ chú vẫn gà bới như xưa, phần đầu thư vẫn trịnh trọng tuyên truyền giùm nhà nước như xưa:

?Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .. Ðộc lập tự do hạnh phúc.

Anh kính nhớ và các cháu luyến nhớ, trước tiên em có lời hỏi thăm sức khỏe cả nhà, được tin cả nhà ta bên ấy bình an không bị ảnh hưởng gì trong vụ khủng bố chúng em bên này vui mừng lắm??

Và cuối thư chú Côi đã bày tỏ cảm tưởng:

?Nghe đài thấy vụ khủng bố toà nhà cao tầng ở Mỹ vào ngày mồng 11 tháng 9 chúng em cực kỳ kinh hãi. Em xin gởi lời chia buồn đến tất cả nhân dân Mỹ và chúc nhân dân Mỹ kiên cường phấn đấu vượt qua giai đoạn khó khăn nàỵ?.

Những câu văn này chắc là chú Côi bắt chước những bài viết trên báo, trên đài, sặc mùi nhà nước..

Bây giờ những thân nhân ngoài Bắc của gia đình chị Bông có muốn đến thăm nhà chị cũng không được, ai bán vé xe lửa cho họ từ Bắc?sang nước Mỹ như ngày nào họ mua vé xe lửa từ Bắc vào Nam.

Từ Bắc vào Nam năm 1975 những đoàn quân miền Bắc đã vơ vét bao nhiêu ?chiến lợi phẩm? nhà cửa, đất đai ruộng vườn, của cải của dân miền Nam bỏ lại hay bị cưỡng chế.

Từ Bắc vào Nam những người dân miền Bắc dù bất cứ thành phần nào, thăm thân nhân họ hàng sau bao nhiêu năm xa cách cũng nhặt nhạnh xin qùa, xin của mang về.

Người bên thua cuộc là kẻ cho và người bên thắng cuộc là người nhận. Ðiều nghịch lý lại là sự thật, thế nên trong thời điểm đó nhân gian miền Nam đã có câu ?Người miền Bắc thích ?cua bể? miền Nam.?.

* "Cua Bể" : Bê của


Nguyễn Thị Thanh Dương


Mục Lục


2. Hiến Chương Tình Yêu (truyện dài nhiều kỳ)

Tình Hoài Hương



Kinh thành HUẾ Thơ & Lăng Tẩm

"Ði bộ thì khiếp Hải Vân
Ði thuyền thì khiếp sóng thần hang Dơi"...

Khi đoàn xe mỏi mệt "bò" rất chậm xuống khỏi đèo Hải Vân Bắc, ai nấy đều cảm thấy nhẹ nhỏm, tuy lúc nầy thì khí hậu ở vùng dưới chân đèo phía Bắc đã thay đổi hẳn, nghiã là ở đây khá nóng, còn trên đỉnh đèo Hải Vân luôn luôn rất lạnh.

Xe đi một đoạn ngắn là tới Làng *LĂNG CÔ nằm về phiá tay phải, sát cạnh quốc lộ 1. Bãi biển Lăng Cô còn gọi là "Vịnh Lăng Cổ an lạc giữa đèo Phú Gia và chân đèo Hải Vân Bắc. Lăng-Cô nép mình dọc rặng núi Bạch Mã hùng vĩ. Lăng Cô nơi suốt tháng năm biển xô sóng bạc đầu ì ầm gào thét, nước biển trong vắt, bãi cát mịn màng tuyệt đẹp. Lăng Cô nổi lên trên ba hướng biển bao bọc như một cù lao bồng bềnh, nhấp nhô uốn lượn sóng vỗ ngày đêm xôn xao nỗi nhớ thương dìu dặt. Lăng Cô gần giống chiếc thuyền trăng lả lướt trôi đi trôi về trong đại dương bao lạ Thấp thoáng đó đây bao lọng dừa xanh, hàng thùy dương nhã nhạc dìu dịu êm êm, vi vu dưới bầu trời vần vũ mây trắng lãng đãng bay baỵ

Xa xa rừng *BẠCH MÃ với đường xe hơi ngoằn ngoèo leo lên núi dài 19km. Nơi đây có khoảng hơn một trăm ba mươi ngôi biệt thự được người Pháp xây dựng từ lâụ Núi Bạch Mã có 172 bậc cấp nện đất cứng dẫn tới thiền viện Linh Sơn Trúc Lâm. Khí hậu trên núi trong lành thoáng mát. Mặt trời ban mai nhảy nhót lung linh lóe lên những chùm nắng vàng anh, đan trong biển nước xanh xanh, tạo thành màu xanh cổ vịt lấp lánh. Ðôi khi hừng lên màu cánh cam sáng chói, rực rỡ như chiếc cầu vồng uốn cong trên bầu trời thênh thang gió lộng. Xe ghé lại Lăng Cô, khách lữ hành mua tôm hùm, tôm sú, tôm vằn, tôm đất, mực khô, cua, ghẹ, sò huyết. Các loại cá biển vừa tươi ngon, lại rẻ nhất vùng. Họ khệ nệ bưng lên xe để mang về nhà làm quà biếụ

Thoáng chốc xe đã chạy ngang qua vùng đất dọc ven biển: *THỪA LƯU, *CẦU HAI, *TRUỒI ở xã Lộc Hoà, huyện Phú Lộc; bờ biển có nhiều bãi đá nhỏ to chồng chất xếp lớp ven bờ. Truồi có những dòng suối mát lạnh và trong vắt. Rồi *HƯƠNG THỦY, qua phi trường *Phú Bài là một trong những phi trường lớn ở miền Trung, cách đất Thần Kinh không xa mấy (khoảng mười bảy, mười tám cây số). Qua cầu An Cựu là ta chính thức bước vào cửa ngỏ HUẾ thơ!
?Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
Sông An Cựu nắng đục mưa trong? .

Ðúng là sông An Cựu mùa nắng nước đục, mùa mưa nước trong, kỳ lạ đặc biệt, dễ ghét mà rất dễ thương, sông nước là thế mà núi thật lạ lùng: Núi Ngự phiá trước trọc trọc tròn tròn, lơ thơ cây cỏ, phiá sau có méo méo thiệt dị dạng; nhưng mang tính đặc thù bí ẩn làm sao! Núi Ngự cao 105 mét, kèm hai bên núi đất nho nhỏ là tả Phù Sơn và hữu Phù Sơn. Thuở trước xa xưa núi Ngự có tên là Bằng Sơn (hoặc Bình Sơn). Sau nầy vua Gia Long đổi tên núi là Ngự Bình.

Sông Hương bắt nguồn từ dãy núi Bạch Mã chảy dài dài qua dọc theo nhiều thác nguồn, rồi hợp lưu với Tả Trạch, Bằng Lãng, Hữu Trạch. Sông Hương trải rộng và chạy dài uốn lượn xanh thẳm giữa kinh thành, nước xuống nước lên lúc giận dữ cuộn sóng xô bờ, khi êm đềm nước thong dong chảy lặng lờ êm xuôi về Kim Long, Nguyệt Biều, Vỹ Dạ, Gia Hội, Ðông Ba, Bao Vinh; tạo thành dòng Hương Giang dài ngoẵng mênh mông lượn lờ trong thành phố Huế. Sông Hương yêu kiều không kém phần thi vị và lãng mạn:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp laỵ..
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối naỷ

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không rạ..
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà? (HMT)

*HUẾ ! di sản đặc biệt quý giá là tặng phẩm độc đáo của Trời ưu ái ban tặng, và cũng là sính lễ sang trọng của vua Chiêm Thành khi cưới công chúa Huyền Trân. Huế là vùng khí hậu nhiệt đới, có bốn mùa rõ rệt: Mặt trời luôn rót nắng vàng hanh chảy xuống Ðại Nộị Mùa đông buồn lặng, đìu hiu ướt át, lụt lội gió bão mịt mù.

Mùa Xuân xanh tươi, mát mẻ êm êm, trời trong xanh mây trắng nhẹ lâng lâng bay bay khắp đường đi nẽo về & đầy mùi hoa thơm. Mùa Hạ rực nắng tình hè, trời hâm hấp nóng nực kinh hồn với những hàng phượng Vỹ đỏ rực soi mình trên sông Hương, phượng nghiêng mình đứng bên hồ Tịnh Tâm. Ít ra từ mỗi sân trường, từng xóm làng? đâu đâu cũng có thể thấy hoa phượng rực rỡ tươi màu giữa nắng gió khuya chiều rộn rã tiếng ve sầụ

Mùa Thu gợi nhiều lãng mạn, hiu hiu gió heo may đưa đẩy lá vàng hững hờ rụng lả tả bay baỵ

Mùa Ðông buồn lặng, đìu hiu ướt át, lụt lội gió bão mịt mù, ảm đạm, não nề ốm nắng, trần mây xuống thấp, mưa bão triền miên, nhiều ngày lụt lội dâng caọ Dù gió lạnh buốt xương sống, nhưng thanh niên nam nữ vui thích ưa mặc áo mưa đi ra phố, họ đứng đông đúc xếp lớp dọc hai con phố chính là: đại lộ Trần Hưng Ðạo và Phan Bội Châu, để nhìn thiên hạ bì bõm lội nước lụt.

Nhắc đến Huế, nghe tên Huế? sao lòng mình cảm thấy rạt rào rung cảm, luyến thương dập dồn đến thế không biết!? Mười xin nói với Huế, nghĩ về Huế, ghi lại hình ảnh quần thể di tích lịch sử Huế từ những kỷ niệm long lanh lắng sâu trong hoài niệm. Mười thương Huế thuở còn rất nhỏ (lần đầu tiên với gia đình ba má từ Ðà Lạt trở về quê cũ). Mười được thân nhân họ hàng anh chị cho du lãm rong chơi khắp kinh thành cổ kính trầm mặc đó đây: Cô nhỏ (trong mắt trẻ thơ) ngơ ngác nhìn dãi mây mềm mại vàng óng, vắt ngang lớp lớp hàng cau, chen cánh những hàng dừa trong hoàng hôn nghiêng bóng. Nhất là lúc nhìn thấy tổng thể kinh thành Ðế Ðô Huế quá mới mẻ lạ lùng, đầy tráng lệ nguy nga, ấy là lúc cô nhỏ cảm thấy choáng váng, bàng hoàng.

Từ năm 1775 Ðếđdô Huế được các vua chúa Nguyễn chọn nơi nầy làm Kinhđdộ Huế là một chỉnh thể kỳ quan, xây dựng tuyệt hảo nhất từ triều đại vua Gia Long. Huế có giá trị về văn-học-sử, cung điện vàng son mang đậm nét đặc thù, dân tộc tính, có những tên nghe khá ?oai, hách, đài các, vinh sang? như: Ðiện Cần Chánh, Ðại Cung Môn dành riêng cho hoàng giạ Càn Thanh là nơi vua nghỉ ngơị Thái Bình Lâu đọc sách gần vườn Ngự Uyển.

Trước tiên là kỳ đài, sân đại triều rộng lát đá xanh có cửu đỉnh, điện Thái Hoà là nơi an ngự và làm việc của vua, nơi quan trọng tổ chức các buổi thiết triềụ Có ao sen cầu vồng, hồ cá hòn non bộ lung linh dưới nước khi chiều tà xế bóng. Ðại nội có hệ thống kiến trúc cung đình, đền đài, chùa miếu rất hoành tráng, tuyệt mỹ, kiên cố, cổ kính, vĩ đại: từ kèo, cột, câu đầu, thượng lương, vân vân... Có Hoàng Thành là vòng thành thứ nhì. Tử Cấm Thành tách bạch với bên ngoàị Cửa chánh khởi đầu là cửa Ngọ Môn coi bề thế. Trên vòm cổng là lầu Ngũ Phụng. Cửa Thượng Tứ, cửa Ðông Ba, cửa Chánh Tây, nhà Ðồ, cửa Ngăn, cửa Hiển Nhơn, Chương Ðức, cửa Hậụ Nội Thành trang nghiêm kín đáo có hai ổ súng thần công: Một bên là: Kim, Mộc, Hoả, Thủy, Thổ. Bên kia là: Xuân, Hạ, Thu, Ðông. Hồ Tịnh Tâm vời vợi tình luyến thương hoài cổ, ngậm ngùi thương cảm một thời hưng thịnh.

Thời vàng son vua chúa có những nghi thức và cung cách riêng, biệt lập cùng những tên gọi nghe ?rất kêu; rất hách và đỏm đáng? như: Hoàng hậu, qúy phi thì ở trong cung có tên gọi ?Không Tháỉ. ?Duyệt Thường Thị? là phòng dành cho mọi người xem văn nghệ; nơi đặc thù văn hoá kết hợp sít sao giữa giao-ca dân dã tình tứ, có thứ tự, hài hoà, bài bản, lớp lang với giao-ca cung đình khuê các. ?Thái Y Viện? là trung tâm y tế. ?Thượng Thiện? là nhà bếp.
* * *


Phía Nam sông Hương và phía Tây núi Ngự là khu quầng thể lăng tẩm, tích tụ nhiều lối điêu khắc tinh vi, có cửu đỉnh đúc đồng thau kỷ thuật tinh xảo, mỗi đỉnh mang một tên riêng, tượng trưng cho mỗi vì vuạ Ðỉnh có 18 hoạ tiết phong cảnh, hoa chim, khắc chữ nổi mang tên mỗi đỉnh, như: Caọ Nhân. Chương. Anh. Nghị. Thần. Tuyên. Dụ. Huyền. Cao Ðỉnh cao 2m rưỡi là to lớn bề thế nhất. Huyền Ðỉnh cao 2m,31phân, nhỏ nhắn xinh xinh. Bên phải có miếu Triệu, Thái, Hưng, Thế, Phụng Thiên. Mái nhà lợp ngói hoàng lưu ly, cột chạm rồng to uốn khúc giác vàng kim nhũ. Trần phi vân. Vách khắc kỳ công, chạm trổ tinh vi, có giá trị vô cùng phong phú.

Từ những hình bát mã, bạch tượng, kỳ lân, tứ linh, tứ quý, quan văn, quan võ, đại thần phân chia rõ thứ hạng, phẩm trật từ các lăng: Minh Mạng. Thiệu Trị. Ðồng Khánh. Tự Ðức. Gia Long. Khải Ðịnh? vân vân? Lăng tẩm Ðế Ðô đất Thần Kinh nghìn năm vang bóng, gồm hai phần chính: Lăng là mộ phần. Tẩm là nơi thờ cúng.

1./ Lăng GIA LONG (tên thật vua: Nguyễn Phúc Ánh, 1762-1819, miếu hiệu: Thế Tổ Cao hoàng đế). Lăng xây ở làng Ðịnh Môn, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, xa trung tâm kinh thành Huế khoảng 16 km về hướng Bắc ? Nam, quần thể ?hiệp lăng? do quy tụ có nhiều người thân tộc đã chết trước, sau, chôn rải rác quanh vùng, nên chu vi rộng 2.875ha; (riêng lăng 1800m, 20ha) có 43 ngọn núi đại Thiên Thọ chầu quanh mộ chính, thuộc quận Nam Hoà, lăng về hướng Nam đơn sơ xây từ 1814 rộng thênh thang, đơn giản, bao la trầm mặc, buồn thiu bên bờ Tả Trạch, có sông nhỏ nước chảy lặng lờ. Có hồ bán nguyệt đầy sen. Hàng quan văn= 5 tượng đá. Võ sĩ quan= 5 tượng đá đứng thẳng tắp với hai con rồng ở các tầng cấp của bậc sân đắp gạch vôị Hai con ngựa to, hai con voi đá lớn ở Bái Ðình. Sân sau rợp bóng cây cổ thụ chằng chịt.

Lăng Gia Long đặc biệt độc đáo bởi có hai mộ táng phẳng lì, màu nhờ nhợ đen đen than đá bình dị, đơn sơ, không chạm trổ của thi hài vua và hoàng hậu nằm song song yên nghỉ bên nhaụ Lăng Gia Long xa xôi bao bọc núi rừng trùng điệp âm u, chen lẫn đồng bằng bị mài mòn bởi tiếng thổn thức của thời gian. Cảnh trí lăng hài hoà im lắng, thâm sâu, không có la thành, tuy thế vẫn hùng tráng, đơn điệu ngó thật quá buồn phiền sao đâụ Khi vua Gia Long đã thu phục giang sơn từ Bắc xuống Nam, vua đã đặt tên nước: Việt Nam, lúc bấy giờ chính trị trong nước đỗ nát, mọi việc cần phải chỉnh đốn, sửa sang.

Triều chính trải qua những khó khăn, khốn đốn rất nhọc nhằn, vất vã, gian nan vô cùng, nào là: thưởng, phạt, tặng phong, làm đền thờ cho chiến sĩ tử vong. Phát huy và xây dựng đất nước, từ các việc: - Tổ chức lại thuế đinh bạ, điền bạ. Mở sở đúc tiền đồng, kẽm, nén bạc, nén vàng. Vua chuẩn định lại thước đo, cái cân chính xác. Sửa sang quan lộ, đường sá, đắp đê điều, cầu cống, sông ngòi, xạy chợ, nhà thương, v.v? Tới việc in sách làm ra luật pháp. Mở mang trường học gồm các trường: võ, văn, quốc sử, địa dự Song song với việc an cư trong nước, vua Gia Long đã mở rộng bang giao với: Tàụ Chân lạp. Xiêm Lạ Anh Cát Lợị Pháp. Thời kỳ thịnh trị của vua Gia Long có những tháng năm phú cường, (sau chiến tranh giành thắng, vua đã nghe lời nịnh thần xiểm nịnh, mới ra nông nỗỉ !!!

ạ/ [*Vua Gia Long có tài trí mở mang bờ cõi, khôn ngoan, lừng danh trong thời chinh chiến gian truân, đã thống nhất giang sơn, khôi phục nghiệp lớn là thế. Tuy nhiên, ngài có yếu điểm là sự ?căm thù tột đỉnh? (nghe lời nịnh thần)? khi vua (Thế Tổ) về kinh thành năm Nhâm Tuất 1802, thì vua Gia Long đem vua tôi nhà Tây Sơn về kinh, làm lễ hiến phù ở đền Thái Miếu xong, vua Gia Long đem họ ra pháp trường trừng trị. & Ông cho quật mả vua Nguyễn Nhạc & vua Nguyễn Huệ lên, vứt thây đi, còn đầu lâu thì đem giam ở trong ngục tối* (*)=ít trích dẫn từ Việt Nam Sử Lược, (VNSL, Trần Trọng Kim),trang 172)].

b./ ông Nguyễn Văn Thành phải uống thuốc độc chết. Nguyễn văn Thuyên bị chém. Ông Ðặng Trần Thường bị bắt bỏ ngục xử tội giảo (trích dẫn VNSL trang 187).


2.- Lăng MINH MẠNG (tên vua Nguyễn Phúc Ðảm 1791-1840, miếu hiệu: Thánh Tổ Nhân hoàngđdế) Bao quanh núi Cẩm Khê, và có núi Kim Phụng án chầu, lăng xây năm 1840, xa trung tâm kinh thành Huế 12km, ở La Khê Bãi, xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, lăng về hướng TâyÐDông rộng 1732m, 15hạ Bửu thành xây hình tròn, tường thành cao cỡ 3m, có ba cửa vào lăng.

Tổng thể lăng Minh Mạng nhìn phần trước thì rộng, thoáng và phóng khoáng, bề mặt đăng đối, uy nghiêm, đường bệ. Nhưng càng bước tới khu chính điện thì chu vi và chiều dài khu lăng sâu hun hút, vời vợị Càng vào gần lăng thì lối kiến trúc lại dày, quy mộ Lăng đường bệ an ngự trong vùng đầm phá đất cổ thoáng mát, núi đồi, sông ngòi, khe suối, có hồ Trừng Minh nước xanh mơ màng đầy sen đung đưa trong gió thoảng mùi hương dìu dịu, và cầu Hữu Bật nhịp nhàng tiết tấu với hàng tượng đá phân chia thứ hạng, phẩm trật, quần thần. 5 quan văn đá= (có năm bậc, gọi là ngũ phẩm). 5 quan vỏ đá (có bốn bậc, gọi là tứ phẩm). Có hai voi, hai ngựa chầu thánh điện.

Quan tài vua Minh Mạng chôn tại Bửu Thành. Vua Minh Mạng là người tài trí, thông minh, văn hay chữ tốt, uyên thâm nho học. Chính vì vua là người rất sùng đạo giáo, trọng đạo Khổng, Mạnh, coi đạo nầy là chính đạọ Vì thế vua nghiêm khắc, chuyên chế, nhiều cương ít nhu, rất uy quyền, bạo tàn trong việc cấm ngặt người Việt theo đạo Ki tô, vua ra nhục hình cho người Việt có đạo Thiên Chúa, ít độ lượng khoan dung bằng các nhục hình dã man, nếu họ không chịu từ bỏ đạo, thì họ phải bị: lăng trì, cho ngựa xé, voi dày, giết họ đến chết không tha, (vì cái tội mình là người Việt lại theo ?tả đạo, là đạo ngoại lai Tây phương?).

Ðối ngoại thì Vua thân chinh đi ngàn dặm xa xôi muôn ngàn cách trở mà đánh Xiêm La, Lào, ổn định bờ cõi Việt Nam. Vua thành công trong việc nâng cao đời sống cho dân giàu nước thịnh sửa sang việc nhà, việc nước. Tuy nhiên vua Minh Mạng là người rất hết lòng lo cho quốc thái dân an, luôn sống trọn vẹn vì tổ quốc vì dân, ngài muốn nâng dân trí lên cao, hiếu học. Vua mở Quốc Tử Giám, vào những năm: tí, ngọ, mẹo, dậu thì có trường thi Hương.

Năm: thìn, tuất sửu, mùi, thì mở trường thi Hội, Ðình, cho giám sinh có điều kiện học hành, dễ dàng có cơ hội thi thố tài năng, và tuyển chọn xứng đáng người khoa bảng ưu tú mỗi năm. Ngài nghiêm cấm và xử luật những kẻ cường hào ác bá, chuyên bắt nạc dậm dọa bá tánh hiền dân. Kẻ cờ bạc, rượu trà say sưa phải trừng trị thỏa đáng. Ngài lập ra nhà dưỡng tế cứu giúp bần nông cùng đinh nghèo khổ.
(? ít trích dẫn ghi vắn tắt: ?)? Vua Minh Mạng, quan tướng, binh sĩ vất vả vô cùng diệt ?giặc trong khởi loạn? khi nhiều dư đảng đang nhiễu loạn khuấy rối trong nước, như: Phan Bá Vành. Lê Duy Lương. Nông Văn Vân. Lê Văn Khôi (con nuôi của tổng trấn Gia Ðịnh Lê Văn Duyệt). Tuy rằng Lê Văn Duyệt là một đại công thần đã chết, nhưng do bè đảng nịnh thần ác ý bới móc dâng sớ liên tiếp tấu trình, nên vua Thánh Tông đã ra chiếu dụ rằng:

Nhổ từng cái tóc Lê Văn Duyệt mà kể, cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bổ quan-quách mà giết thây, cũng là đáng tộị Song nghĩ hắn chết đã lâu, đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mả, không bỏ gia đình. Vậy, cho tổng đốc Gia Ðịnh đến mả hắn san bằng thành đất phẳng, dựng bia khắc lên câu: ?Chỗ nầy là nơi quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp? ; trẫm chỉnh tội danh cho kẻ đã chết, tỏ phép nước về đời sau làm gương cho kẻ quyền gian muôn đờỉ? ).

Mãi đến nhiều năm sau có quan đại học sĩ đông các tên Võ Xuân Cẩn làm sớ tâu trình xin vua gia ân cho các ông ?nghịch tặc? trên ấỷ như sau: ?thân lại đại tướng, quận công, ví dù cậy công mà làm thành tội, có tội thì tội đã trị rồi, mà có công thì không ai nói đến, chẳng hóa ra đem công lao bách chiến bách thắng của Lê Văn Duyệt làm thành cái tàn hồn phải bơ vơ như ma quỷ ngoài đồng, không ai thờ cúng không??. Sau nầy vua Dực Tông xem sớ ấy, rất cảm động, bèn truy phong phẩm hàm cho con cháu họ. (Than ôi!!!)

Click here to view the original image of 718x955px.



3.- Lăng THIỆU TRỊ (tên vua: Nguyễn Phúc Miên Tông 1807-1847, miếu hiệu: Hiến Tổ Chương hoàngđdế ). Lăng về hướng Ðông-Nam Tây-Bắc, rộng 1000m, 6hạ Lăng có chân núi Thuận Ðạo cận tiện, núi Chằm, núi Kim Ngọc, núi Ngọc Trản ?tả long hữu hổ? chầu và động Bàu Hồ, có đồi Vọng Cảnh ở Làng Cư Chánh, Xã Thủy Bằng, Huyện Hương Thủỵ Lăng xa trung tâm kinh thành Huế 7,5km, có đường hầm để đưa quan tài vua vô huyệt mộ (gọi là đường toạiđdạo). Lăng Thiệu Trị trầm mặc, tuy đơn sơ khiêm nhường an phận nhất trong các lăng, nhưng không vì thế mà kém bề thế, dồi dào kiến trúc tinh xảo, sắc cạnh? với 2 voi, 2 ngựa, 10 người đá oai hùng gần ba hồ Nhuận Trạch, Ngưng Thúy, hồ Ðiện.

Cũng trong chu vi khu đất nầy còn có ba lăng mộ là: Hiếu Ðông (bà Hồ thị Hoa, mẹ vua) ? Xương Thọ Lăng (bà Từ Dũ, vợ vua) và những khu mộ con vua (bị chết lúc còn nhỏ gọi là ?tảo thương?). Thế nên nhà nghiên cứu G.Langland (Pháp) đã nói: ?Le tombeau de Thieu Tri peut être considéré comme une des réalisations les plus originales de l?art annamite du XIXe sièclẻ (Lăng Thiệu trị có thể nghệ thuật được xem là một trong những thành tựu độc đáo nhất của nền mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XIX).

4.- Lăng TỰ ÐỨC (tên vua: Nguyễn Phúc Hồng Nhậm 1829-1883, miến hiệu: Dực Tông Anh hoàng đế). Lăng xây 1864 trên núi Khiêm Sơn, Ðộng Án về hướng TâyÐDông, thuộc Dương Xuân Thượng, (thôn Thượng Ba), xã Thủy Xuân, xa trung tâm kinh thành Huế 7km. Khu lăng có 2 voi đá, 2 ngựa đá, và 8 tượng đá quan thần. Rừng thông reo vui trong gió ngút ngàn, đất đai phì nhiêu rộng vài chục mẫụ Thành quách cao uốn lượn hài hòa bao bọc theo địa hình khuôn đất màu mỡ và phóng khoáng, có hồ Lưu Khiêm, thủy tạ sinh động, hào, cây cảnh tạo hình, hồ sen bạt ngàn hoa, đắp đất thành đảo Tịnh Khiêm soi bóng xuống mặt hồ trong xanh, nhà bia được bài trí hài hòa bởi rừng thông ngút ngàn ngày đêm reo vi vu, nơi nầy vua cùng các quan văn, võ ưa làm thơ phú, hoặc bàn chuyện chính trị. Trong hậu cung xây nhiều tòa nhà ngang dọc đền đài nho nhỏ xinh xinh.

Vua Tự Ðức tâm tính hiền lành, nhân hậu, có tiết tháo và phẩm cách cao quý. Ngài vô cùng hiếu thảo với cha mẹ và thương quan, dân, như con. Vua uyên thâm nho-học, đa cảm mà đầy nghệ thuật tính. Vua giỏi: sử, triết, văn, thợ Vua làm 600 bài văn, nhất là vua thi sĩ trữ tình có 4.000 bài thơ chữ Hán, 100 bài thơ Nôm rất hay). Vua chú trọng đến việc nước, nhất là Sĩ: chăm lo về việc giáo dục, học hành, thi cử. Nông: chuyên làm ruộng. Công: dạy nghề, học những nghề căn bản tiểu công nghệ, dệt vải, thợ mộc, thợ rèn, v.v?.

Thương buôn bán nhỏ từ trên thuyền, dưới bến đường bộ, đường núị Những phẩm chất cao quý của vua Tự Ðức rất đáng trân trọng, tuy nhiên do việc triều đình vua Tự Ðức không mở cửa buôn bán với ngoại quốc, việc nghiêm cấm người Việt theo đạo Kitô và giết những giáo sĩ: Y Pha Nhọ Bonard. Charbonnier. Matheron? khiến mối giao hảo Pháp-Việt đã nhạt nhẽo, bất hòa, càng thêm rạn nứt trầm trọng (xin xem thêm ?Histoire de la Cochinchinẻ ? tác giả P. Cultru).

5.- Lăng DỤC ÐỨC (tên vua: Nguyễn Phúc Ưng Chân 1853- 6-10-1883, miến hiệu: Cung Tông Huệ hoàng đế). Lăng ở đông?tây Phường An Cựu, xa kinh thành Huế chưa đầy 3km. Lăng thuở trước rất bé nhỏ, đơn sơ, nhưng sau nầy vua Thành Thái xây lại coi cũng không đến nỗi nào bé. Từ khi vua Tự Ðức chết, thì cái ngai vàng oái oăm ấy đã trở nên vô cùng rối rắm, hỗn loạn vô biên với 3 và thêm 4 đời vua (những người thuộc các hệ khác của hoàng tộc Nguyễn Phúc? thay phiên nhau lên ngôi chỉ trong vòng 4 tháng: Dục Ðức. Hiệp Hòạ Kiến Phúc. Khốn thay lại có thêm 4 đời vua ngắn ngủi nữa: Hàm Nghị Ðồng Khánh. Thành Tháị Duy Tân).

{Ở giai đoạn lịch sử triều đình Việt Nam lúc bấy giờ quá rối rắm, phức tạp, do bọn chuyên quyền gian ác phụ chính đại thần trong triều thao túng, gây ra đẫm máụ Vua Dục Ðức là hoàng trưởng tử khi lên ngôi lúc 32 tuổi, chỉ làm vua 3 ngày, là bị phế, bị quản thúc, bị giam. Sau 1 tuần họ không cho vua ăn, uống, nên ngài bị chết đóị Vua chết mà trong triều không cho gia đình của vua biết tin, chỉ bó tấm chiếu sơ sài, có một ông lính canh, và hai người gánh thi hài vua đi giữa trời mưa gió lạnh lẽo, đến một khe mương thì chiếu bị đứt dây, vua Dục Ðức rơi xuống vũng nước. Thế nên họ đào đất sơ sơ rồi chôn vua tại đó}.

- (ít trích dẫn trên là rất đại cương, vắn tắt. Mời xem thêm từ ?Lăng tẩm Huế, một kỳ quan. Phan Thuận An).

6./ Lăng ÐỒNG KHÁNH ? (Tên vua: Nguyễn Phúc Ưng Ðường, 1853-1883 - miến hiệu: Cung Tông Huệ hoàng đế). Lăng về hướng Ðông Nam?Tây Bắc, tại thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, cách xa kinh thành Huế 7,5km. Lăng có lối kiến trúc tương đối dày, có lan can xây chung quanh, trước khu vực tẩm lăng có một hồ bán nguyệt đầy sen, mây in hình trên mặt nước hồ êm ả, mây bay ngang qua núi Thiên Thaị Cửa Nghi Môn dựng ở mặt trước sân lát gạch giữa sân chầu có 2 voi, 2 ngựa, và 8 quan viên gầy và cao đã đắp vôi gạch (khác hẳn với lăng tẩm khác đã tạc bằng đá, khổ người đá lùn, thấp). Tại các tầng sân tế, Bi Ðình, Bái Ðình, Bửu Thành đều sử dụng gạch carô, xi măng, gạch hoa màu tráng men. Cửa Nghi-môn ở Bái Ðình, có hàng tượng văn võ quan viên lát gạch giữa sân chầu, có bài văn bia của vua Khải Ðịnh viết và khắc ở hai mặt biạ

Tòa nhà kép được pha trộn mỹ thuật kiến trúc Á-Âu tuy nhiên lối thiết kế, tạo hình đặc sắc, hội họa, thủ công tinh xảo ấy đã ghép vào các nơi rất tuyệt từ: vì kèo hình chữ tam mắc máng xối ở chính giữa và chảy xuống một bên hè. Nội thất điện Ngưng Hy là tòa nhà lộng lẫy có kính màu lắp vào các ô cửạ Trên bờ quyết, nóc, đầu hồi, cổ diêm? sơn son thiếp vàng, đa số làm đất nung tráng lớp men màu ngủ sắc. Chung quanh các vách tường, cây cột? thường: khắc, viết, vẽ, trên pa-nô, những hình ảnh sống động nổi ra, lộ ra bên ngoài tường, vách, tường, cột khảm xà cừ, đất nung tráng men màu, điêu khắc tuyệt hảo với nhiều màu sắc chói lọi, từ: chuyện cổ truyền dân gian, chuyện ?Nhị thập tứ hiếủ, ?ngư tiều canh mục?, cây cỏ hoa lá, cầm kỳ thi tửu, rắn, tắc kè, gà, ngựa, voi, v.v? Quan tài vua quàn tại điện Ngưng Hy ngày 18.4.1889.


7.- Lăng KHẢI ÐỊNH (tên vua: Nguyễn Phúc Bửu Ðảo, sinh 1885-1925, miến hiệu Hoằng Tông Tuyên hoàngđdế). Lăng Khải Ðịnh uy nghi trên ngọn đồi khá cao lồng lộng gió. Thiên nhiên hùng vĩ với rừng thông ngút ngàn, và ngoại cảnh hữu tình êm ả, hồn nhiên an ngự trong tư thế hổ phục rồng chầu bên tả hữu lăng. Lăng an ngự hướng Ðông-bắc Tây-nam, tại làng Châu Chử, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, cách xa kinh thành Huế 10km. Có dòng khe Châu Ê chẻ ra hai phía loanh quanh khu đồi, rồi tụ lại theo phong thủy ?chi huyền thủỷ, có núi Kim Sơn & Chóp Vung làm bối cảnh.

Lăng đứng sừng sững ở mé núi Châu Chử có khe Châu Ê nhiều nước độc, nên dân gian thời đó đã có câu: ?Châu Ê ơi hỡi Châu Ệ Khi đi thì có. Khi về thì không?. Từ dưới chân đồi ta phải đi lên 127 bậc cấp, và chia ra thành 5 tầng cấp có những con rồng ngồi trên bờ tường rào gạch dài và rộng. Lăng an ngự trên sườn núi kiến trúc theo kiểu mới (éléments modernes) như một tòa lâu đài rộng rãi, nguy nga, tráng lệ nhất được tô điểm hài hòa khéo léo từ kiến trúc cảnh quan hơn các lăng kia (landscape architecture). Biến tấu giữa thiên nhiên cẩm lệ và toà lâu đài độc đáo, tráng lệ, hùng vĩ, đồ sộ, theo kiểu tân thời đúc bê tông cốt sắt, ngói ardoise, xi măng, cửa sắt, cột thu lôi (paratonnerre), đèn diện, vật liệủ phải mua bên Pháp chuyển về. Loại sành ngang chở đến xây từ Hà Ðông. Vỏ chai, sứ tốt, thủy tinh tân thời được nhập về từ Nhật và Tàụ Bậc cấp đá hoa cương dẫn lên chính điện đẹp. Trên bậc sân vẫn có 2 voi, 2 ngựa và 20 người đá to lớn bằng người thật, 10 quan văn đội mũ có thẻ ngang, 10 quan võ đội mũ tròn và cầm gươm, mà thi sĩ Pháp Charles Patris đã ghi:

Voici tes éléphants, armés pour la bataillẹ (Ðây là voi, sẵn sàng ra chiến trận)
Et tout auprès, dressés en leur très haute taillẹ (Và đây là các tướng lãnh hiên ngang)
De ton palais futur les nobles maréchaux. (Ta nhận ra, qua nghi biểu nghiêm trang)
Je reconnais tel vieux ministre à son air gravẹ (Quan thượng thư già, nhà thơ đức độ)
Ce fin lettré, modeste, et si maigre et si hâvẹ (Người tiều tụy, mặt gầy gò, khắc khổ)
Dans sa rigueur d? ascète allait à pas déchaux. [(Giữa sân chầu đang lê bước chân không. (?Lời Việt PTẢ)]

Chính điện lăng Khải Ðịnh có nền lăng láng xi măng xanh xám, những bức họa long vân trên trần rộng dài và rộng ở ba gian chính uốn lượn tinh xảo, nhịp nhàng. Tường vách, vẽ chim chóc bay lượn, thú vật nhảy nhót, hoặc khắc mai, lan, cúc, trúc. Bát bửụ Ngũ phúc. Hoa văn làm mô hình đắp nổi chữ vạn thọ, phúc? Tường ghép thủy tinh, sành sứ màu xanh, đá tai mèọ Tượng vua Khải Ðịnh ngồi trên ngai vàng vua ngự có mạ một lớp vàng bên ngoài, do hai do ông người Pháp: ông P. Ducuing tạc, và ông F.Barbedienne đúc.

Phía sau ngai vàng là một hình phong cảnh buổi hoàng hôn mặt trời đỏ ối bên núi đồi sông nước và gió thổi bờ tre cây cành nghiêng bóng. Còn một bức tượng toàn thân vua Khải Ðịnh đang đứng thì đặt tại Bi Ðình do một ông lính thợ Việt Nam quê ở Quảng Nam đúc. Những di tích còn để lại ở lăng Khải Ðịnh còn chưng bày áo mão, nhung y lễ phục, tủ giường, bàn ghế, v.v? khay trà, cơi trầu, bình vôi, hộp thuốc, trắp cẩn xà cừ, đèn, gương soi mặt, mắt kính, sách vở, bút mực?

Ở trong miền Nam Việt Nam thì có các lăng:
- Lăng Thượng Công Lê Văn Duyệt ở tại chợ Bà Chiểụ
- Lăng Phò Mã Hậu Quân Võ Tánh nằm trong vùng đất quân sự.
- Lăng Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu ở trên đường Trương Tấn Bửụ
- Lăng Bình Giang Bá Võ Di Nguy ở Phú Nhuận.
- Lăng Bá Ða Lộc thường gọi là Lăng Cha Cả ở Tân Sơn Nhứt.
- Lăng Nguyễn Văn Học được người Pháp gọi là "Tombeau du Marechal Nguyễn Văn Học".
- Lăng Ông Nhiêu Lộc trong sân bay Tân Sơn Nhứt).
* * *

Kinh thành Huế có Phú Văn Lâu nổi cao trên mặt thành. Chợ Ðông Ba là ngôi chợ lớn nhất nơi xứ Huế an ngự bên dòng sông Hương, dướI bến ghe thuyền chở đầy cá tôm lên bờ, trên đường người vô kẻ ra tấp nập, ồn ào huyên náọ Họ nói nhỏ nhẹ ríu rít dập dìu như những tiếng chim, như điệu hò mái nhì, điệu nam aị Hầu hết nhà nhà đều có vườn cây hoa trái tốt tươị Nhiều giọng nói ân tình nghe rất nhẹ ríu rít lao xao trong chợ Ðông Ba chộn rộn. Mười xuống đò xuôi mái chèo lần theo ven bờ sông Hương, lên cầu Bạch Hổ văng vẵng nghe hồi chuông Thiên Mụ (xây năm 1601 có tháp Phước Duyên xây 7 tầng) ngân nga vang vọng:
?Gió đưa cành trúc la đà.
Tiếng chuông Thiên Mụ canh ga Thọ Xương?.


Và một bài thơ về Huế:
* Lâu chưa về thăm? nhớ Huế
Nắng hồng vương Vĩ Dạ ấp hàng cau
Áo màu sim em khép nép qua cầu
Tay giữ nón ngang Phú Vân Lâu phượng đỏ.

Núi Ngự chiều dâng chim kiếm tổ
Sông Hương trăng luyến khách đưa đò

Nắng ngày xưa nay trôi giạt nơi mổ
Ðường phố cũ và cơn mưa dầm Thượng Tứ.
Làn gió thoảng hồi chuông từ cổ tự
Ngả bên sông Tháp Thiên Mụ in dòng
Hương Giang sóng vỗ trong lòng
Xa nhau từ đó hết Ðông lại Hè
Nhớ sao phượng đỏ lời vẹ.. (*THH)

Bờ môi Mười trào dâng vị ngon, tuổi thích mè xững, ô mai xí muội, me chua khế ngọt, ổi đào, cầm trên tay trái cóc ngâm muối đường chua chua ngọt ngọt chấm muối ớt, cắn vào răng hít hà hít hít? cay cay mà ngon ơi là ngon, làm chết thèm mấy đưá bạn đứng nhìn mình chảy nước miếng ròng ròng chớ chẳng chơi! Dẫu có nhắm mắt, lớn nhanh lên hay đã già, Mười tin mình vẫn hình dung được dĩ vãng trôi về trong hiện tại, khi xe đi ngang qua cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp nầỵ

Ngày ấy, Mười, nữ sinh lớp Ðệ Thất ríu ra ríu rít trong đồng phục trắng, cô đơn, (vì ?ẻm? ở xứ lạnh mới về, chưa hề quen trường mới, không có bạn mới, từ trường nữ Trung học Ðồng Khánh ở đường Jules Ferry, chân Mười mang guốc vông lẹt đẹt, vành nón lá kéo nghiêng che muôn sợi mưa li ti, bay bay, phủ mờ nhoà thành phố, khi mùa Ðông mưa gió, lụt lội tràn về. Tóc thề mướt mát, nặng trong gió, Mười ôm cặp kè kè bên hông, thân co ro, môi run run bởi gió rét mưa phùn buốt lạnh. Khi muà Xuân tới mặt trời nhú dạng trên những lùm cây, Mười cùng hàng hàng lớp lớp nữ sinh, tâm hồn thanh thản, nhẹ nhàng, trong sáng, vui tươi bước đi hân hoan dưới những vòm cây rợp bóng, có lọng dừa lọng cau bao bọc tứ bề. Mùa Hạ về Mười cùng bạn Huế có giọng nói chính gốc nội thành, khi họ cất tiếng oanh vàng thỏ thẻ thì nghe thanh tao, nhã nhạc như reo vui với tuổi trẻ an thư hồn nhiên.

Họ tung tiếng cười bay theo tiếng ve ra rã trên chùm phượng vỹ cao vời vợi, hoa đỏ thắm nhuộm đầy vùng trời Ðế Ðộ Mấy bạn xứ Huế ưa chọc ghẹo con nhỏ Ðà Lạt là: ??khách ngất ngây khi hoa nở trên má, ? nhớ hoa đào trên má aỉ, màu hoa in trên má, làm khách lưu luyến mãỉ?
Khiến con nhỏ tức tưởi hờn dỗi nghĩ rằng:

- ?Mình nào có làm cho đôi má hồng hồng, đôi môi mòng mọng tươi tắn đâu, mà là do Trời ưu ái ban cho các cô gái Ðà Lạt xinh xinh đẹp đẹp tự nhiên đều như thế! Chứ nào phải tự ên dồi phấn thoa môi son?! Các bạn lại tha hồ quệt quệt vô má con nhỏ mà lêu lêu mắc cỡ: Khiến con nhỏ òa khóc ngon lành, và trốn biệt xứ Huế thơ mộng, để trở về Ðà Lạt chui vô nội trú trong trường Couvent des Oiseaux. Vì,:
Chi lạ rứa chiều nay tui muốn khóc
Ngó chi tui loài cỏ mọn hoa hèn
Nhìn chi tui hình đom đóm trong đêm
Cho thêm tủi bên ni bờ cô tịch (NTH)



Lòng Mười dạt dào niềm luyến thương cảm mến vô tận với Huế. Chỉ vì, cô bé trước kia là cư dân sinh trưởng ở vùng Ðà Lạt nho nhỏ xinh xinh, hiền hoà, (không kém phần thi vị, thơ mộng). Nay quay gót về kinh thành Huế rộng thênh thang, ngây dại bảng lảng trước phách lá hồn hoa: Mộc lan, mẫu đơn, hoàng lan, hoa sen, hoa súng, hoa lục bình, hoa cau, hoa ổi, hoa ngâu, hoa lài, hoa trang, hoa quỳnh, hoa hướng dương, hoa me li ti, hoa phượng đỏ rực rỡ. Huế nên thơ trầm lặng, len lỏi trong lòng cô bé chớm lớn niềm an thư sạch trong, sáng ngần? chẳng hụt vơi tình xanh. Cô em cứ tưởng đời mãi mãi là một màu xanh, xanh xanh trên con đường thiên lý thênh thang ngút ngàn. Ai ngờ? con nhỏ Ðà Lạt ngu-ngơ chẳng hiểu anh xứ Huế ghé taỉ "noái chi, mô, tê, răng... mà lạ lùng dị dạng rứả hè:

Ðể nghe len lén duyên tình giăng tợ
"Mua lửa" thì thật phải lo
Vì là mua chịu ai cho "lửa" hoài

"Mắc lửa" là thiếu nợ dài
"Lửa" chi không thiếu, chẳng phai "lửa tình"
"Sáng mơi" là lúc bình minh
Của ngày kế tiếp, nong tình đem phơi

"Bữa tê" em hẹn lại chơi
Quên bẵng cái việc em mời bữa kia
Bữa tề" mang lịch ra chia
Bữa tể" là trước bữa kia hai ngày

"Bữa ni" là bữa hôm nay
Là lúc đương nói hàng hai đây nì
"Mần chi" ai hỏi làm chi
Em muốn làm gì, "răng hoải mần chỉ"

Thế này thì nói "ri nì"
"Rứa tề", thế đó mần chi đây hè?
Cái cây thì noái cái "que"
Còn ở trước hè lại nói cái "cươi"

Cái "ôn" bản mặt tươi tươi
Ưa đi tán bậy là người vô duyên
---

(*) Thơ Tình HOÀI HƯƠNG
(**) Tác giả: Cai Vĩnh có bản quyền đăng kí - Không "đạo văn?
***

Tình HOÀI HƯƠNG

Tình Hoài Hương

Mục Lục


3. Nhà Thơ Vân Hà


Trần Thị Hiếu Thảo




(Hình nhà Thơ Vân Hà làm MC- Ðiều hợp chương trình một buổi ra mắt thơ)

Nói đến GA -Atlanta quê hương nhà văn nổi tiếng Margarget Mitchell -Cuốn theo Chiều gió. Và Jimmy Carter Vị TT thứ 39 của Mỹ nhiều quyền lực - Người đã đem lại cuộc sống nhân sinh tốt lành cho nhân dân Mỹ?
Chính nơi đây người Việt cũng đã nhập cư ở khá đông, sau California và Texas, và một số bang khác?
Nơi đây CÐ Người Việt lớn mạnh về mọi mặt.
Trong đó mặt sinh hoạt CÐ- văn hóa văn nghệ khá phát triển những năm gần đâỷ
Và chính nơi đây nhiều người biết Vân Hà một nhà thơ, một người biết hát hay, một Mc cho nhiều chương trình ra mắt thơ văn ở CÐ, và nhiều chương trình lễ lộc, từ thiện khác ?

Tôi được biết Vân Hà vào mùa xuân năm 2012.

.Lúc đó tôi học Cosmetology tại trường Thúy Ái. Thì chị Thảo Nguyên có học ở đó trước tôi ( Nguyên chị là chủ bút báo PNÐM vào thập niên 80 -90.). Vì quen biết chị giới thiệu tôi đến với Vân Hà để tham gia vào nhóm thơ Mê Linh, do Vân Hà sáng lập và chị đồng ủng hộ? Thường nhóm họp nhà Vân Hà.
Tôi được đến nhà Vân Hà trên đường chính BufordHwy,và sau đó rẽ vào nhà tên đường là Lake Drivẻ Ðường nhỏ nhưng đầy hoa của mùa xuân trên dọc đường tôi thích thèm nhìn nó làm sao! Tôi lái xe và lòng tôi lãng mạn ca cẩm ?Ðường vào nhà em nghiêng nghiêng sân nắng,,nghiêng nghiêng mây hồng?.

(Ấy chết tôi nói lang bang. Nhưng mà có lẽ thi vị một tình tiết nên tôi khó bỏ quả trong bài viết này là như thế!)
Thế là tôi đến nhà Vân Hà, chị Thảo Nguyên giới thiêu về tôi vài nét cho Vân Hà biết và như thế tôi gia nhập hội thơ nhóm ML. Vân Hà ?đã ký nhận?
Sau khi triển khai sự hoạt động của nhóm sắp tới, sẽ ra mắt tập thơ. Chúng tôi ăn Lunch và uống nước trái cây rồi chia tay ra về tại nhà Vân Hà?
Hà tặng cho tôi tập thơ.

Tôi thật mừng và vui vẻ, về nhà đọc ngay.
Tôi thật xúc động đọc hết tập thơ một mạch.Tánh tôi đã thích yêu gì thì đam mê tới bến?
Nên tôi không ngại thời gian, tôi nướng gần hai tiếng đồng hồ thả hồn trong cảm xúc mà Vân Hà đã viết lên những bài thơ tình và quê hương thật hay, thật giàu cảm xúc... Một trái tim ấm nồng cho thi ca!
Vân Hà làm thơ, yêu thơ say đắm. Cô quả có tài, cùng có một tâm hồn phong phú. Nên thơ cô tuôn như suối ngàn?
Vân Hà trái tim thơ- viết nhiều đề tài cho thơ. Nhưng nhiều nhất là cho thơ tình yêủHai kẻ yêu nhaủ và thơ cho quê hương, thơ cho ba mẹ, bàn bè cô nữa v.v?

Thơ tình trong cô là thứ khát khao, những bài thơ thật dễ thương, thường óng ả mướt rượt. Cô thường đeo đuổi cũng như các thi sĩ ái tình, đã khám phá chuyện bí mật mãi của tình yêu?
Trên đời này ai mà sống không từng yêu nhỉ?
Qua bài ?Ao ước? Thi thơ cô đã thể hiện:
Em nghĩ ước gì ta có nhau
Ðể đêm trăn trở giắc đêm thâu

Gối chăn không lạnh vì đơn lẻ

Em khỏi chạnh lòng gió lao xao

Có anh âu yếm nhìn em mãi
Ngây ngất mùi hương anh đắm say !

Bên nhau cùng bước theo nhạc điệu

Anh dìu em đến chốn thiên thai



Ước gì tình đến khi không muộn

Mình được bên nhau hết cuộc đời

Em làm thơ để anh ca tụng

Ý đẹp lời hay, mãi trên ngôi!
(Trích trong Ngõ Ðợi)

Bài Dang dở
Trong khung trời kỷ niệm của tình yêu
Nghe nỗi nhớ cồn cào trong cơ thể
Thế mới biết muốn quên không phải dễ

Dù con tim không run rẩy gọi mời



Dù bây giờ tình đã mất tăm hơi
Dù đã nói ngàn lời câu tống biệt
Vẫn cháy bỏng vẫn nhớ nhung tha thiết

Tình yêu ơi kỹ niệm khó phai mờ

(Trong-Ngõ đợi)

Trên đời này khó khăn về vật chất là một điều đã khó, nhưng còn bi thương hơn đó là nỗi khổ của con tim. Khi con tim mình dành cho người mình yêu thương; được nhà thơ Vân Hà khắc họa qua tiếng thơ ?Nàng đại diện cho hàng trăm hàng triệu trái tim, không ai mà không một lần đã khổ vì yêủvì ái tình?

Bỡi vậy Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã viết những câu thơ ?Người đi là nửa hồn tôi mất. Nửa hồn kia bỗng dại khờ?
hoặc như Xuân Diệu- Vua thơ tình quan niệm qua thơ là ?Yêu là chết trong lòng một ít?
Qua thơ Vân Hà thấy nó gần gũi như một lời chia sẻ chân thành mà tha thiết:

?Tình yêu ơi kỷ niệm khó phai mờ? Làm sao mờ nhạt được?
Vâng đúng thế. Một lần nữa Nữ sĩ Vân Hà mang một thông điệp tình yêu cho chúng ta! Cho bao con tim mắc nợ ái tình! Vâng! Kỷ niệm nào dễ nhạt phai? Vâng!Thật chính xác trong thơ và trong đời sống!
Câu thơ giản dị nhưng hàm súc chứa đựng nguyên lý mà nhà thơ Vân Hà đã miêu tả rất ư là cảm xúc, không một may may duy lý, nên thơ uyển chuyển, sâu sắc mà tài tình, nhưng cũng dễ dàng nhận ra, thật đáng ngưỡng mộ lối thơ này!

Và tôi rất thích bài lục bát ?Em ước? này, một bài thơ có vẻ lả lướt nhưng thơ ngây hồn nhiên, ai chẳng đem lòng ưa thích nhỉ: Vân Hà diễn tả:

Ước gì em được là mây
Em mang mưa tới phủ đầy nhà anh
Ước gì là lá rời cành
Gió mang em tới thổi nhanh vào phòng
Nếu anh đã có chăng bông
Em biến thàng gối trong lòng anh ôm
Cho dù sáng tối chiều hôm
Tình anh em nhất định gôm một mình!

Bài thơ đã quá thành công trong cảm xúc lãng mạn, đưa bao hương vị tình yêu, gợi cảm nồng nàn, say đắm với những ẩn dụ, so sánh đẹp! Và có ảnh hưởng một chút ?Ghen? trong thơ Nguyễn Bính nữa đó: ?Tình anh em nhất định gôm một mình!? Thế là ý thơ quá dữ dội, và nóng bỏng?!

Và đây còn nhiều nữa. Bài không kém phần lãng mạn cho thơ tình của Vân Hà. Bài thơ thật dễ thương, dễ cảm. Cảm hóa ngay lòng khao khát tình yêu mật ngọt ân tình!. Âm nhạc chúng ta thưởng thức vì giai điệu, Thơ chúng ta thưởng thưc bằng cái hồn, cái cốt lõi, cái tâm tư thầm kín của thơ.

Hãy nghe tiếng thơ cô vọng động tâm thức ta:
Em nằm nghe tiếng mưa rơi

Xôn xao tý tách như khơi đêm dài
Ngẩn ngơ thèm một bàn tay
Vuốt lên cho sợi tóc mai thện thùng
Gối chăn êm mịn như nhung
Sao nghe khấp khểnh như khung gỗ sầu
Chợt thèm giấc ngủ thêm sâu
Trong cơn mộng mị canh thâủ gặp chàng(Trích từ Ngõ đợi)

Và đặc biệt tôi thích bài thơ sau đây. Hãy nghe cô miêu tả con tim qua thơ rất dễ ?ghét? đó nha!
Tiếng thơ thật lay động người:
Nếu anh không được thấy em cười
Là ngày đó ông trời không có nắng
Rồi cả gió mây cũng đều đi vắng
Nếu anh chờ không thấy tóc em bay
Nếu một ngày thiếu hơi thở nồng say
Là Vụ trụ sẽ không còn không khí

Và anh sẽ, thôi không còn ý chí...
Nếu cả ngày không nghe giọng nói em

(Trích- trong tập thơ Một mình)
Thơ tình Vân Hà còn rất nhiều, tôi chỉ mới đem ra cái cảm của tôi, mới 1/10 của thơ cô. Qua một bài thơ trong tập ?Ơn Ðờỉ Thi sĩ Vân Hà- Cô đã trở về với ước vọng một bài thơ mới mẻ ý tưởng?

Một bài thơ nó không còn chất ước lệ lãng mạn thi vị trong ái tình nữa, nhưng nó là bài thơ được đẩy chất thơ về hiện thực, một hiện thực thủy chung và trọn vẹn, tôi thật sự cảm kích. Vân Hà được viết qua tim, mạch mới nhất của mình:
Anh đi làm, em đi ngủ
Anh về ngủ em đi chơi
Hai chúng ta còn lại cuối cuộc đời

Cùng quấn quit khi nào anh tức dậy

Quên hết nỗi đau mình từng trải

Khi dỗi hờn em nũng nịu trách anh

Vừa vuốt ve vừa cuống quít dỗ dành

Anh cứ tưởng mình đang thời mới lớn

Tình ta đó món quà do định mệnh?

(Trích trong tập Ơn Ðời)

Thơ tình của Vân Hà không xa xôi huyền ảo, không phải đi mường tượng vô cớ, nhưng nó vẫn là lãng mạn nhất, lại thầm lặng, rất gũi chúng ta nhất, thân quen với chúng ta,truyền cảm dễ dàng vào chúng ta, tâm hồn người đọc, người nghe để nhận biết. Ðó cũng là một thể thơ ưu thế của hôm nay trong làng giải trí thi ca đương đại!

Thơ tình Vân Hà là như thế, chuyển sang thơ quê hương cô bừng bừng khí thế ? Thương cho con cháu Lạc Hồng, thương cho non sông gãy gánh? Bài thơ mà tôi xúc động đến khó giải bày, đó là một bài thơ ý tưởng thầm kín sâu xa, gởi ?người trượng- phu quân tử nào đó? khi nghĩ đến non sông đất nước. Vân Hà đã viết: qua bài Nếu Lỡ.
Lỡ mai em chết anh đừng khóc
Ðừng vẩn vơ buồn hay nhớ nhung
Ðể dành nước mắt mà thương xót

Cho nợ núi song chẳng vẹn toàn

Lỡ mai em chết anh đừng nhớ
Thân phậm mọn hè sống tha phương
Ðể dành tâm huyết cho nòi giống

Triệu triêu người còn khổ thê lương

Làm thân nhược tiểu không tiếng nói

Cả đám nhà giàu đến rồi đi

APEC, WTO rồi cũng vậy
Dân chào, dân tiễn có khác chi

Lỡ mai em chết cầu xin được

Thiên đường bên ấy hết đau thương
Xã hôi không còn kèm chủ nghĩa
Cộng Hòa tồn tại với quê hương! (Trong tập Ngõ đợi)
Ðó là bài thơ của Vân Hà, với một lối viết bình dị sáng trong, nhưng chứa đựng tâm tư của một người lưu vong nhớ nước thương nòi ngấm ngầm trong tìm thức! Ngấm trong từng làn da thớ thịt!
Ðọc lên ta thấy tác giả gửi gắm một tâm sự, một tâm hồn cao thượng, một ý chí phi thường, đã làm ta xúc cảm trong từng con chữ, ta như hòa điệu cùng tác giả để nhớ thương xứ sở, tận cùng? ! Mong một chàng nào đó biết !
Vân Hà còn làm thơ cho mẹ đọc rất tình cảm ấm áp, và đó là nỗi niềm của mỗi chúng ta, ai cũng bồi hồi cảm ơn xúc động. Có những bài đọc muốn chảy cả nước mắt. Vì thơ đã chế ngự, đã nói với chúng ta nhiều điều của ngôn ngữ, mật ngữ thơ ca. Ðặc biệt trong tập ?Ơn đờỉ Cô tự phổ lên bài thơ ?Quê Ngoạỉ và hát lên một giai điệu khá thành công: ngọt ngào sâu lắng truyền cảm, bâng khuâng?!

Thật ra tôi cứ tưởng nhạc sĩ nào phổ chứ. Sau tôi hỏi Vân Hà mới nói cho tôi hay ?Vân Hà tự phổ đó?

Thế là tôi cười chọc: ?- Tài nhiều mặt quá! Bộ định lấn sang sân làm nhạc sĩ nữa saỏ?

VH chỉ cườỉ!

Bài viết khá dài mà tâm tình cho thơ Vân Hà, tôi như chưa cạn. Thôi thì như một tình bạn và một độc giả ngưỡng mộ tôi chỉ chia sẻ bấy nhiêủ. Xin dành cho Vân Hà một bài viết khác để đầy đủ hơn. Và dành cho bạn đọc tìm đến thơ Vân Hà đã có năm tập ra đời, để thấy những bước chân cô đi qua cho thơ ca đầy niềm tin- Và trổ bông sáng lạn?!

Người viết (Chút tản mạn về nhà Thơ VânHà:)


Trần Thị Hiếu Thảo


Mục Lục


4. Mỗi Năm Hoa Ðào Nở ...


Song An Châu




Bút ký :


Tôi đến định cư tại đất Mỹ này đã hai mươi hai mùa Xuân, hai mươi hai mùa hoa lá xinh tươi đâm chồi nẩy lộc chào đón chúa Xuân. Mùa Xuân ở đất Mỹ này đến muộn, sau những ngày giá lạnh mùa Ðông, vào tháng tư dương lịch, tiết trời còn se lạnh, cái lạnh tương đối dễ chịu của thời tiết vào xuân.

Tôi có cái may mà cũng chắc có phần duyên số đưa đẩy tôi đến định cư tại một quận nhỏ, quận Rockdale, có độc một thị xã: Conyers. Thị xã này nằm cặp xa lộ I-20 về phía tây thủ phủ Atlanta, Tiểu Bang Georgia, không sầm uất như các thị xã khác gần thủ phủ Atlanta. Phố xá, nhà hàng, chợ búa, khu buôn bán nằm dọc bai bên một khúc đường xương sống Hwy 138, hướng Tây Nam, khoảng độ 3 miles. Thành phố yên tỉnh về đêm. Tôi thích thành phố này, có lẽ vì tuổi già thích một nơi yên tĩnh để bồi dưỡng tâm hồn đã bị quá nhiều xáo trộn trước đây. Nhưng cái mà tôi thích hơn nữa là vào mùa xuân tại thị xã này có hàng trăm cây anh đào hoa nở rộ dọc hai bên đường chánh của khu phố cũ và chung quanh hãng làm băng từ, CD MAXWELL, nằm cạnh bên đường Parker, trong thị xã.

Mỗi lần xuân đến, nghìn hoa anh đào đua nhau khoe sắc đẹp với chúa xuân, làm tôi liên tưởng đến hình ảnh ông đồ già thời xa xưa qua bài thơ ?Ông Ðồ?, tuyệt tác của thi sĩ tiền chiến Vũ Ðình Liên cách đây hơn năm mươi năm, khi tôi còn là một học sinh tiểu học, ông thầy bắt phải học thuộc lòng :



" Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua

Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn khơng thắm
Mực động trong nghiêng sầu

Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ? "


Vũ Ðình Liên

Những vần thơ trên đã thắm vào lòng người, nhứt là những người ly hương lớn tuổi như chúng tôi, một nỗi buồn dạt dào, man mát và tiếc nuối, nhớ nhung những hình ảnh đẹp đẽ, êm đềm xa xưa đã dần dần tàn phai theo năm tháng.

Còn đâu nữa hình ảnh ông đồ già, với áo dài đen, khăn đóng, có chòm râu bạc phất phơ đùa cợt với gió xuân, ngồi trên chiếc chiếu hoa bên hè phố, bày mực Tàu, giấy đỏ, khum lưng thảo những nét chữ như ?phượng múa rồng baỷ trên những tờ giấy hồng điều vuông dài, nho nhỏ hay những tờ giấy vuông vứt viết đại tự . Hình ảnh thân thương, xa xưa đó ở quê nhà đã đi vào dĩ vãng, khuất lấp theo lớp bụi thời gian, nhưng không bao giờ phai nhòa trong ký ức chúng tôi, những người đã ?thất thập cổ lai hỷ. Mặc dù tuổi đời chồng chất, qua bao biến cố đau thương của đất nước. Ôi, thời gian như bóng câu qua cửa sổ, nhưng kỷ niệm vẫn còn đó, đã khắc sâu vào ký ức, không bao giờ phai nhòa.

Hôm nay, mùa Xuân xứ Mỹ lại đến, giữa đất trời xa lạ, xa biền biệt quê nhà, nhớ hình ảnh mẹ già một nắng hai sương, tảo tần lo cho đàn con lớn khôn vào đời, rồi chấp cánh bay xa, để lại mẹ già héo hắt bên luống khoai, thửa ruộng, chờ mong trong túp liều tranh sương chiều bảng lãng.

Mẹ ơi ! Quê hương Việt Nam yêu mến ơi! Mùa hoa anh đào đã nở rộ nơi đất tạm dung xa xôi này, những cánh hoa màu trắng, màu tím, màu hồng khoe sắc, vui đùa với gió xuân. Những con chim sâu nhỏ líu lo mời rủ bạn tình, chuyền từ cành này sang cành nọ, làm lòng con nhớ đến quê hương vô ngần. Ước gì con có cánh chim đại bàng, con bay ngay về sà vào lòng mẹ để tìm lại hơi ấm ngày xưa trong vòng tay mẹ vào những buổi sáng lành lạnh chớm xuân.
Mấy mùa xuân qua, con thường theo đoàn người trẩy hội xuân xem hoa anh đào nở, họ nói cười vui vẻ, tụm năm tụm ba chụp ảnh, quay phim, vui đùa đuổi theo những cánh hoa rơi lả tả, bay theo chiều gió xuân mát mẻ. Nhưng mẹ ơi! Lòng con có vui được như họ đâu ? Quê hương mình miền Nam nước Việt, đâu có những cành hoa đào chào đón chúa Xuân, như quê hương thứ hai mà con đang tạm dung nơi xứ lạ quê người. Nhưng quê hương mình có những cành mai vàng cũng đẹp, nở rộ vào mùa Xuân, tô điểm khoe sắc màu dưới ánh nắng vàng dịu mát. Một sắc thái da vàng đất Việt, muôn đời đẹp đẽ, đậm nét quê hương mà ở xứ người bên trời tây này không có.

Theo chân đoàn người trẩy hội mừng ngày Hoa Anh Ðào nở (Cherry blossom Festival) vào ngày 29 tháng 3 dương lịch năm nay tại một quận nhỏ, nơi con đang cư ngụ, quận Rockdale, nằm về phía Tây thủ phủ Atlanta, Tiểu Bang Georgia. Nơi đây có một vườn hoa anh đào trên 200 cây, được bàn tay người trồng và chăm sóc chu đáo, trước một sân rộng rãi khoảng độ một mẫu tây (acre) cuả hãng làm băng từ, đĩa nhạc nổi tiếng thế giới là MAXWELL, chủ nhân là người Nhật.

Hàng năm trước đây vào cuối tháng 3 dương lịch, khi những cây hoa anh đào nở rộ đều có tổ chức ngày lễ hội rất lớn, thu hút hàng chục ngàn người trong tiểu bang Georgia và các tiểu bang cận kề như: South Carolina, Alabama, Mississippi, Tennesseẻ đến tham dự, trước là nhìn ngắm sắc màu hoa đẹp lộng lẫy khoe mình dưới ánh nắng vàng, chập chờn rung động theo làn gió chớm xuân se sẽ lạnh vào những ngày cuối đông.

Ngoài ra, vào những ngày lễ hội mừng hoa anh đào nở này, tại địa phương đều có tổ chức Hội Chợ Hoa Anh Ðào tại một công viên rộng lớn, nơi trường đua ngựa quốc tế được xây dựng nhằm phục vụ cho kỳ Thế Vận Hội năm 1996 mà nước Mỹ được đăng cai. Mỗi năm tại lễ hội này có hàng trăm gian hàng mua bán trình bày với tánh cách nghệ thuật, được thực hiện với những bàn tay vô cùng khéo léo của các nghệ nhân, cũng có nhiều trò vui chơi, trình diễn văn nghệ, ca nhạc và nhất là những màn trình diễn các vũ điệu thật đặc sắc của nhiều sắc dân định cư trên đất Mỹ hiện nay như : Mexico, Ðại Hàn, Nhật Bản, Cu Ba, Peru và một số nước Nam Mỹ. Tôi rất tiếc, phải chi cộng đồng Việt Nam mình cư ngụ đông đảo tại Georgia, hàng năm tham gia cùng các sắc dân bạn trình diễn những vũ điệu như múa nón, múa quạt, vũ điệu cái trống cơm ? thì hay biết mấy.

Nhưng hiện nay lễ hội mừng Hoa Anh Ðào nở tại quận Rockdale, không rầm rộ vui tươi như những năm trước, bởi vì vào cuối năm 2002 hãng làm băng từ, đĩa nhạc Maxwell đã di dời về hãng chánh ở California, không còn tài trợ một số tiền lớn để tổ chức nữa. Do đó, năm nay ngày Lễ Hội Hoa Anh Ðào tại thị xã Conyers, Quận Rockdale, GA cũng bớt đi phần nào vui tươi như trước đây nữả


Song An Châu

Mục Lục


5. Vài Cảm Nghĩ về Tục Ngữ Ca Dao


Phạm hy Sơn




Tục ngữ Ca dao được sáng tác bởi những người dân nơi thôn dã ít học hoặc không biết chữ và được truyền từ miệng người này qua người khác nên gọi là văn chương truyền miệng vì không được ghi trong sách vở như văn chưong bác học do những người có học làm ra, in thành sách để phổ biến .

Vì vậy người ta không biết tác giả của tục ngữ, ca dao là ai và hầu hết không biết thời gian sáng tác . Bất cứ dân tộc nào cũng có tục ngữ, ca dao và cho tới nay tuy văn chương bác học do những nhà văn, nhà thơ viết ra rất nhiều nhưng tục ngữ ca dao vẫn được sáng tá . Cả hai cùng tồn tại song song với nhau .

Năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp ở Việt Nam, nắm quyền được mấy tháng thì phải đầu hàng và đồng minh (Mỹ, Anh, Pháp . . . ) cho quân Trung Hoa của Tưởng giới Thạch tràn vào miền Bắc Việt Nam tước khí giới của quân đội Nhật . Quân đội Trung Hoa sau nhiều năm tháng kháng chiến thiếu đói, rất nhiều người bị bệnh sâu quảng và phù thủng . Ði đến đâu họ cũng cướp bóc lúa gạo của người bản xứ để cho người và ngựa ăn . Dân chúng bị sách nhiễu, căm ghét gọi họ là ?Tàu phù? và trong dân gian có câu :

Ai ơi chớ vội làm giàu,

Thằng Tây nó cút, thằng Tàu nó sang !

Trước năm 1975 trong Nam có câu :

Rớt tú tài anh đi trung sĩ,

Em ở nhà làm đĩ nuôi con . . . .

Và bây giờ chúng ta có câu :

-Nhất thân, nhì ngân, tam quyền, tứ chế .

Hay : -Hậu duệ, quan hệ, tiền tệ mới đền trí tuệ .

-Hy sinh đời bố, củng cố đời con ? .

Như vậy tục ngữ, ca dao từ xưa cho tới nay luôn luôn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống xã hội, diễn tả tình trạng thực sự tốt hay xấu của xã hội, cũng như nói lên tâm tình của đại đa số dân chúng đang sống trong trong cái xã hội ấy, nên từ thời nhà Chu bên Tàu cách nay mấy chục thế kỷ đã buộc các chư hầu hàng năm phải thu góp và nộp cho triểu đình những câu tục ngữ ca dao của địa phương . Có lẽ mục đích của nhà cầm quyền thời ấy là muốn biết tình hình dân chúng để dễ bề kiểm soát và có những biện pháp cai trị thích hợp .

Chúng ta gác ra ngoài vấn đề chính trị mà chì xét vai trò của tục ngữ ca dao về phương diện văn học với biết bao nhiêu những câu nói, câu hát chứa đựng kinh nghiệm sống, cách sống cao đẹp của ngưới xưa truyền lại :

-Cờ bạc là bác thằng bần,

Cửa nhà bán hết cho chân vào cùm .

-Giấy rách phải giữ lấy lề,

-Lời nói không mất tiền mua,

Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau . . . .

Hay những bài hát, những câu ca dao rất đẹp về lời và ý :

-Trúc xinh trúc mọc đầu đình,

Em xinh, em đứng một mình cũng xinh .

Trúc xinh trúc mọc bờ ao,

Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh .

-Trên trời có đám mây xanh,

Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng.

Ước gì anh lấy được nàng,

Ðể anh mua gạch Bát Tràng về xây.

Xây dọc rồi lại xây ngang,

Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân .

-Chàng đi cho thiếp theo cùng,

Ðói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam .

Từ xưa tới nay không ai học tục ngữ ca dao mà chỉ nghe hay tình cờ nghe người ta nói, tự nhiên

chúng ta thuộc và cũng tự nhiên những câu ấy thấm nhập vào trí óc, tâm hồn chúng ta để rồi cùng với ảnh hưởng của các sinh hoạt văn hoá khác (thơ, văn, âm nhạc . . . ), chúng ta suy nghĩ, cảm nhận và xử sự như nhau để tạo ra cùng một lối sống chung . Người ta gọi đó là văn hóa .

Tục ngữ ca dao góp một phần quan trọng trong văn hoá dân tộc .

Ngoài ra, tục ngữ ca dao còn ghi lại cho chúng ta biết những chặng đường tiến hóa của xã hội, những giai đoạn lịch sử đã qua, những phong tục tập quán xưa và nay :

-Ăn lông ở lỗ . ( Tình trạng chung của các dân tộc, không phải chỉ có

người Việt )

-Ðàn ông đóng khố đuôi lươn,

Ðàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh .

-Miếng trầu là đầu câu truyện .

-?Muốn coi lên núi mà coi,

Có bà quản tượng cưỡi voi bành vàng - (thời Hai Bà Trưng) .

-Muốn coi lên núi mà coi,

Kìa kìa Ngô khách mọc đuôi đàng đầu (thời quân Thanh xâm lăng ) ? .

Nên việc đọc, tìm hiểu và nghiên cứu tục ngữ ca dao là cần thiết vì tục ngữ ca dao là kho tàng văn hóa truyền miệng tạo nên tính cách của dân tộc Việt Nam xưa và nay cùng với kho tàng văn hóa sách vở của cha ông chúng ta tạo ra và để lại .



(Trích trong Khảo Sơ về Tục Ngữ Ca Dao)


Phạm hy Sơn

Mục Lục


IIỊ Hộp Thư Toà Soạn ___________________________________________________



Nguyệt San Giao Muà xin cám ơn những thân hữu đã dóng góp bài vở cho Nguyệt San Giao Muà số 180 . Một số bài khác sẽ được đăng dần vào số tớị Mong mỏi sẽ nhận được những sáng tác của các bạn bốn phương để cho Nguyệt San Giao Muà thêm phần hương sắc trong tương laị

Mục Lục


Thể lệ để nhận Nguyệt San Giao Muà: 1) Ðể vào danh sách của NSGM (subscribe), xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
2) Ðể rút ra danh sách của NSGM (unsubscribe), xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
3. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com 4. Mọi bài vở, đóng góp, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com Nguyệt San Giao Muà Homepage: http://www.GiaoMuạcom Thể lệ gửi bài cho Nguyệt San Giao Muà: Mong bạn gửi Bài cho GM theo cách này là tốt nhất : 1. Dùng mẫu chữ Vietnet (VIQR) hay Unicode 2. Viết Hoa chữ đầu của bài và bút hiệụ Ví dụ: Giọt Mưa Trên Lácủa NS Phạm Duy 3. Gửi bài ngay trong email (không kèm file), để cho BBT khỏi mất công download xuống để đọc 4. Gửi tất cả các bài trong 1 tháng 1 lần trong1 email, nếu tiện. 5. Bài vở xin gửi đến trước ngày 25 mỗi tháng 6. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com Cám ơn bạn rất nhiều, vì nhân sự có hạn, BBT không thể ngồi đánh máy lại từng đề bài hay bút hiệụ

Ðịa Chỉ Liên Lạc:

Nguyệt San Giao Muà
P.O . Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA

Trang Nhà 

Web Counters
Web Site Hit Counter

Copyright 2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors