Số 188
Ngày 1 tháng 12 năm 2017
Nguyệt San Giao Mùa
P.O. Box
378
Merrifield, Virginia
22116
USA
Thư Ngỏ
Tạ ơn Ðời, hôm nay ta còn sống
Mắt còn nhìn, còn đọc được i-meo
Ðời còn vui, đâu đến nỗi cô liêu
Thêm kiến thức, thêm từ tâm hỷ xả !
Ngày Thanksgiving trên nước Mỹ đã đi qua, đi qua không ồn ào, không xáo trộn, tương tự như âm hưởng của bốn câu thơ Tạ Ơn, của một tác giả khuyết danh nào đó, đã được chạy tới chạy lui với tháng ngày trên Internet.
Những tháng ngày cuối năm là những tháng ngày mà dường như ai nấy trong đời sống, đều có thoáng chút giật mình nhìn lại thời gian qua, ừ thời gian sao mà lẹ thế, mới đó mà đã qua một năm rồi.
Những người trẻ vui thêm một tuổi, thêm chút trưởng thành, thêm chút vững vàng trên bước đường tương lai trước mặt, những người trung niên thoáng chút bâng khuâng đánh giá khoảng đời đã trải, người cao tuổi lắc đầu xua đuổi chút thoáng buồn như ánh hoàng hôn vừa chầm chậm tràn lên phía trước.
Dẫu ở tuổi nào thì đôi bàn chân bước dần mòn trên từng bước đời, vẫn ít nhiều cảm nhận được những buộc ràng trong đời sống, và dẫu không phải đủ trăm phần, thì lòng biết ơn của con người cũng đã mọc rễ âm thầm trong tiềm thức.
Với nước Mỹ có lẽ Mùa Tạ Ơn là Mùa lễ ấm cúng nhất, Hạnh phúc nhất, bởi đây chính là thời điểm để mọi người trong gia đình, trong xã hội gần gũi tìm về cùng nói lời ngọt ngào, xẻ chia chút vui buồn trong đời sống. Và chỉ còn một tuần lễ nữa là cùng bước vào Tháng Chạp, Tháng của Mùa Sao Sáng, Mùa Giáng Sinh, Mùa của Tình thương và Hy vọng...
Bước chân Giao Mùa tháng Chạp, nhìn ra bốn phương, thế giới rất nhiều biến động, những vụ khủng bố, những vụ nổ súng bừa bãi giết người vô tội đã không ngừng xảy ra. Riêng với quê hương Việt Nam bạo quyền vẫn không ngừng đàn áp bắt bớ, cưỡng chế đất đai của người dân, lại thêm thiên tai lụt lội, công với sự ngu đần của lũ người vô học "xả lũ đúng quy trình" tạo nên không biết bao nhiêu cảnh chết chóc thật thương tâm.
Xin hãy cùng cầu nguyện cho Tháng Giáng Sinh và Năm mới 2018 trong một Thế Giới An bình hơn hôm nay.
Mạc Phương Ðình
Ban Biên Tập Giao Mùa
Bài vở trên Giao Muà là do các tác giả gửi đăng và Giao Muà không chịu trách nhiệm về nội dung. Muốn xin trích đăng lại, xin liên lạc với GiaoMua@hotmail.com.
I . Thơ _______________________________________________________________________
1. Số Phận | ______ Vân Hà | ||||||||||||||||||||||||||||
2. Vườn Tôi Chín Rụng Chờ Từ Phía Em | ______ Lê Miên Khương | ||||||||||||||||||||||||||||
3. Ðêm Thu Chờ Ðợi | ______ÐÔNG HÒA Nguyễn Chí Hiệp | ||||||||||||||||||||||||||||
4. Bài Thơ Sông Hàn | ______ Nguyễn Ðông Giang | ||||||||||||||||||||||||||||
5. Thư Cho Em Ðầu Năm Mới | ______ Song An Châu | ||||||||||||||||||||||||||||
6. Cho Trọn Ðêm Mưa ... | ______ Hồ Chí Bửu | ||||||||||||||||||||||||||||
7. Tự Chê | ______ Ý Nga | ||||||||||||||||||||||||||||
8. Bâng Khuâng Tơ Trời | ______ Hồ Thụy Mỹ Hạnh | ||||||||||||||||||||||||||||
9. Tuyết Tháng Mười Hai |
______ Nguyễn Thị Thanh Dương. 10. Ðêm Huyền Diệu |
|
______ ChinhNguyen/H.N.T. | 11. Lạc Mất Hồn Thơ
|
|
______Nguyệt Vân | 12. Hoa Choàng Áo Quan |
|
______ Tình Hoài Hương | 13. Vầng Trăng Và Dòng Sông |
|
______ Sông Cửu |
14. Níu Tay Vào Thu |
|
______ Chương Hà |
15. Bài Thơ của Nấm |
|
______ Phạm hy Sơn |
16. Gửi Lòng Cho Tri Kỷ |
|
______ Hàn Thiên Lương |
17. Gợi Cảm |
|
______ Lúa Vàng |
18. Xao Xác Vườn Xưa |
|
______ Jacaranda |
|
II . Văn _______________________________________________________________________
1. Giáng Sinh Vẫn Vui Vẻ ___________ Nguyễn Thị Thanh Dương | 2. Huấn Luyện Phi Hành (truyện dài nhiều kỳ) ___________ Tình Hoài Hương |
3. Chuyện Ở Ðầu Sông ___________ Phan Thái Yên |
4. Nụ Hôn Tình Cuối ___________ Song An Châu |
5. Chiếc Vòng Cẩm Thạch ___________ Hai Hùng SG |
6. Nghề Thầy ___________ Trần Thành Mỹ |
7. Ai Về Sông Tương ___________ Trần Ngọc |
8. Chị Khanh ___________ Hồ Thụy Mỹ Hạnh |
9. Giáng Sinh Năm Ấy ___________ Bạch Liên |
10. Chàng Rể ___________ Sông Cửu |
III . Trả Lời Bạn Ðọc__________________________________________________
1. Nhắn Tin/Trả Lời Bạn Ðọc _______ Ban Biên Tập |
I . Thơ __________________________________________________
II . Văn___________________________________________________________
Nguyễn Thị Thanh Dương
2. Huấn Luyện Phi Hành (truyện dài nhiều kỳ) Tình Hoài Hương
Tình Hoài Hương
Phan Thái Yên
(kỳ 1) Phan Thái Yên
Song An Châu
Song An Châu Hai Hùng SG
Hai Hùng SG Trần Thành Mỹ
Thành kính nhớ ơn Quý Thầy Cô đã dạy dỗ chúng con. Trần Thành Mỹ Trần Ngọc
Trần Ngọc Hồ Thụy Mỹ Hạnh
Hồ Thụy Mỹ Hạnh Bạch Liên
Bạch Liên Sông Cửu
face="Times New Roman">Sông Cửu
face="Times New Roman">Mục Lục
color="#330099" size="3" face="Times New Roman">
src="arrow34c.gif" width="14" height="16"> IIỊ Hộp Thư Toà Soạn
___________________________________________________
Thể lệ để nhận Nguyệt San Giao Muà:
1) Ðể vào danh sách của NSGM (subscribe),
xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
Ðịa Chỉ Liên Lạc:
Nguyệt San Giao Muà
Copyright
2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors
Mỗi khi mùa Giáng Sinh về gia đình chị Bông đều đón mừng vui vẻ nhưng năm nay chị Bông vui nhiều hơn, nao nức nhiều hơn vì hai con sẽ trở về nhà..
Thằng lớn Chester tốt nghiệp đại học mới rời khỏi nhà vì nhận việc làm ở thành phố khác và thằng nhỏ Ben cũng vừa mới giã từ mái nhà cha mẹ vào ở dorm khi bắt đầu đại học ở Austin.
Căn nhà rộng hơn 3,000 Sqf.. bỗng trở nên trống trải khi chỉ còn hai vợ chồng mà hai vợ chồng lại làm hai ca khác nhau, anh Bông làm bưu điện đi làm từ sáng sớm còn chị Bông làm hãng xưởng ca hai khuya chị về thì anh đã đi ngủ, chỉ có cuối tuần hai vợ chồng mới ?xum họp? đầy đủ.
Trẻ con mỗi đứa một tính đôi khi cha mẹ cũng phải chiều theo ý con một khi nó không đi theo ý mình,.Ben tốt nghiệp trung học loại giỏi được học bổng trường UTA gần nhà chỉ mười phút lái xe nhưng nó thích đại học ở Austin dù học bổng cho ít hơn, tiền ở dorm và ăn uống lại là một món tiền chi phí lớn, hết khoảng 26,000 đồng một năm chưa kể công bố mẹ sẽ lại rong ruỗi từ thành phố Arlington đến Austin thăm con trong suốt 4 năm đại học như thằng anh nó hồi học ở thành phố Houston.
Thăm con bao nhiêu dặm đường xa cả lượt đi lẫn lượt về thì chiếc xe mới sẽ lên miles đủ tiêu chuẩn của Mỹ để liệt vào hàng đồ cũ
Cha mẹ nào cũng đầu tư cả tiền bạc lẫn tình yêu thương cho các con ăn học vậy mà khi con học xong đi làm có biếu cha mẹ chút tiền chút qùa cha mẹ cảm động và hãnh diện làm như con vừa cho mình món qùa lớn lao lắm từ trong túi tiền của nó.
Giáng Sinh năm nay nhất định sẽ là một Giáng Sinh vui vẻ khi lần đầu tiên các con xa nhà và trở về vào dịp lễ lạc này.
Cây Giáng Sinh màu xanh tươi đặt nơi phòng khách gần lò sưởi đã được treo đèn đủ màu sắc xanh đỏ tím vàng, lấp lánh những sợi dây kim tuyến như những hoa tuyết mùa đông bên cạnh dòng chữ ?Merry Christmas? cũng đủ thấy niềm vui rạo rực tràn ngập trong nhà.
Chị Bông đã chuẩn bị một tiệc Christmas Eve thật lộng lẫy, đặc biệt chị sẽ làm món ham với cam với dứa bỏ vào lò nướng theo lời chỉ dẫn của một cô bạn Mỹ làm chung hãng, miếng thịt ham sẽ thêm thơm phức ngọt ngào vì hai hương vị trái cây ấy.
Chị cũng không quên mua món caramel bắp rang và fruitcake, là những món Ben và Chester ưa thích từ thuở ấu thơ đến giờ nên mỗi cuối năm khi thấy ngoài chợ bày 2 món này ra là lòng chị Bông lại nao nao thương nhớ các con, chỉ muốn mua ngay về cho các con vui thích.
Ben đã nghỉ mùa Ðông và về nhà từ ngày16 tháng mười hai cho tới ngày 19 tháng một mới trở lại trường, để gần gũi con trong những ngày này chị Bông đã lấy vacation kết hợp với những ngày nghỉ lễ ở nhà với con.
Chị Bông đang loay hoay treo lại những tấm thiệp treo trên cành cây giáng sinh thì có tiếng chuông cửa reo, Ben hình như đang chờ đợi sẵn nó từ trong phòng computer chạy bay ra:
- Mẹ để con mở cửa, người này của con.
Không lẽ thằng Ben18 tuổi của chị đã có?bồ? chị Bông ngạc nhiện:
- Con nhỏ nào vậy?
- Con không biết.
- Nhưng con biết họ đến đây mà
- Phải, họ đến trao cho con học bổng?
- Con nói gì vậy? mẹ không hiểủ
Ben không kịp giải thích gì thêm, từ ngữ của hai mẹ con đều giới hạn khi nói chuyện với nhau, chị Bông không thể nói nhiều tiếng Anh, Ben không biết nói rành rẽ tiếng Việt, nhưng nó nghe và hiểu tiếng Việt..
Ben vui vẻ chào đón hai người khách lạ vào nhà trong khi chị Bông bàng hoàng lo ngại. Họ là hai thanh niên trẻ, chẳng biết quốc tịch gì mà cả hai đều đen thui, anh chàng cao lớn thì tóc xoăn xòe tròn như cái ổ chim trên đầu, đã thế anh ta còn để bộ râu quai nón ai trông mà không khiếp, anh chàng thấp hơn tuy đeo kính cận nhưng vẫn không làm anh ta trình độ lịch lãm tí nào, hình nhửvẫn có nét gian ác?..
Chị Bông đoán họ không phải là dân mỹ đen ở Mỹ từ đời ông cố ông sơ mà là dân Châu Phi mới định cư sau này. Thật sự họ là ai? đến gặp Ben với mục đích gì?
Nhìn kỹ hai thanh niên da đen chị Bông càng thêm lo sợ, thằng Ben nhà chị học giỏi, nó từng xin được vài học bổng lớn nhỏ, tất cả đều liên lạc giấy tờ thư từ qua bưu điện hay email làm gì có món học bổng nào mà cá nhân đến tận nhà trao tận tay thế này?
Chị xực nhớ đến những tin tức trên ti vi báo chí Việt Nam khuyên hãy cảnh giác với bao trò gian lận lừa đảo trong dịp lễ tết này.
Hai thằng kia đang mang cái ?học bổng mả đến để lừa thằng Ben nhà chị mục đích là chúng vừa trò chuyện vừa ngắm nghía cửa nẻo trong nhà để ra tay uy hiếp khống chế chủ nhà cướp bóc tiền bạc chăng ??. Xưa nay bọn xấu đều biết gia đình Việt Nam nào cũng có sẵn nhiều tiền mặt hay nữ trang trong nhà.
Càng nghĩ chị Bông càng lo sợ, anh Bông thì đã đi làm, chị không thể ngồi yên trước tình hình này nên vội bốc phone gọi cho bà chị chồng ở gần đây để cầu cứu, giọng chị Bông nói không ra hơi:
- Chị ơi, đến nhà em gấp?..gấp?
Bà chị chồng chuyện gì cũng muốn có đầu có đuôi:
- Nhưng em hãy kể chị vấn đề gì chứ?
Chị Bông bối rối diễn tả:
- Chị ôi, hình như nhà em?sắp có cướp ! nhà em đang có hai người lạ, họ là Mỹ đen, chắc có ý đồ?đen tối gì đó?em đang?canh chừng họ, chị đến ngay với em. Có nhiều người chúng sẽ không dám ra tay.
Nói xong chị Bông cúp phone không cho bà chị chồng hỏi thêm nữa. Bà ấy tỉ mỉ hỏi chưa xong chuyện thì tại họa đã đến rồi.
Thế là chỉ vài phút sau bà chị chồng đã sồng sộc đến bấm chuông cửa, vừa thấy chị Bông mở cửa chị chồng đã than:
- Chị vội đi đến nỗi không kịp khoác cái áo lạnh lên người. Chúng nó đâu rồi?
- Suỵt, chị đừng là ầm ĩ kẻo chúng phản ứng ngay mình trở tay không kịp?
Chị chồng hạ giọng nói nhỏ:
- Ừ, chị biết rồi, phen này hai chị em mình sẽ làm chủ tình hình với bọn gian kẻ xấu..
Chị chồng nói thế cho oai, khi vào nhà liếc nhìn hai người khách lạ đang rôm rã nói chuyện với thằng Ben chị chồng cũng thấỷhoảng vía, líu ríu bước vào trong, chị Bông kéo chị chồng đi ra phía cửa bếp thì thầm dù chắc gì hai người khách kia biết tiếng Việt Nam:
- Chúng ta đứng đây nói chuyện và canh chừng họ có bề gì dễ tẩu thoát, em có sẵn cell phone đây, nó mà có hành động gì khác thường thì em sẽ mở cửa chạy bay ra vườn và gọi 911 ngay lập tức.
- Chị cũng có cell phone đây, nếu em ?có bị nó khống chế thì còn chị, chị cũng?chạy bay ra vườn gọi 911 luôn.?
- Bởi vậy có chị em yên tâm hơn dù gì phe ta 3 người phe nó chỉ có 2 người.
Chị chồng thắc mắc:
- Bây giờ em hãy kể chị nghe vì sao thằng Ben biết tụi nó?..
- Thằng Ben lúc nãy chỉ kịp nói với em đây là hai người đến trao cho nó học bổng. Em cứ thắc mắc nãy giờ học bổng gì? sao lại có chuyện đến nhà trao học bổng chứ?
Bà chị chồng hùa theo:
- Chuyện gì cũng phải có giấy tờ văn thư đàng hoàng..Ðúng là phường lừa đảo, năm hết tết đến chúng lợi dụng lúc thiên hạ vui đón ngày lễ mà ra tay đây
Hai chị em nói chuyện mà mắt vẫn không ngớt liếc về phía phòng khách. Chợt anh chàng tóc quăn đứng dậy, chị Bông tim đập thình thịch định tông cửa sau ra ngoài để móc phone gọi 911 nếu thằng Ben không cùng đứng dậy với khách, nó nói với mẹ:
- Anh ấy muốn vào restroom
Ben dẫn anh ta vào một restroom và tiếp tục câu chuyện với người còn lại, vài phút sau anh tóc quăn ra ngoài. Họ vẫn nói chuyện bình thường vui vẻ mặc cho hai người phụ nữ đang sôi sục đề cao cảnh giác với họ?
Vài phút sau thì hai người khách đứng dậy ra về, chị Bông và bà chị chồng cùng chạy đến vờ tiễn khách để nhận dạng họ kỹ hơn có gì còn khai báo với cảnh sát.
Thằng Ben không hiểu nỗi lo sợ của mẹ và bác, khi khách về rồi nó chìa tờ check ra khoe:
- Họ đến trao con học bổng này, là 750 đồng cho năm nay.
Chị Bông cầm tờ cashier check mệnh gía 750 đồng từ nhà băng Chase, nhưng chị dửng dưng:
- Chắc gì có tiền.!
Bà chị chồng cũng cầm tờ check lên ngắm nghía và lạnh lùng nghi ngờ:
- Check gỉa đấy. Bọn lừa đảo còn làm được tiền dollar gỉa nữa kìa. Chắc chúng thấy nhà mình 3 người nên không dám hành động..
Ben ngạc nhiên trước thái độ của mẹ và bác nó:
- Mẹ và bác đang nói gì?
- Mẹ nói cái check này không là thật?bác nói chúng ta đang bị lừa đảo.
Ben bất bình ra mặt:
- Không, không?mẹ và bác không được nghĩ xấu cho họ, đây là real cashier check, không tin chúng ta ra nhà băng ngay bây giờ...
Bác nó phán:
- Ra nhà băng làm gì cho tốn công, tốn xăng.
Chị Bông than:
- Lại còn bị quê nữa chứ.
Ben chạy vào phòng computer lấy ra cái laptop, nó mở ngay ra một trang web và đưa đến gần hai người phụ nữ:
- Con sẽ chứng minh cho mẹ và bác mà không cần ra nhà băng, mẹ và bác đều đọc được tiếng Anh mà?
- Dĩ nhiên, bác còn nhận xét được trang web này giả hay thật nữa đấy..
- Ừ, đọc thì đọc, mẹ và bác sẽ vạch trần sự thật đen tối ra, con khờ lắm, không biết được trò đời đâu.
Hai người phụ nữ cùng tò mò xúm đầu vào đọc trang web theo tay Ben chỉ cố tìm ra bất cứ điều gì sai trái.
Thì ra đây là một foundation nhỏ do hai cá nhân lập ra, foundation của hai người mang tên họ Ấn Ðộ, họ là cựu học sinh của trường trung học Sam tại thành phố Arlington nơi Ben đã học.
Họ đã tốt nghiệp đại học và đi làm, mỗi năm họ đóng góp tiền để thưởng cho một em học sinh giỏi môn toán của trường khích lệ đàn em..
Những năm trước món tiền thưởng là 500 đồng, năm nay họ tăng lên 750 đồng,
Ben lấy tờ check ra và chỉ vào dòng chữ trên trang web:
- Bác và mẹ xem, người ký tên dưới tờ check chính là tên người sáng lập ra foundation này.
Hai người phụ nữ cùng thở phào nhẹ nhỏm và vui mừng. Chị Bông trách con:
- Sao con không kể cho mẹ nghe trước khi họ đến đây làm mẹ sợ qúa trời luôn, mẹ phải gọi bác sang hỗ trợ?..
- Con xin lỗi đã quên chưa kể với mẹ, trước khi họ đến con cũng không biết màu da của họ. Nếu họ không là màu da đen tối thì chắc mẹ không sợ hãi đến thế, phải không?. Họ là người Ấn Ðộ, một anh có bằng PH. D và một anh là kỹ sư, họ đều thành công trong nghề nghiệp. Ông thày dạy môn toán trường trung học của con năm vừa qua đã đề cử con với foundation này.
- Nhưng sao họ lại tử tế mang check đến tận nhà cho con, bởi thế mẹ mớỉhoang mang lo lắng..
- Vì họ liên lạc với con qúa trễ, không thể để qua năm mới nên họ đến nhà.khi biết con đang có mặt ở nhà, ở thành phố Arlington này, nơi họ cũng đang sinh sống và làm việc..
Chị Bông ân hận :
- Vậy mà mẹ đã nghĩ lầm cho người ta. Không biết lúc nãy mẹ mang nước ra mời khách, vẻ mặt lạnh và nặng nề như đá tảng của mẹ họ có nhận thấy không?
Ben kể:
- Hi vọng là họ không để ý. Họ hỏi thăm con về bố mẹ, họ khen cha mẹ người Việt Nam chăm sóc con cái giỏi lắm?
Chị Bông cảm động và ngượng ngùng không biết nói gì với con, lúc nãy lòng chị lo sợ và ghét khách bao nhiêu bây giờ lòng chị ân hận và thương khách bấy nhiêu. Bà chị chồng chắc cũng cùng tâm trạng:
- Chúng ta thật nông cạn và xớn xác, hai anh chàng này gốc Ấn Ðộ thuần chủng nên đen thủi đen thui. Chúng ta chỉ qua màu da mà thành kiến với họ, chúng ta chê người khác kỳ thị trong khi chính chúng ta kỳ thị . Tóm lại không nên đánh gía người khác qua bề ngoàỉ
Chị Bông ví von thực tế :
- Trái mít trái sầu riêng sù sì và gai nhọn mà múi bên trong thì thơm ngon đó?
Bà chị chồng khen ngợi:
-. Hai anh chàng trẻ tuổi này có tấm lòng, dù món tiền nhỏ nhoi nhưng ý nghĩa lớn lao. Thật đáng mến.
Chị Bông trách:
- Phải chi lúc nãy chị hiểu ra điều này, nói ra điều này thì em yên tâm biết bao, em lo sợ một, chị đến làm em lo sợ ?gấp mười lần vì chị còn bi quan và giàu tưởng tượng hơn em nữạlàm em nghĩ ra ngay một mùa Giáng Sinh?hoạn nạn, tiêu điều và thậm chí?đổ máu..
Bà chị chồng bào chữa:.
- Tạỉ bây giờ chị mới suy luận ra.. May qúa ngày Giáng Sinh vẫn vui vẻ với chúng ta
Chị Bông tươi vui nét mặt:
- Ðúng thế, một Giáng Sinh vui vẻ vì thằng Ben học giỏi từ trung học, nay lên đại học những tháng vừa qua nó đều đạt điểm cao..
- Chẳng mấy chốc mà 4 năm đại học sẽ qua đi thằng Ben sẽ ra trường và có việc làm như anh nó.
Chị Bông vui lắm nhưng cũng khiêm nhường:
- Chị chỉ khen các cháu chị chẳng khác nào mèo khen mèo dài đuôi
Chị Bông quay ra nói với Ben:
- Con ơi, con mời hai anh hồi nãy đến nhà mình được không?
Ben ngây thơ:
- Mẹ và bác vẫn chưa tin những gì con đã nói sao? Mẹ muốn kiểm tra họ lần nữa sao?
Chị Bông vui vẻ:
- Ý mẹ muốn mời hai anh ấy vài ngày nữa đến nhà mình dự tiệc Christmas Eve, mẹ rất mong được tiếp họ tại nhà, lần này mặt mẹ sẽ tươi như hoa để gỡ gạc lại hình ảnh mẹ lạnh lùng hôm nay . Có họ ngày Giáng Sinh của chúng ta sẽ càng thêm vui vẻ, chưa có năm nào Giáng sinh vui vẻ như năm này
Ben lại ngây thơ:
- Vì nhà mình có món qùa 750 đồng hả mẹ? vậy lát nữa con sẽ đi ra băng cash tiền đưa cho mẹ nhé.
- Con ơi, vì mẹ đã học được bài học trong cuộc sống, không nên đánh giá ai qua hình dáng bên ngoài và vì con ngoan và học giỏi. Ðó mới thật sự là món quà đặc biệt và niềm vui cho mẹ trong mùa Giáng Sinh này.
( Kỷ niệm với Ben. một mùa Giáng Sinh vui)
Truyen Dai
Huấn Luyện Phi Hành
Phần thứ Nhất
Chương 3
3. Anh KHÔNG QUÂN Cho Em Xin hai chữ? ?Lễ Ðộ? !
Năm 196... "Hành tôi" mệt nhọc vác ba lô xuống bến tàu Cầu Ðá. Ðoàn Không-quân trong nhóm gồm có bảy mươi bốn sinh viên sĩ quan khóa sinh, cộng với mấy trăm tân binh Không-quân. Những đoàn xe GMC vù vù chở mọi người về căn cứ 12, thì hàng chữ: "Trung Tâm Huấn Luyện Không-Quân - Căn Cứ 12" đập ngay vào mắt mọi người.
Con đường tráng nhựa khá dài, có lẽ dài đến bảy tám trăm mét chạy quanh doanh trại. "Vòng Cộng Hoà" sừng sững giữa các bãi cỏ xanh tươi. Nơi đây chuyên dành để sinh-viên sĩ-quan đàn anh sắp ra trường, sẽ tập trung đàn em khoá sinh lại, họ tha hồ "nhồi" cho tân khoá sinh có sức khỏe, kiên cường, nhẫn nhục, có sức chịu đựng dẻo dai trong quân đội. Cạnh đó, chưng bày chiếc máy bay F8F Bear Cat, loại phi cơ một cánh quạt tấn công của Pháp. Ðồng thời chiếc máy bay nầy đã từng dùng để huấn luyện đợt phi công đầu tiên của Việt Nam.
Câu Lạc Bộ có nhiều người đang ăn uống, nhiều người giải trí: đánh bida, pingpong. Phía trên kia là văn phòng điều hành khóa sinh, nơi làm việc của Ðại-úy Trưởng-đoàn khoá-sinh. Văn phòng ông Thượng-sĩ Cơ Bản Huấn Luyện người Mỹ. Văn phòng đoàn cán-bộ sinh-viên sĩ-quan. Những khoá sinh đi trước Hành chưa được tuyển chọn đi du học, thường đề-bạt lên làm cán-bộ (Trung đội, Ðại Ðội, Tiểu Ðoàn. Ai càng ?thâm niên... phạn xá?, hi hi hi... thì cấp chức càng? bự). Vòng nhỏ là Vòng-Khóa-Sinh: tức là sân nhỏ giữa doanh trại. Nơi mỗi cuối tuần có đám sinh viên sĩ-quan, khóa-sinh nào bị phạt, sẽ thi hành lệnh "dã chiến" là chính tại nơi nầy. Sân rất lớn nằm ngay bên dãy nhà tiền chế. Theo kiểu ba-rắc của Mỹ, ở giữa là hai dãy nhà vệ sinh, nhà tắm công cộng. Phía trên là văn phòng để điều hành khóa sinh.
Bạn chung khóa sinh với anh gồm đủ mọi miền, đủ thành phần, đủ hoàn cảnh. Họ cùng quy tụ về dưới mái trường Không-quân-Mẹ: Vừa thất thểu qua khỏi cổng trường, tất cả khoá sinh được tách riêng ra, xếp hàng ngay ngắn, chờ điểm danh. Tân-binh được hướng dẫn viên cho đi thẳng xuống khu nhà đằng phía xa xa kia. 74 khoá-sinh sinh-viên sĩ-quan Không-quân thì ghé lại trước cổng trường. Sinh viên sĩ-quan vác ba lô đi vào giữa sân. Ðầu tiên, khoá sinh xếp hàng theo thứ tự cao, thấp. Những anh nào cao lêu nghêu, thì đứng trước, đứng trên. Những anh thấp đứng dưới, đứng sau, (chi lạ ha, Hành cứ tưởng là ai thấp, lùn, ốm ỏ thì phải đứng trước, đứng trên, thì mình nhìn mới ?thấy đường? chớ! Ai dè... lại tréo cẵng ngỗng thế! Thiệt tình! Hành thấy một sĩ quan huấn luyện rất cao lớn, to con gần giống như người Mỹ to cao vậy. Khi ông ta mở miệng ra, mọi khoá sinh nghe mà phát khiếp! Giọng nói ông ta tốt, sang sảng, rổn rảng, oang oang. Hành nghĩ không phải là giọng nói, mà giống như là giọng ông ta gầm hét quá to (chả cần dùng loa liếc phóng thanh phóng tháo gì, cho mệt):
- Các anh. Có ai là sinh viên đại học. Hãy bước ra khỏi hàng. Ðứng qua bên phải đây.
Trong bụng Hành mở cờ reo vui, thích thú, hân hoan, sung sướng thầm nghĩ: "Chà! Oai nhe! Le lói nhe! Ðã nhe, sung sướng, ưu đãi nhe! Chắc là đám sinh viên nầy được phè phỡn ưu tiên nhe. Khỏe re như con bò kéo xe à nhe". Hành cùng một nhóm nhỏ độ chừng bảy tám tên, vội vàng hăng hái, hớn hở bước ra khỏi hàng, lẹ làng đứng qua bên phải. "Ông to con" kia hất hàm cho các cán bộ Trung-đội-Trưởng dẫn đám đông còn lại bắt đầu "chào sân". Nghĩa là cho ?tân binh? bắt đầu chạy quanh Vòng Cộng Hoà. Sau hết, ông ta quay sang phía "bọn le lói" nầy, ông ?hét? tiếp:
- Các anh được cha mẹ, ông bà... cho ăn no, rồi vác thân tà tà ung dung ?đi học đi hành? hay lắm. Tốt lắm. Giỏi lắm! Sung sướng lắm. Mà các anh không biết nương thân. Còn bày đặt tụm trăm tụm ngàn rầm rộ biểu tình, biểu tọt, phản đối la hét, chống báng nọ kia ầm ĩ. Các anh có biết không: Vì các anh ưa náo động, ưa dợt le, ưa làm ta đây am tường hết mọi vấn đề chính trị, các anh lên mặt ta đây rành đời, muốn dạy đời... nên các anh thường quấy rối, quậy phá lung tung ở ngoài xã hội muốn bình an kia. Vì vậy, chúng tôi ở đây mới bị các anh ?chẳng đi học lại đi hành?, bắt chúng tôi ở trong quân đội phải cắm trại ngày đêm liên miên. Rõ không? Bây giờ, các anh đã vào đây rồi. Chúng tôi sẽ cho các anh biết: Thế nào là lễ độ. Ðâu là kỷ luật sắt trong quân ngũ... nà! Nào. Chuẩn bị. Các anh hãy chạy theo tôi.
Thế là ông ta chạy trước rõ nhanh. Các khóa sinh Không-quân tuần tự lúp xúp chạy theo sau lưng ông. Cứ thế mà chạy. Vừa chạy, ông ta vừa hét to:
* (ví dụ): - 65...
Các sinh viên sĩ-quan phải cố "gào lên" to hơn:
- Khỏe.
Cứ thế, "tân binh" bị ông "hành hạ, tra tấn" cho đến quá mười giờ đêm. Có hơn một nửa khóa sinh đã ngất xỉu, họ nằm vật ra bên vệ đường. Chả có ai "ân cần" thương xót chăm sóc, giật tóc giật tai, tạt cho tí nước nôi vào người, cho tỉnh, hay cho ăn uống tí gì. Họ cứ nằm lì (y như trẻ con "nằm vạ" ra đó). Khi nào ai tỉnh dậy, thì tự động bò lết về sân. Còn Hành sao khoẻ đến thế nhỉ? Mặc dù lúc đó anh ốm nhom. Có lẽ do hồi trước ở Ðà Lạt, anh phải đi bộ rã gối rã giò nhiều, ngày ngày có ít nhất là ba bốn lần anh đi lên đi xuống: từ trong đại học, đi ra phố, về nhà. Ði hoài, nên Hành đi bộ quen chân rồi chăng? Chả rõ. Chỉ biết là Hành nhìn vào cái lưng của thằng khóa sinh chạy trước. Cứ thế mắt nhắm mắt mở, anh cắm đầu chạy riết.
Cho đến khi hơn hai phần ba những anh bạn kia đã "rụng rời tả tơi". Ông ta mới cho mấy anh chạy khật khưỡng, lẻo khoẻo dừng lại. Tất cả về tập trung ở sân cỏ. Ông ra lệnh cho từng cặp đi qua nhà kho (kế bên dãy nhà khóa sinh). Khóa sinh phải tự túc khiêng giường, tủ, bàn, ghế. Trời đất! "Chúng tôi" đang đói cồn cào, và mệt lả người. Hành dật dờ đi khiêng đồ cùng với Vinh, vì cán bộ cho tự chọn hai người được ở chung một phòng, cùng đựng áo quần trong một cái tủ sắt, một bên là đồ dùng của mình, một bên kia là của Vinh. Lúc xong công việc đã hơn nửa đêm, Hành càng mệt muốn đứt hơi thở. Ðói cồn cào mà không thể ăn uống nuốt trôi thứ gì.
Những ngày thụ huấn đầu tiên thì ôi thôi, bị phại lia chia. Hình phạt ở đây hầu hết có tác dụng của việc huấn luyện thể chất khoẻ mạnh, cường tráng như: "nhảy xổm", "hít đất", "tấn công", "đi vịt", "bò", "lăn". Cán bộ mang găng tay trắng tinh, họ tìm kiếm những chỗ ngóc-ngách mà quệt vào. Thử hỏi làm sao chả có tí bụi chớ? Cứ thế, họ lầm lì, lạnh lùng rút trong túi áo của khoá sinh ra một tờ giấy: Ghi phạt vào chiều Thứ Bảy. Bị phạt, thì trong vòng chừng vài giờ từ trong phòng: khoá sinh ấy chạy lên sân, các bạn "bị kỷ luật" phải thi hành bất cứ lệnh phạt nào. Nếu ai làm sai, là bị phạt hít đất. Có những lệnh trớ trêu buồn cười lắm. Như cán bộ hét:
- Anh về phòng mặc ngược áo treillis. Mặc trái quần kaki. Một chân bên phía mặt mang botte de saut. Một chân bên trái mang giày bata. Các anh bị phạt chỉ có mười phút, để thi hành.
Mệt ơi là mệt, nhưng rất vui. Khi ra lệnh, thì cán bộ hét oang oang, to muốn điếc con ráy. Nên các bạn ở trong những phòng khác đều nghe rõ. Thế là sinh viên sĩ quan ở chung phòng hoặc cùng dãy với bạn ấy, nếu ai không bị kỷ luật, họ liền chạy tới tận tình giúp người bị phạt làm thật nhanh. Nghĩa là họ sắp xếp sẵn sàng đầy đủ mọi thứ. Anh bị phạt kia lo chạy về phòng, nhờ có bạn phụ giúp mặc đồ, gài nút áo, mang giày, thắt dây giày, như thế mới kịp. Thử hỏi, nếu không có sự yểm trợ của bạn đồng môn trong phòng giúp đỡ mặc áo, xỏ quần, mang giày, vân vân...; thì làm sao kịp chớ!? Vậy mà khi anh chạy lên tới nơi, cũng bị phạt năm mươi cái hít đất. Hành trợn mắt hả miệng thở, mệt hộc xì bơ.
Mãi về sau nầy Hành mới biết vì Vinh to con, đẹp trai và khỏe, học khá giỏi. Tính tình Vinh đàng hoàng, dễ thương. Cán bộ thấy nó ?có uy, có thớ, ngầủ như thế, nên họ ưa ?ưu ái chiếu cố chăm sóc hai chúng ta". Họ "siêng năng" tới phòng "hỏi thăm sức khỏe bạn và tôi"! Vô tình ở chung với Vinh, Hành cũng vướng vào cái thảm hoạ bị "trù dập tả tơi, bị đì tới bến". Khi khổng khi không hai đứa vô cớ bị phạt "dã chiến" hoài. Nghĩ cũng tức bực vì sự vô lý ấy, mà mình đành nín khe, im re chịu trận xin tuân phục theo ?cái đức vâng lời" là thượng sách mờ. Thì ra, trong quân trường họ cố rèn luyện cho khoá sinh lấy "đức vâng lời" làm điều tiên quyết. Bất kể "lệnh lạc" đó ra sao, có đúng, hay nực cười! "Thi hành trước, khiếu nại sau" mà! Những lần sau khi bị phạt chung, toàn khóa sinh thường thì thầm bảo nhau:
- Khi tụi mình chạy qua khu sinh-viên sĩ-quan đàn anh đã ngủ. Tụi bây nhớ quay vào phòng của họ, mà gào lên cho thiệt to. Nghen:
- * (ví dụ): - sáu mươi ba ba ba...
- Khỏe.
- Nhớ chưa?
Cứ thế, khóa sinh Không-quân quay mặt vào cửa phòng ngủ của cán bộ, hết sức gân cổ hét la thật to. "Chúng tôi" ở ngoài sân, nghe còn muốn điếc con ráy. Thế là có kết quả ngay. Có mấy ông cán bộ "coi sóc" sinh viên sĩ quan "bự" hơn, (là Ðại Niên Trưởng) đã kêu cán-bộ Ðại-đội-Trưởng lên la mắng, rầy rà:
- Nè. Có phạt tụi nó. Thì phạt ban ngày. Còn ban đêm, thì để cho "ông" ngủ nha.
Hành không thể nào quên về thời kỳ ?Huấn Nhục? nó cay đắng? mà thi vị lắm! Cũng tựa như cái sự cay của ớt, cái chua của chanh, cái mặn ngọt của tương; để làm cho tô phở ngon, thêm đậm đà hấp dẫn! Ới nầy! Các em gái hậu phương hỡi! Chắc các em ưa đứng ở ngoài hàng rào của quân trường Không-Quân Nha Trang để? ?ngắm nghé? lom lom len lén dòn ngó quý anh ha! Các em sẽ lạ lẫm với hai tiếng ?Huấn Nhục? lắm, phải không các em? Anh nghĩ lại cũng thấy mục đích cao cả, và tuyệt diệu của việc nầy. Người ta đã cố tình huấn luyện cho mình hiểu: "Kỷ luật là sức mạnh của quân đội" là như thế nào! - "Trên" ra lệnh, là "Dưới" răm rắp nghe, và thi hành! Chứ lỡ mà khi các anh ra trận, thì không ai có thời gian giải thích nầy nọ đâu! Họ chỉ cần thuộc cấp phải lắng nghe, tuân phục, chấp hành lệnh ban ra thôi! Nào, anh kể sơ sơ như vầy... là các em sẽ hiểu, mà không cần giải thích nha. Các em hãy ngồi bên, nghe anh tâm tình nè: Các em có biết không? Một ông niên trưởng nọ tự dưng đứng trước một chàng khoá sinh, hỏi:
- Nầy, ông cao bao nhiêu vậy ông?
- Dạ, 1 mét 68.
- Thấp vậy mà cũng vô Không Quân ha. Hai mươi cái hít đất đi ông.
Có một ông... "gian ác" khác, cầm trái ớt hỏi một khóa sinh:
- Trái gì đây ông?
- Dạ, trái ớt.
- Tầm bậy! Ðây là trái chuối. Mười cái nhảy xổm đi ông.
- Ông nói lại coi, đây là trái gì?
Anh khoá sinh ngán quá, trong bụng chửi thầm, nhưng cũng ?thưả:
- Dạ, trái chuối.
"Ngài niên trưởng" cười cười:
- Trời đất! Nó là trái chuối à, vậy thì ông ăn hết, xem nó có ngọt không ông?
Bắt buộc là chàng khoá sinh đứng thộn ra ăn nguyên trái ớt, không dám nhăn mặt cãi lệnh à! Ðó! Các em hiểu thế nào là ?Huấn Nhục? chưa? Nhiều cái tức cành hông, tức như bò đá; mà ở đây các anh không cần biết lý do; để lý giải, hay lập luận gì hết!? Ba cái tự ái vặt của đời sống dân sự, sự cải lý của chàng học sinh, sinh viên xưa kia, nhưng khi các anh đã vào đây rồi: là đồ bỏ, anh ta không được ngóc đầu dậy rông rống, chỉ chỏ, la ó, phản đối, biểu tình ở trong Quân Trường. Các em à! Có nhiều trò ?Huấn Nhục?... "quái chiêu" hơn, ác liệt hơn! Nghe mà ớn. Anh đồng ý với quý anh em là: ?cái gì vừa vừa... phải phảị.., là nó rất haỷ... Có mấy "cha" niên trưởng vô ý, hay có tâm "xà", tự chế ra những hình phạt: làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, hoặc gây thương tật cho sinh viên sĩ-quan, là không nên, không thể được. Về phía dã chiến (từ một ông vua dã chiến), thì anh khoái cái trò mỏi lưng, đau đầu gối:
- Lấy que tăm xỉa răng đi đo chu vi sân phạn xá.
Cán bộ lại còn hù:
- Ðo cho đúng vào, nghe không. Trước anh, đã có nhiều người đo rồi. Nên tui đã có con số đo sân nầy rõ rệt. Nghe.
- Cầm muỗng cà phê đi băng qua sân, hứng nước. Rồi trở lại băng sân, đỗ nước vào bi đông.
- Chuyện sau nầy thì mình càng không mấy vui: để ngón tay lên mui nap-rocket, (hình mui tháp ngang đầu gối), rồi chạy xung quanh? Mẹ kiếp! nghĩ lại còn muốn mữa!
- Bắt khóa sinh đứng nhìn mặt trời giữa trưa nắng. Nhẹ nhàng đấy, nhưng "cha nội niên trưởng" nầy có hiểu không, chúng tôi sẽ bị ?mù?: dân phi hành cần phải bảo trọng cặp mắt quý giá đến dường nào!
- Cái trò nửa đêm mưa bắt khóa sinh vừa hít đất, vừa nhìn bóng đèn. Cũng không vui, sẽ bị hư ?đôi mắt phi tiêủ như chơi.
Lương vẫn nói:
- "Lễ độ" cái con... khỉ! Từ ngày có cái Liên Ðoàn sinh viên sĩ quan, mới có người nghĩ ra "nghi thức" tiếp đón tân SVSQKQ: ngày vào quân trường mẹ đó như thế chớ. Theo tập tục từ các quân trường lớn, lúc khóa sinh ngồi trên tàu thủy vừa hết say sóng, thì liền bị quý niên trưởng cho thử sức với bão táp quay cuồng, dồn dập, liên tục... ?phờ ngườỉ, chớ chẳng phải chơi.
Có nghe khóa sinh xì xào tâm sự nhỏ to với nhau vào những phút giây cho nghỉ xả hơi, ta mới thấy được bản lĩnh của từng người; ôi thôi: hỉ, nộ, ái, ố: có đủ cả; đứa thì lấy làm vui khi thấy thằng khác bị phạt. Ðến khi tới phiên mình bị phạt, thì trong bụng không tức giận cũng ấm ức. Ðứa nào có cái tướng dễ thương, là ít bị ?quay dế?, thì trong lòng có cảm tình với đàn anh. Ðứa nào có cái mặt thấy dễ ghét, là bị hành hạ liên tục, rồi sinh ra oán ghét. Tại sao lạỉ "lễ độ? cái con khỉ? Ai đời thằng nhóc con mới bận áo lính chưa được bao năm, mà dám phùng mang trợn má, ra lệnh nọ kia với một "ông cụ già như Lương tui". Tui hơn nó cỡ mười tuổi đầu. Tôi mặc quân phục hơn nó cỡ chín mười năm, lãnh lương hơn nó hai ba bậc, mà tôi phải gọi nó là niên trưởng! Ôi thôi!
Nói chơi vậy cho vui, và hàn huyên tâm sự xí thôi, chớ đó là tập tục cổ truyền từ phương Tây, rồi tràn lan sang phương Ðông, nghi thức làm nên truyền thống: là phương pháp đào luyện bằng thực tiễn, là bàn tay điêu khắc ra "một thế hệ hào hùng, danh tiếng?, có lý tưởng, có tình huynh đệ chi binh mà. Nếu không có ?lễ độ? trong quân ngũ, thì súng ống sẵn đó, khi tức giận lên, mình tự ái vặt, nổi nóng hừng hực hơn lửa, không thể tự chủ, chẳng ai nhớ gì quy củ, kỷ luật trong quân trường; là mạnh ai nấy nổi giận, làm loạn, thì còn gì là kỷ luật quân đội và gia phong quân trường mẹ nưã! Phải không qúy vị?
Ngay cả tên cán bộ phạt Hành nhiều nhất, hoá ra là thằng Thanh. Cứ đêm đêm, nó cố tình kêu Hành ra, phạt anh năm mươi cái hít đất. Thi hành xong. Hành rã rời ngất ngư, nhưng cố gắng đứng nghiêm chào, và la to:
- Sinh-viên sĩ-quan Lữ Phi Hành? khoá 65... Thi hành lệnh phạt xong.
- Có biết tại sao tôi ưa phạt anh không?
- Thưa không.
Thế là nó nhìn Hành cười cười, và cứ phạt anh ra hít đất hoài. Vì cái tội "không biết". Mãi về sau, khi anh gần đi Mỹ. Nó mới ?hóm hỉnh? thố lộ:
- Tôi là anh họ của cô bồ nhí xí xọn của anh đây. Thấy bộ dạng anh coi công tử bột, dễ ghét, đã vậy anh cùng nhóm sinh viên ưa đi quậy tưng trời, biểu tình biểu tọt? ở ngoài vòng rào kia. Anh không ?đi học?, mà anh ?tưng bừng đi hành?? thì khi anh vô đây, tôi cứ ?hành? tội, phạt anh chơi. Vậy có được không!?
- Trời đất.
* * *
1.
Người họa sĩ sau nhiều năm sống lưu vong đã trở về thăm quê ở cuối dòng sông Hương rồi theo đò ngược lên bến Tuần vào một ngày không lâu sau Tết. Ông sống trọ ở đó rồi chết vào một đêm cuối mùa Xuân. Mỗi sáng sớm ôn Thiên, người lão bộc mù quanh quẩn suốt đời trong ngôi nhà được dùng làm quán trọ duy nhất của bến Tuần, vẫn chăm chỉ quét dọn căn phòng y nguyên chăn chiếu, vảng vất hơi hướng của người bạn vong niên sớm thành tri kỷ. Ôn nhớ bạn, hốc mắt sâu, chòm râu thưa xơ xác, tiếng ho khan, và mùi thơm của những hớp rượu Tây uống vào buổi sáng. Ôn sờ nắn từng bức tranh được treo ngay ngắn trên bức tường vôi rạn nứt, run rẩy vuốt ve lên những tảng màu sông núi cau gợn tang thương. Ôn dừng ngón tay mình ở khoảng thân hình người thiếu nữ đứng tắm khỏa thân trong bức tranh cuối cùng người họa sĩ chưa kịp hoàn thành trước khi lìa đời... Ôn Thiên nhớ tới lần người họa sĩ cầm tay để ôn dò dẫm lên vùng quánh đặc giữa thân thể người đàn bà trong tranh, cắc cớ hỏi. Ôn có biết chổ ni là chi không? Ôn Thiên lắc đầu khi nghe bạn giải thích về nơi cửa rừng đam mê đó. Ôn Lê ni thiệt ! Cụ mi vẽ vời chi mà tô hô ra rứa, ai mà coi cho được !? Ôn Thiên trách cứ xong rồi nối giòng cười với bạn ... Ôn lắc đầu cười một mình, bước ra khỏi nhà, lần rải đi về phiá bến đò. Nỗi ước ao rực rỡ sắc màu vùi ngủ trong ôn từ rất nhiều năm qua chợt thức giấc muộn màng. Bừng lên trong nhận chịu vô thức về một định mệnh đã an bài chợt bàng hoàng cánh phượng đỏ vấy nắng lung linh trong màu xanh của lá la đà trên mặt nước lúc đò chèo qua Thiên Mụ. Ðã hơn sáu mươi năm, sau lần xuống Huế đầu tiên của thằng Thiên năm mười tuổi. Cơn bệnh đậu mùa thập tử nhất sanh đã cướp mất ánh sáng của một đời người.
Trời như đang bắt đầu cho một ngày nắng. Ôn Thiên cảm thấy mặt mình hây hây chút ấm của ánh mặt trời. Ôn nghe gió về lướt lao xao trên mặt sông. Tiếng máy đò khản nghẹt nặng nề như muốn chìm úng vào sông để mặc cho nước nguồn đẩy con đò trôi. Ðò xuôi về Nguyệt Biều, Long Thọ hay tấp qua Xước Dũ, Văn Thánh. Những thôn xóm nên thơ dọc theo thượng dòng sông Hương la đà màu xanh của từng khu vườn mít, thanh trà, hun hút êm đềm trong cái nhìn lan trải của trí nhớ một người mù. Con sông nhỏ Bạch Yến lượn lờ uốn quanh Nham Biều, Ngọc Hồ, Hải Cát, Ðình Môn, thả hương cây trái về tới Kim Luông xanh mướt vườn dâu. Làng Hồ, quê ôn, với mùi mít chín thơm tay. Màu xanh của lá, màu vàng đỏ của bông hoa. Ôn chợt nghe mình lẩm bẩm thành lời từng miếng màu sắc đến từ trí nhớ đọng xoay trong hốc mắt khô rốc mỏi rời.
Tiếng gàu nước kéo từ sông lên, xối róc rách lên mạn thuyền gổ. Mùi chanh chùm kết từ dưới bến đò thơm vọng lên nơi ông đang đứng dưới bóng mát cây ngô đồng. Cây không già như ôn, nhưng ôn chẳng còn nhớ nó được trồng từ lúc nào. Có lẽ một ngày nào đó thời Ông Diệm. Ôn Thiên rờ dọc theo thân ngô đồng, vỏ cây xù xì nhám nhúa. Có người nói lá cây ngô đồng trở màu xám vào mùa đông. Ðang cuối mùa xuân, có lẽ lá đã về lại với màu xanh. Hay cây ngô đồng chẳng có ai trồng mà mọc? Cây lớn lên với thời gian, bấm mình vào đất cứng, vươn dài cội rễ dọc ngang mà khứng chịu gió núi mưa nguồn như ôn sống già với quẩn quanh mù lòa như một chứng nhân câm nín chẳng ai ngại ngần.
Chuyện đời người bạn tự tha phương được kể ra giữa những cơn say làm ông buồn bã nhớ nhiều về quá khứ đời mình tưởng đã chìm đắm trôi sông. Ôn đi về phía bờ sông, vốc nước vả ướt mặt. Ôn đầm người xuống nước, tiếng sóng bên tai âm trầm nhịp thở của dòng sông quyện lẫn đâu đó tiếng máy con đò đưa xác người họa sĩ về lại với gia đình. Ôn thấy trong trí nhớ mình xóm Bao Vinh lao xao con đường lát gạch mấp mé bờ nước. Màu gạch đỏ cũng tươi tắn như trong cơn mộng của bạn mỗi đêm về. Nằm trăn trở nhớ quê, nhớ đời mình... Từ một biển xa.
2.
Chuyến xe khách cuối ngày từ bến xe chợ Ðông Ba đưa người sinh viên trường Mỷ Thuật lên tới Văn Thánh lúc trời đã nhá nhem tối. Nhớ lời dặn của người liên lạc, anh quảy túi xách lên vai đi nhanh về phía làng Ngọc Hồ. Chân bước mà lòng thì ngổn ngang bao nỗi buồn lo ngại ngùng lẫn lộn. Anh buồn vì sắp phải bỏ nhà, bỏ phố, và lo lắng cho cuộc sống xa lạ sắp tới. Huế sau tết Mậu Thân đã rõ mắt nhìn tang thương đổ nát, phân tán chia lìa. Không còn những ngày sinh viên hào hứng, la cà ở Trương Ðịnh uống café và cảm thấy mình cao lớn. Khúc phố Trần Hưng Ðạo âu sầu nhớ bạn. Quán Lạc Sơn rộn ràng lớp người gươm súng. Chân chẳng buồn qua lối về Bãi Dâu vì cô học trò nổi tiếng ngổ ngáo và đẹp tản thần đã bỏ nhà, bỏ trường, bỏ quán chè nhạc tiền chiến, vô bưng. Một số đông bạn bè đã vào Ðà Nẳng hay Sài Gòn để trốn lính hoặc đi lính. Một số thì ngưởng mộ quyền năng sinh sát của nhóm người từ núi về, tay thử nhúng chàm để thỏa chút lòng còn mang mối mặc cảm tự ti cũng đã kéo theo nhau vào núi. Chỉ còn anh và một nhóm nhỏ bạn bè ở lại thành phố. Từng chiều rời rạc bước chân qua triền dốc đoạn đành của chiếc cầu gảy nhịp. Vai cầu cong oằn chúi vào nhau cũng buồn như lòng người đi trên cầu lo lắng về một tương lai không lối thoát. Gần đây, trong sự hối thúc của lệnh động viên nhập ngũ, ba mạ anh đã đồng ý cho anh vào vùng giải phóng qua sự móc nối của bạn bè để tạm lánh một thời gian chờ hòa bình đến.
Mãi suy nghĩ vẫn vơ, anh đến điểm hẹn ở bìa làng lúc nào không hay. Anh lo sợ nhìn màn đêm như tấm vải sô đen đang phủ trùm lên cảnh vật quanh mình. Người giao liên đứng chờ anh tự lúc nào, ra dấu đi về phía bờ sông. Không kịp nghĩ đến dáng đi uyển chuyển mà nhanh nhẹn của bóng người trước mặt, anh vội vã bước theo sau để khỏi bị lạc lối. Anh quờ quạng lần từng bước vào trong khoang đò chật hẹp, ngồi xuống bên chiếc túi xách người nữ giao liên vừa trao cho. Những ngón tay thuôn mịn thị thành khiến anh bất giác quay nhìn bóng người ngồi cạnh. Trong tăm tối, làn hơi thở thơm hương con gái chuyền dậy trong anh cảm giác mơn man diệu kỳ làm phập phồng cánh mũi... Hai đứa mi nằm sát xuống, không được noái chuyện nghe! Tiếng người chèo đò thì thào vọng qua vách nứa khép kín. Người sinh viên và cô gái im lìm nằm xuống bên nhau. Anh nằm trân mình không dám một mảy may động đậy. Hơi thở, làn hương, như sợi dây vô hình trói ghì cảm giác làm tê rần những đầu ngón tay bấu cứng lên mảnh ván khoang đò. Tiếng nước vỗ vào mạn đò đều đặn theo nhịp chèo ru anh vào giấc ngủ chập chờn, loáng thoáng những hình ảnh thân yêu đang trôi vào kỷ niệm. Bóng mạ tất tả mỗi buổi mai cho kịp phiên chợ. Dáng người cha cần mẫn làm thợ may ngoài phố, ngày hai buổi cong lưng đạp xe đi về qua khoảng đường lát gạch đỏ của khu xóm Bao Vinh. Bóng cầu thướt tha bầy con gái học trò, khăn san bay thắm màu chiều cho hồn ai áo lụa trông vời. Tất cả đang xa dần theo giòng nước trôi xuôi. Còn lại anh hoảng hốt lao đao trong con đò chèo ngược nước. Ý nghĩ buồn bã trào tới như nước triều dâng khiến anh muốn đưa tay vuốt mặt, mắt mở trừng nhìn vào màn đêm tăm tối... Cô gái trở mình trong giấc
ngủ say. Nàng nằm nghiêng người, bầu ngực êm mượt chạm lên cánh tay anh. Người sinh viên nằm im nghe tiếng thở mình và hơi thở cô gái hiền thơm quyện vào nhau, bềnh bồng tâm trí...
Ðò lên tới bến Tuần lúc gần nửa khuya. Họ tạm trú qua đêm ở khu bến chợ để ngày mai tiếp tục đi bộ vào khu giải phóng. Trong gian phòng trọ lù mù ánh đèn dầu, anh sinh viên nhìn sửng cô gái quên cả tiếng chào từ giã của người chèo đò.
Cô gái mỉm cười, nhìn khuôn mặt ngạc nhiên đến sửng sờ của người sinh viên.
- Anh Lê bộ á khẩu rồi hỉ ? ?Con Gái Thầy Nổ đây. Bộ lạ lắm răng!?
- Thiệt không ngờ gặp Ðông ở đâỵ..Có cả bà chằng ?Con Gái Thầy Nổ nữa.
- Mình Ðông thôi. Cái tên tê là vì người ta đặt cho mình. Dù không ưa, không đúng, người ta cũng cứ gán cho.
- Rứa mà tui lại nghe đồn là Ðông đã trưng bằng cớ rõ ràng để đính chánh rồi mà!?
Nhìn khuôn mặt không vui của cô gái, anh nói lãng sang chuyện khác. Có lẽ vì sự chung đụng suốt chuyến đò vừa qua, hai người chuyện trò thân mật như bạn cũ lâu ngày gặp nhau, cho dù người sinh viên cũng như nhiều thanh niên khác đều là khách quen của quán chè gia đình cô gái. Họ đến chẳng phải vì chè ngon trong chiếc quán vườn thơ mộng, mà để thả hồn mơ mộng, ngắm nhìn đôi mày liễu cong dài và nét đẹp rúng lòng với thân hình vệ nữ của cô học trò ngổ ngáo trong cánh áo tay trần mịn óng măng tơ.
Cái tên ?Con Gái Thầy Nổ được gán ghép cho Ðông sau lần một gả học trò trường Nguyễn Du đến quán chè hỏi có phải nàng là con gái của thầy Nô. Gã học trò và đám bạn cười phá lên khi nghe nàng ngây thơ trả lời cha mình là một ông Ðội Cảnh Sát. Vài ngày sau khi Ðông tìm hiểu ra được ý bởn cợt quá đáng của gã học trò muốn hỏi có phải hạ thân nàng bạch bản và lấy đó rêu rao làm trò đùa, nàng tức giận đến phát khóc quyết chí trả thù. Giữa lúc gã học trò đang quây quần cùng bầy bạn, cô gái bưng chè đặt lên bàn xong lấy trong túi áo ra vài sợi lông dài đen nhánh thả vào ly chè. Của ?Con Gái Thầy Nổ tặng đó! Ăn vô cho bổ bề ngang, sang bề dọc... Từ sau ngày đó, cái biệt danh quái ác đã gắn liền với cô học trò dạn miệng ngổ ngáo và gã học trò thì mất biệt tông tích, chẳng còn thấy đến quán chè ba hoa cùng bè bạn.
Cho đến một ngày... sau Tết Mậu Thân. Thành phố Huế tang thương, lữa đạn ngút trời. Gã học trò trường Nguyễn Du xuất hiện trước cửa nhà Ðông với súng ngắn, băng đỏ, và một nhóm người gươm súng nạt nộ oai phong. Gã học trò đọc án lệnh của Ủy Ban Cách Mạng Thành Phố để bắt giữ người cha là Cảnh Sát Ngụy. Sau một hồi lâu khóc xin, gã học trò đồng ý cho Ðông đi theo Cách Mạng để cha khỏi phải bị bắt. Không kịp từ giã cha mẹ gia đình, cô gái ra đi. Cuộc đời nàng sa vào lối rẽ không ngờ. Nàng thoát chết lúc băng qua Tây Lộc, theo nhóm du kích vũ trang rút về Văn Thánh, An Hoà, rồi an toàn vào khu giải phóng. Gã học trò ba hoa vô hại trong quán chè ngày nào nay là một xã đội trưởng du kích, lầm lì, tính toán. Ngày Ðông hay tin cha bị sát hại tuy nàng đã bằng lòng vô bưng theo kháng chiến là ngày đau buồn nhất trong cuộc đời nàng. Nỗi đau thương tiếc cha và sự uất giận sao quá ngây thơ để bị phỉnh gạt khiến nàng quên sợ tìm gặp gã học trò du kích, nguyền rủa không tiếc lời. Sắc đẹp của cô gái mà hắn vẫn hằng thương tưởng và tập thể những người trẻ tuổi mới vào bưng quanh nàng khiến hắn đành tìm lời dịu ngọt. Công việc hàng ngày dạy học cho trẻ em trong làng, gần gủi với tiếng cười trẻ thơ, giúp nàng nguôi ngoai phần nào nỗi nhớ gia đình, phố xá. Chuyến đi Ngọc Hồ đêm qua là công tác giao liên đầu tiên nàng được tập thể giao sau gần ba tháng quẩn quanh trong khu rừng ngán ngẩm mặt người.
Ðêm đầu sông trôi sâu vào quá canh tàn, rời rạc tiếng chó sủa sao khuya. Trong gian phòng mờ ngọn dầu hao, tiếng cô gái mềm theo giòng lệ rưng.
- Gặp anh, Ðông mừng mà tủi. Em vui, nhưng không biết mình nên buồn hay vui. Cuộc sống tai ương lao tới quá nhanh đến choáng váng, ngã khụy.
Mái tóc cô gái dài hơn dạo trước Tết, thả bóng tối vào đôi mắt sâu huyền diễm rồi buông hờ xuống bờ vai tròn trịa thanh xuân
- Ðông còn nhớ bức tranh tôi vẽ cô gái với đôi mắt màu tím biếc.
Cô gái nhìn người thanh niên mỉm cười chế diễu.
- Ông họa sĩ ni vẽ đẹp mà lối tặng tranh lại càng độc đáo hơn ai hết. Ai đời đem tranh đến tặng mà lén nhét vô giữa bụi bông cẩn rồi bỏ về. Mạ dọn vườn thấy đem vô... Vẽ vời chi mà cắc cớ rứa không biết ? Mắt to như khu chén, cổ dài như cổ cò, tay chưn thì lòng thòng... Nói thì nói rứa, mà khi em xin treo phía sau quầy thì mạ chịu liền... Mắt tím có lẽ vì khóc nhiều phải không anh?
Người họa sĩ bước khẻ đến bên cô gái. Anh cầm tay nàng. Họ im lặng nhìn nhau. Bên ngoài trời vẫn còn đêm.
3.
Bãi sông khuất vắng mấp mé bờ nước lúc triều dâng. Tàng cây si già rậm xanh mái lá la đà tỏa bóng xuống khoảng bờ cát phủ lá mục êm ái bước chân. Ðôi trai gái tình cờ tìm ra chổ hẹn hò lý tưởng vào một buổi trưa sau buổi dạy tìm chổ trốn nắng, trốn người. Lớp rơm khô trải ra ân cần mời mọc, thân xác họ chìm ngập vào nhau trong chiếc nôi êm hạnh phúc tuyệt vời. Không gian ríu lại chẳng một thoát hương, đôi vòng tay ghì xiết cơn giật động vỡ bờ cho vành môi sặc trào từ lồng ngực đam mê từng âm thanh nguyên thủy thấm lộng đến tận cùng cảm giác. Cô gái trễ tràng khuy áo, trầm mình xuống dòng sông lặng lờ con nước. Sau lớp vải mong manh, cặp đỉnh vú nhọn hoắt xuân thì lồng lộng trong bóng nước. Buổi trưa im ngát, râm ran tiếng ve luân chuyền trong rừng cây vắng gió. Trời xanh không một vẩn mây. Bóng Trường Sơn chập chờn dao động lúc cô gái khua đôi tay trần làm thành những vòng sóng dần lan trên mặt nước.
Người họa sĩ căng mắt nhìn dòng sông trước mặt. Mái tóc người yêu thon thả bồng bềnh theo điệu sóng lơi lả trên bờ vai trắng ngần. Chàng cảm thấy hồn như tan loãng theo từng giọt nước vỗ về lên dáng nàng nguyên sơ ngà ngọc. Người họa sĩ nín thở say sưa chuyền lên khung vải qua từng nhát cọ, từng tảng màu, mối tình cảm nồng say đang rần rật trong thân xác mình.
Cô gái e thẹn nhìn người thiếu nữ khỏa thân trong bức họa.
- Ông ni thiệt ! Vẽ chi mà cả vạc dể sợ rứa?
Người họa sĩ mang giá vẽ lên vai. Anh sánh bước cùng người yêu, nói nhỏ vào tai nàng.
- Em vừa có biệt danh mới... Em là ?Con Gái Thầy Ðồ?...
Tiếng cười đôi trai gái dòn tan trên con dốc nắng lúc họ đuổi nhau chạy về phiá trường học.
Cặp tình nhân đang sống những ngày chứa chan hạnh phúc. Họ chẳng ngớt cơn mộng về phía cuối diòng sông. Nơi phố xá gia đình, nơi ước mơ đậu lại cho một cuộc trở về. Họ chỉ cần có nhau, ngoài ra tất cả đều là phụ thuộc. Chẳng ngại chi cuộc sống thiếu thốn gian khổ, hai người chỉ mong làm tròn trách vụ giao phó ở trường học để được yên thân. Người họa sĩ quen dần với công tác kẻ biểu ngữ. Những khẩu hiệu thi đua, diệt Ngụy chống Mỹ cứu nước, màu vàng đỏ treo khắp cùng thôn làng giải phóng. Sau vài lần bị phê bình kiểm điểm, anh học được thói quen cất xếp suy nghĩ sáng tạo ở một góc riêng
trong trí tưởng mình để thuần thục hoàn thành những bức vẽ hiện thực theo đúng yêu cầu. Anh vẽ đi vẽ lại mặt mày những cô gái khỏe mạnh, cổ ngắn mà to, không có nét ngực, cánh tay tròn trục nắm lại giương cao trong nền trời đỏ rực chói chang. Anh vẽ với nỗi phiền hà chôn kín trong lòng.
Nhiều đêm mỗi tuần, lớp học được dọn làm nơi học tập kiểm thảo cho nhóm thanh niên sinh viên bỏ phố vào bưng. Lá cờ giải phóng xanh đỏ sao vàng may vụng về được treo phủ lên tấm bảng đen. Dưới ánh sáng leo lét của ngọn đèn thắp bằng đá khí xì tỏa mùi hôi, phần xanh bẩn bạc nhược của lá cờ xám chìm vào tấm bảng loang lổ vết phấn.
Người xã đội trưởng du kích, gã học trò đệ nhị trường Nguyễn Du, không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để hậm hực bóng gió về liên hệ tình cảm giữa người họa sĩ và cô gái hắn vẫn hằng mơ tưởng. Những lần như thế, họ chỉ im lặng nhìn nhau cười qua ánh mắt.
Cho đến một hôm, điều mà đôi tình nhân không hề dám nghĩ tới đã giáng xuống cuộc đời họ như nỗi khe khắt nhất của định mệnh. Người họa sĩ được trên ?chiếu cố? cho đi ?thực tế? ở miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa. Gã xã đội trưởng mừng rỡ ra mặt khi mang lệnh công tác đến cho anh. Hắn hí hửng ra điều biết chuyện.
- Anh Phủ trong chiến đoàn Nguyễn Ðại Thức ngày trước, chừ làm lớn ngoài Vinh, giúp anh đó. Rứa là anh đạt được nguyện vọng rồi, sướng hỉ!
Cô gái thành phố lớn nhanh qua những tai ương dồn dập xảy đến với nàng. Mất cha, mất liên lạc với gia đình, nay lại phải xa cách người yêu. Họ bám víu vào hi vọng anh chỉ đi công tác vài tháng sau đó sẽ trở về lại. Buổi chiều trước ngày đi, đôi tình nhân yêu nhau trong tổ ấm của họ lần cuối. Hai người ôm nhau, im lặng nhìn bóng Trường Sơn u uẩn đổ chìm trong dòng sông đục màu mây xám lao đao.
Người họa sĩ trao cho nàng bức họa ghi dấu thời yêu thương vô vàn của hai người. Cô gái gạt lệ, nhìn vời theo dáng người yêu rồi khóc nức nở trên đường về qua con dốc hiu hắt nắng tàn.
Niềm hi vọng được trở về với người yêu sau vài tháng đi ?thực tế? đã kéo lê thành phần đời đau thương suốt bảy năm dài. Năm đầu tiên là giai đoạn khổ sở nhất của người họa sĩ. Lòng quay quắt nhớ người yêu và nỗi thất vọng khi nhìn ra sự thật điêu tàn của miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa khiến anh quá đỗi đau lòng. Anh tìm cách nhắn tin nhưng tất cả đều không có kết quả. Biết bất cứ ai đi công tác Trị Thiên anh đều viết thư nhắn gởi rồi thấp thỏm vắn dài chờ đợi mãi một hồi âm không bao giờ đến. Bảy năm đăng đẳng chậm chạp trôi qua với công việc tẻ nhạt của một gả thợ vẽ quẩn quanh với hai màu vàng đỏ nghèo nàn. Trong giấc ngủ đến khó khăn từng đêm, hình ảnh người mẹ bồng con đứng buồn bã bên dòng sông vẫn thường hiện về khiến anh bừng tỉnh ngờ ngợ hỏi lòng rồi chong mắt đếm canh dài.
Sau tháng Tư năm bảy lăm, niềm vui của người họa sĩ chóng tàn như ngàn cánh sen tả tơi trong hồ Tịnh Tâm thiếu nước đọng bùn khô. Gia đình Ðông, sau ngày nàng vô bưng rồi người cha bị sát hại chôn tập thể ở Bãi Dâu, bà mẹ và hai đứa em nàng đã bỏ xứ vào Nam, không hề trở lại Huế. Anh theo đò lên khu làng xưa bên tận đầu nguồn sông Hương tìm hỏi dấu tích người yêu. Dân trong làng cho hay không lâu sau ngày anh phải đi ?thực tế?, vì có vấn đề với người xã đội trưởng du kích, Ðông đã bỏ vùng giải phóng đi biệt. Gã du kích thì bị lính Sài Gòn bắn chết trong một trận càn.
Những ngày sum họp tự hào cũng qua nhanh với gia đình người họa sĩ như nước nguồn chảy trào qua Bao Vinh đầm đìa lối gạch cũ mòn hưng phế. Ðứa con kháng chiến trở về thất vọng với công việc nhàm chán là cán bộ thông tin văn hoá ở một xã nghèo nằm cuối
dòng sông Hương trắng xác bơ phờ cánh đồng muối mặn. Anh chẳng lo toan được chi cho gia đình. Cha mẹ cần mẫn chắt chiu từ bao năm, vất vã gầy dựng được tiệm may ở Ngã Giữa, nay phải hàng ngày ra vào âu lo phờ phạc vì bị quy là tiểu tư sản, thuộc diện kiểm kê. Người em trai là sĩ quan quân đội miền Nam thì vất vã lao đao trong trại cải tạo mờ mịt núi xa.
Niềm đau lớn nhất của anh là ước mơ được diễn tả suy tưởng và cái nhìn của người họa sĩ qua màu sắc riêng biệt của mình thì đã như cánh đóm lẻ loi, chập chờn, mất hút đêm thâu. Ðã bao lần sau đêm thức trắng say sưa với dao cọ, người họa sĩ đành phải bất lực buồn bã nhìn tác phẩm mình trước khi xếp cất vào nơi khuất lấp. Từng hoàng hôn nhìn ráng chiều lung linh trên nóc hàng dương rũ đầu muộn phiền lối gió thấp thoáng cánh buồm từ biển về, lòng anh càng nung nấu giấc mộng ra đi.
Vùng đất tự do cuối biển Thái Bình xa đã giúp hiện thực giấc mơ của người họa sĩ. Anh được nhiều người trong xã hội phương Tây mến mộ qua nét vẽ độc đáo đầy sức sống lứa đôi. Thế nhưng càng vẽ anh càng nhớ nhiều tới người xưa nơi nguồn sông khốn đốn. Ðời sống vật chất đầy đủ và cuộc hôn nhân vội vàng chẳng giúp được chi cho cuộc sống tinh thần sa sút. Chỉ sau vài năm trong cảnh sống gia đình bế tắc, với chiếc bàn chải đánh răng trong túi áo và chai rượu trên tay, anh bỏ nhà từ giã người đàn bà đã không mang lại sự bình an trong tâm hồn anh vẫn mãi hoài tìm kiếm. Hội họa và nỗi cô đơn trong nuối tiếc dằn vặt chẳng nguôi, người họa sĩ sống đời mình như thế từng ngày, bắt đầu bằng cơn say vào buổi sáng.
Sự bồng bột oan khiên thời tuổi trẻ đã khiến anh và biết bao người cùng trang lứa ngờ vực chối bỏ hạnh phúc niềm vui đến trong tầm với. Chỉ để rồi chẳng thể nào tìm lại được trong suốt quảng đời còn lại. Cô học trò duyên dáng hồn nhiên, sống trọn vẹn cho tình yêu bên bờ nhân duyên đành đoạn. Cô gái Gio Linh héo hon bầu ngực, gồng gánh nước sông dưới bóng trăng lu. Người đàn bà trên vùng đất lưu vong, sòng phẳng trong cuộc sống và tình yêu. Bức họa đầu tay anh vẽ bằng tất cả đam mê thuở vừa yêu, hoang sâu bờ mắt tím và dáng em dìu dặt quán chiều. Bức tranh cổ động đỏ xanh, cánh tay cô gái nắm chặt giương cao hô hào nhân dân ra sức thi đua lao động. Những họa phẩm được trang trọng trưng bày tại các phòng triển lãm kiêu kỳ ở Sydney, Melbourne, Paris... Anh say bằng những chai rượu đắt tiền để rồi giữa cơn say hình ảnh quá khứ thoắt động trở về vỡ tràn bờ nuối tiếc. Người họa sĩ bồi hồi nghĩ tới hình ảnh gã trai tơ lúc hắn luống cuống giấu món quà tặng tình yêu đầy đam mê vào bụi hoa trong vườn nhà cô gái... Anh có tất cả và anh đã khờ dại bỏ đi.
Sự hối tiếc đã thôi thúc người họa sĩ về bên nguồn sông xưa. Như con thú hoang trở về hang động liếm vết thương đau, anh trở về tìm lại dấu vết yêu thương ngày cũ, mong vá víu manh áo đời đã quá tang thương.
(hết kỳ 1)
Truyện ngắn SONG AN CHÂU
Giữa tháng Mười hai. Trời chiều cuối Thu vừa tắt nắng, miền Ðông Nam Hoa Kỳ tiết trời se lạnh bước vào mùa đông. Cơn mưa cuối Thu nhẹ hạt, lất phất bám trên kính trước chiếc xe du lịch Toyota Camry LE đời 2005 của Chương chạy chầm chậm, quẹo phải vào khu thương xá cũ kỹ vắng khách vùng Forest Park, Lake City, Georgia. Chương cho xe đậu vào parking, tắt máy. Trời càng mưa nặng hột, Chương vội mở cửa xe định chạy qua mở cửa bên phải để dìu Loan bước ra, tỏ chút ?ga-lăng? với Loan ? người yêu của chàng ? nhưng Loan có tính hay bướng, ít chịu những cử chỉ như vậy. Nàng tự động mở cửa xe và lấy cái túi xách tay giả da đưa lên đầu che mưa, rồi cùng Chương đi vào nhà hàng Thanh Xuân. Hôm nay Thứ Bảy, chiều cuối tuần mà nhà hàng này vắng khách chi lạ. Không một khách hàng, bàn ghế trống trơn. Chương đẩy cửa kính cùng Loan bước vào, nhìn dáo dác chung quanh để tìm chủ quán. Chương không thấy ai, liền lên tiếng gọi:
- Hê lô! Bà chủ quán ơi!
Chương biết chủ quán này là một bà tuổi đời cũng sồn sồn rồi. Vì đôi lần Chương đến đây dự tiệc tùng hay ăn sáng cùng bạn bè trong giới văn nghệ, báo chí tại Atlanta này.
Bà chủ quán ?có da có thịt? trắng mềm, bước ra đon đả chào hỏi:
- Chào anh chị. Anh chị dùng chi?
Chương nhìn Loan đứng bên cạnh, cười cười hỏi Loan:
- Em dùng chi?
Loan trả lời cho cả hai, bà chủ quán và Chương.
- Cho em mì hoành thánh đi chị.
- Còn anh? Bà chủ quán hỏi thêm.
- Tôi cũng mì hoành thánh. Hai tô luôn! Chương nói.
Cái lối nói cụt ngủn, chân chất, rặt mùi đồng ruộng miền Tây Nam bộ này của Chương bị Loan ?chỉnh? hoài mà không bỏ. Ðâu phải Chương là dân ruộng đồng, tháng ngày đối mặt với đất đồng, cây lúa ít có thời gian đến trường dồi mài chữ nghĩa đâu (Xin lỗi bà con Nam bộ). Chương cũng đỗ đạt, tú này, tú nọ và học thêm lên một năm đại học, vì lý do hoàn cảnh gia đình, không tiếp tục học thêm được nữa. Thời chánh quyền quốc gia miền Nam, sau khi thôi học, Chương cũng xin được một việc làm khá tốt trong chánh quyền miền Nam, cũng chức này chức nọ kia mà. Hơn nữa, nghe nói Chương cũng là nhà thơ, nhà văn, nhà báo nữa. Nhiều ?nhà? quá như vậy mà bị Loan ?kê tủ đứng? vào họng hoài. Loan chê Chương ăn nói không ?ngọt ngàỏ chút nào. Chương chống chế:
- Dân Nam Kỳ thẳng ruột tượng mà em!
- Vậy chớ em dân Bắc kỳ, Trung kỳ gì?. Em cũng dân Nam kỳ Sài Gòn vậy?
Chương không chịu thua:
- Anh Nam Kỳ miền Tây sông nước, ruộng đồng. Còn em Nam kỳ Sài Gòn chữ nghĩa đầy bụng mà!
- Nói gở hoài. Thôi anh đi!
Loan ngoe ngoẩy đi lại bàn ăn ngồi chờ thức ăn nhà hàng mang đến.
Chương còn chêm thêm một câu chọc tức Loan:
- Mới yêu nhau mà thôi sao em?
Loan im lặng, nhìn Chương không nói gì.
Chương đi theo Loan, ngồi cạnh bên, dỗ ngọt Loan. Lấy tay vuốt nhẹ lưng nàng, nói nhái theo giọng ca sĩ dõm:
- Giận mà chỉgiận mà chỉem ơi!
Loan từ từ lật từng trang thực đơn ra xem để tìm thức uống và nàng hỏi Chương uống gì, Chương nói:
- Em uống gì, anh uống như thế.
Loan gọi nhà hàng đem hai ly sinh tố bơ. Phục vụ nhà hàng đem nước uống và hai tô mì hoành thánh size lớn đặt trước mặt Chương và Loan.
- Xin mời ?anh chị? dùng.
Chắc Loan còn giận Chương hay sao, quơ đũa quậy vòng vòng vào tô mì hoành thánh. Nói một mình: ?-Nhiều quá ăn sao hết?, rồi ?nhúng đũa gắp mì đưa vào miệng, không mời Chương cùng ăn.
Chương định ?phát ngôn? thêm một câu chọc Loan. Nhưng chàng sợ Loan kê tủ đứng vào họng thì?đói. Vì từ sáng đến giờ chưa ăn, chỉ uống ly cà phê sáng, nên chàng lặng lẽ đưa mắt sang Loan, rồi gắp những sợi mì dài cho vào miệng, ngước cổ nuốt như cụ Phan Thanh Giản đi xứ sang Tàu thời xửa thời xưa, ăn rau muống luộc ngước trái nhìn mặt vua Tàu. (Theo sử sách thời xưa viết rằng: ? không ai được nhìn mặt vua - chắc sợ thích khách biết mặt ám sát??, nên sứ giả Phan Thanh Giản cầm đầu sứ bộ Việt Nam đi sứ bên Tàu, muốn nhìn mặt vua Tàu ngồi trên bàn cao cùng dự tiệc, nên tìm cách nhìn mặt vua Tàu, giã vờ ăn như thế?).
Quý vị độc giả chắc ngạc nhiên thấy hai từ ?anh chị? bên trên lại đóng trong ngoặc kép, có thể không biết tại sao. Tôi xin ?thanh minh thanh ngả quý độc giả rõ.
Chuyện này nói ra, quý bà, quý cô có đọc truyện này xin bỏ qua dùm nghen. Cũng đừng bày tỏ, xỉ xỏ chi cho mệt, chuyện của người ta, không phải chuyện của các bà, các cô mà lo chi cho ốm o gầy mòn.
Chuyện như vầy, nói ra cũng không bí mật gì, xưa như chuyện lên cung trăng của Mỹ hồi niên kỷ trước. Vì ?anh chị Chương, Loan? quá cái tuổi xuân xanh xa lắc xa lơ rồi, mà Chương gia đình cũng đầy đũ kèo cột. Tại Chương ?ngán cơm thèm phở? đèo bồng muốn du lịch dã ngoại trong tình yêu cho thêm hương vị cuộc đời. Chương cũng xin đính chánh là chàng ?ngán cơm? chớ đâu có ?chán cơm?, vì chàng còn học thuộc lòng câu ?ớt nào mà ớt chẳng caỷ?. Do vậy, khi bà chủ nhà hàng nói: ? Xin mời anh chị?? Loan liếc qua Chương với đôi mắt có đuôi. Còn Chương thì hí hửng?dửng dưng?bằng lòng.
Chuyện tình của Chương và Loan cũng đã kéo dài đôi ba năm nay. Hai người quen biết nhau trong một buổi tham dự ra mắt sách của một nhà văn thân hữu. Chương và Loan, hai người cũng viết văn, làm thơ đăng báo địa phương, nên trong giới văn nghệ sĩ tổ chức hội thảo, ra mắt sách đều có mặt Chương và Loan tham dự. Sau một thời gian quen biết nhau trao đổi thơ văn, cùng gởi bài đăng ở mấy tờ báo địa phương lâu nay. Ðồng tâm, đồng tình trong văn chương, rồi tơ tưởng, tương tư, yêu nhau trong?bí mật, giữ gìn ý tứ, sợ có ngày bật mí, một trong nửa ?ai kiả biết thì có chuyện lớn, ồn ào dư luận? Có lần Loan nói với Chương: ? Em thì bây giờ như cây lìa cành, lá rơi ngoài ngõ?gió đưa về đâu cũng được?miễn sao êm ấm là được. Còn anh nên giữ mình!?.
Chương chêm vô một câu có vẻ cổ tích:
- Chắc cũng do trời định hay duyên nợ gì đó anh mới gặp và?thương yêu em!
- Chắc anh nợ em! Loan nói chắc nịch.
- Nợ em bao nhiêu?
- Ngàn năm!
- Trời đất! Mới mấy năm chiều chuộng, phục vụ em đủ thứ muốn hụt hơỉmà nói ngàn năm?chắc anh chết trước giờ sổ số lô-tô Mega hay Power mỗi tuần quá!
- Sao anh ăn nói gở như vậy!
- Anh nói chơi cho vui mà em.
- Anh ăn nói hoài như vậy, em không chịu.
- Không chịu thì thôi.
Loan im lặng?
- Thôi thì thôi!. Chương lặp lại.
- Anh nói chớ em không nói ?thế à.
Câu nói của Chương chạm tự ái của Loan. Loan nghĩ rằng Chương muốn nói ?Thôỉ là chấm dứt cuộc tình giữa hai người. Vì từ lâu Loan cũng không bằng lòng lối nói thẳng thắn, bộc trực của Chương. Cái tật của Chương hay ?cà rởn? như vậy. Cái tật liền với cái tâm, Chương cố sửa hoài mà không được. Ai không biết hay thông cảm với Chương đều buồn phiền lối nói chuyện của chàng. Kể cả Loan, người bạn thân mến với Chương mấy năm nay.
Chương nhìn đồng hồ đeo tay thấy cây kim giờ chỉ số 6, cây kim phút chỉ số 12. Mới 6:00 giờ chiều. Chương thấy trong lòng dâng lên niềm buồn tủi vô hạn. Vì lâu rồi Chương và Loan không gặp mặt nhau, chỉ nói chuyện qua phone hay email, tâm tình với nhau qua mạng ảo. Nên cuộc gặp mặt này Chương dự định tâm tình nhiều với Loan, nhiều chuyện chất chứa trong lòng từ lâu mà Chương không tiện nói với Loan qua phone hay email.
Trước ngày gặp nhau, Loan có hẹn với Chương: ?Mình có thể gặp nhau đến 8:00 giờ tối nghen anh?. Ðược giờ hẹn của Loan như vậy, Chương mở cờ trong bụng.
Ăn xong, thấy Loan không được vui, Chương cũng thấy mất hứng thú, trong lòng xốn xang, ray rứt và bất chợt quyết định:
-Thôi mình về?nghen em?
Loan nhìn Chương với ánh mắt dò hỏi:
- Sao vậy?... tùy anh.
Chương nhìn đồng hồ đeo tay một lần nữa. Thầm nói: ?Mới hơn 6 giờ, còn giờ hẹn hò nữa mà??. Nhưng Chương thấy mất vui, nếu ở lại cùng Loan thì không tâm tình gì được nữa, vì Chương thấy Loan không được vui.
Chương gọi bà chủ nhà hàng tính tiền, ra về. Loan nhìn Chương vói ánh mắt đăm chiêu và buồn, không nói ra một lời nào.
Chương thấy Loan không được vui, chàng nghĩ đến chuyện đang lưỡng lự trong đầu, không biết nên kết thúc ngay bây giờ hay không?. Ðối với Chương, chàng yêu Loan chân thành, trong trắng, không làm điều gì mang tăm tiếng cho Loan. Nhiều lần Chương muốn xa Loan, vì Loan bướng bỉnh, khư khư giữ lấy ý kiến của nàng trong việc làm, nhất là chuyện bỏ công sức viết văn, làm thơ gởi đăng báo phải có thù lao, nhuận bút đền bù xứng đáng với lao động trí óc của nàng.
Ðôi lần Chương khuyên Loan:
- Ðiều đó thì bất kỳ người chủ nhiệm báo nào cũng biết đến?từ từ đi em. Không ai cướp công sức em đâu mà sợ.
Vì Chương cũng có một ít trách nhiệm trong Ban Biên Tập, Chương làm Phụ Tá Chủ bút chọn bài cho tờ bán nguyệt báo Chương và Loan đang cộng tác, nên Chương phải nói động viên Loan như thế.
- Nghe lời anh, chắc phải chờ dài cổ?
- Em cũng có nhận được quà lai raỉvào dịp Tết hay kỷ niệm ngày thành lập báo mỗi năm, từ trước đến nay mà. Em mới cộng tác, thơ văn em gởi chưa được sự chú ý của độc giả. Từ từ anh sẽ nói với ông chủ nhiệm trả nhuận bút cho em mà.
- Em muốn nói là mỗi lần bài được đăng phải có thù lao, nhuận bút?chớ nói gì đến cả năm mới có quà cáp. Lúc em còn ở Việt Nam, mỗi lần em gởi bài cho báo nào đăng đều có tiền nhuận bút sau khi báo xuất bản.
- Hiện giờ em đang ở Mỹ, đâu phải Việt Nam. Trước sao gì cũng có tiền nhuận bút cho em mà, đừng lo.
Chương và Loan nhiều lần ?xích mích? nhau về việc này, nên đôi khi buồn lòng nhau. Ngoài chuyện văn nghệ, báo chí, Chương và Loan cũng có những chuyện ngoài đời bất đồng ý kiến, nhất là chuyện đường lối chánh trị, bàn về tình hình đất nước bây giờ. Ðôi khi Chương nhận thấy Loan không bằng lòng mỗi khi nói đến chuyện tình hình đất nước VN xã hội chủ nghĩa bây giờ, như chánh quyền hiện nay hà khắc, đàn áp, đánh đập dân oan vô tội khi người dân phản đối họ cướp đất của dân và những người tranh đấu cho nhân quyền đã bị họ bắt bớ, tù đài vô thời hạn.
Chương thường im lặng để chiều lòng nàng. Nói theo từ bình dân là Chương và Loan không hạp tánh tình nhau, dù nhỏ nhặt, dù cả hai đều biết rằng nếu yêu nhau thì ?cau chín cũng bổ làm mườỉ, nhưng Chương không muốn ngày càng dài, càng làm phiền lòng, mất cảm thông nhau, khổ đau, nếu không thông cảm chia xẻ, tha thứ cho nhau những bất đồng ý kiến.
Trong một giây phút ngắn ngủi, nhói đau trong lòng, Chương cầm tay Loan và quyết định:
- Em cho anh hôn em lần cuối và cho anh nói lời từ giã em từ hôm nay!
Chương ghì nhẹ vai Loan gần mặt chàng, hôn lên đôi má hồng của Loan thắm thiết. Hành động và lời nói bất chợt của Chương đã làm Loan ngạc nhiên. Nàng nhìn Chương và lập lại điệp khúc:
- Anh nói chớ em không nói ?gì xa anh.
Nụ hôn của chuyện tình buồn cuối đời đã mang đến cho Chương một tâm trạng ngây ngất trong đau thương. Một kỷ niệm sẽ không bao giờ phai nhòa trong tâm hồn Chương đến ngày cuối của cuộc đời này.
???
Loan đi ra khỏi cửa nhà hàng trong cơn mưa. Chương đi theo và mở cửa xe cho Loan bước vào xe. Mưa ngoài trời vẫn đổ nặng hạt. Chương cho xe ra đường, nối vào dòng xe về nhà Loan, hai người ngồi bên nhau ghế trước, im lặng. Chương dương mắt nhìn chăm chú phía trước giữ tay lái, cây quạt nước trên kính xe hoạt động nhanh liên tục. Loan nhìn những hạt mưa rơi nghĩ ngợi điều gì đó.
Từ nhà hàng về nhà Loan chỉ hơn 10 phút, Chương thấy thời gian sao dài đằng đẳng. Vì lần đầu đến nhà Loan, Chương không rành khoảng cách đường về nhà Loan, lại trời đang mưa. Chương hỏi Loan:
- Gần tới nhà chưa em?.
- Gần tới. Anh sang lane bên phải.
Chương nhìn thấy ngôi nhà của Loan bên phải, cho xe rẽ vào. Chương cho xe đậu bên hông nhà Loan, vắng vẻ.
Loan ngạc nhiên hỏi:
- Sao anh không đậu trước cửa nhà để em vào, trời còn mưa mà ?
Chương tắt máy xe, trả lời:
- Anh muốn nói chuyện với em.
- Chuyện gì, anh nói đi.
Chương cầm tay Loan và nói:
- Sau một thời gian quen biết nhau, anh cảm mến em và? yêu em.
- Biết rồi, nói mãi. Còn chuyện gì khác nữa không?
Loan mở cửa xuống xe đi vào nhà. Chương nhìn theo từng bước đi của nàng, lòng buồn khôn tả. Chương cho xe ra đường, hòa vào dòng xe đang chạy trên xa lộ để về nhà. Từ nhà Loan về nhà Chương độ 20 phút, nhưng hôm nay Chương phải mất hơn một giờ mới về đến nhà. Vì hai ba lần Chương lái sai đường phải quanh co tìm đường về nhà. Tâm thần chàng bất an?.như vừa bị một nỗi buồn khó tả xâm chiếm tâm tư chàng.
Hơn ba năm thương mến nhau, có nhiều lúc Chương và Loan bất đồng ý kiến và giận hờn nhau, không liên lạc hay nói chuyện với nhau. Nhưng nhớ nhung là sợi dây vô hình nối liền tình cảm giữa hai người. Chương cũng thường nói với Loan: ?Có thương yêu nên mới giận hờn??. Em Loan ơi! Em hãy hiểu cho anh câu nói này.
Loan ơi! Chuyện tình mình sao ngắn ngủi quá. Dù xa em, trong tim anh vẫn khắc ghi nỗi niềm đau thương không bao giờ phai nhòa suốt đời anh. Loan ơi!
Thôi đành mình phải xa nhau
Ngày nay không họp kiếp sau tương phùng.
*
Lời TG: Tôi viết truyện này từ lời kể của một người chị, đây là câu chuyện có thật vào những năm 1940 - 1945, nay tôi phóng tác thành truyện ngắn này gửi đến độc giả xa gần đọc giải trí trong lúc nhàn tản nhé.
Ba tôi một thanh niên khá đẹp trai, tướng ông to cao khỏe mạnh, theo lời các cô tôi kể lại lúc đến tuổi cặp kê ba tôi bị ông nội ép phải gá nghĩa cùng con gái nhà phú hộ nọ ở trong vùng, nhà cô gái này giàu có nhất nhì trong làng, nhưng sự việc không thành bởi ba tôi đưa ra lý lẽ khá thuyết phục khiến ông nội tôi thôi không ép buộc, đã vậy ông nội còn cho ba tôi được trọn quyền chọn con dâu cho ông, thấy cha mình thấu hiểu tình cảm không thể gượng ép nên đã nhượng bộ cho mình khiến cha tôi mừng như bắt được vàng.
Ông bà nội ngày càng lớn tuổi, ông bà muốn nhìn thấy cha tôi yên bề gia thất trước khi ông bà Nội đi "đoàn tụ" với tổ tiên, bà nội tôi đi hết chùa này miếu nọ cầu khẩn Trời Phật, cầu khẩn các chư thần phù hộ độ trì để ông bà sớm có cô dâu hiền.
Một sáng nọ ông bà nội đang ngồi uống trà trên bộ "Trường kỹ ", ba tôi dắt chiếc xe đạp từ dưới nhà sau đi lên, khi đi ngang nơi ông bà nội đang ngồi ba tôi cất tiếng thưa ông bà nội để đi xuống trường làng dạy học cho đám học trò, vừa định ngồi lên yên xe, ba tôi nghe tiếng ông nội vang lên:
-Trời còn sớm bửng hà, bây đi sớm quá (dậy) thằng Hai, dựng xe đó đi ngồi đây tía hỏi bây chút chuyện coi.
Bà nội nghe vậy nói đỡ cho ba tôi:
-Ông coi chừng (Thẳng) ( cách bà gọi ba tôi khi nói chuyện với ông nội) có chuyện gì nó mới gấp rút (dậy) chứ, mọi bữa nó đi (mần) đúng giờ lắm mà.
Ba tôi đáp lời sau câu nói của bà nội:
-Dạ hôm nay trường có chút chuyện, có mấy quan về thanh tra trường, ông Ðốc biểu mọi người tới sớm chào đón cho phải lễ, nhưng công (diệc) con làm nó ít liên quan đến thanh tra nên tới chậm chút xíu chắc cũng chẳng ăn nhằm gì đâu má.
Nói xong ba tôi dựng chiếc xe đạp dựa vào cây cột nhà bằng gỗ ở kế bên, ba tôi ngồi xuống bộ Trường kỹ phía đối diện với nội tôi để chờ nghe nội hỏi han đôi điều.
Ông Nội thấy vậy gật gật đầu ra chiều ưng ý, ông nội bắt đầu truy vấn ba tôi:
-Tía hỏi thiệt bây nè, bây từ chối con Bông con ông phú hộ làm tía phải vấn an ông ta hỗm rày, tía tưởng bây mau chóng kiếm đứa khác (dề) cho tía má (dui lòng) ai dè bây (mần thinh) luôn, bây tính để tía với má buồn cho chết hay sao bây?
Nghe ông nội nhắc lại vụ vợ con khiến ba tôi chới với, vì ba cứ tưởng nội hỏi chuyện khác, nào dè cứ nhằm đề tài này ông dí ba tôi riết khiến mỗi lần gặp mặt ông nội ba tôi "ngán càng" vô cùng, hôm nay thấy ông nội "ăn thua đủ" với đề tài này nên biết né mấy cũng không xong, ba tôi bèn thú thiệt:
-Thưa tía (dới) má, con cũng muốn tía má có dâu hiền để rồi có cháu bồng ẵm cho (dui nhà dui cửa), ác một cái con phải coi tánh tình của họ kỹ càng mới được, bằng không gặp người không hiền thục thì con sợ tía má buồn sanh bệnh.
Ông nội nói với cái giọng giận rung:
-Bây cứ (lần khân) riết rồi chừng nào hai con khỉ già này mới có cháu bồng ẵm, bây mà chưa có (dợ) tao với má bây chết chắc khó xuôi tay nhắm mắt quá.
Ba tôi xanh mặt vội đáp lời:
-Tía má tha tội cho con, con cũng gấp rút tìm kiếm đó mà, thôi để con trình với tía má luôn nè, con chỉ sợ tía má không ưng bụng thì rắc rối thêm.
Nghe ba tôi sì ra một tin "sốt dẻo" mắt ông nội sáng rực lên, ông hỏi dồn:
- Nếu bây ưng đứa nào thì cứ cho tía má biết, không cần con nhà "Trâm anh thế phiệt" đâu, miễn sao nó sống biết trên biết dưới, hiền lành lễ phép là tao với má bây chấp nhận thôi.
Thấy ông nội tôi "mở rộng cửa" ba tôi bèn chộp ngay ý này, ba cho nội biết:
-Dạ cô này là cô Ba Năng con của thầy cai Huờn ở làng bên đó tía.
Ông bà nội nghe tía tôi tiết lộ danh tánh ý trung nhân của mình và tên tuổi của thân phụ cô ta nữa, ông nội làm bộ giận dữ, ông đứng lên đập mạnh tay xuống cái bàn ông nói lớn lên:
- Chèn ơi ! Chọn con ai không chọn nhè con gái của thầy Cai Hườn hả bây, thiệt là...
Ông nội cố ý bỏ lửng câu nói khiến tía tôi như có lửa đốt trong lòng, tía bậm gan hỏi nội :
- Tía , tía thương con mà tía, cô Ba Năng được người được nết lắm đó tía, khó khăn lắm con mới (de) được cô này đó tía, hổng lẽ tía chê hả tía.
Thấy thằng con mình bị khớp bởi câu cự nự của mình, và cũng không muốn ba tôi sợ sệt thái quá, ông nội tôi " đổi tông", với gương mặt hiền lành cố hữu của mình, nội tôi nói:
- Cái thằng thiệt là chết nhát nhe bà, tui mới hù nó chút nhẽo mà nó xuôi cò rồi, ai nói với bây tía chê con Ba Năng hồi nào, hơn nữa thầy cai Hườn là tâm giao với tía lâu nay bây đâu có biết, tự nhiên tía quên phức (dụ) thầy Cai, tía mà nhớ sớm thì bây khỏi cần de cũng dính luôn .
Không những ba tôi mừng rỡ sau câu nói của ông nội, mà bà nội cũng mừng vui không kém vì bà biết chắc rằng một thời gian ngắn nữa thôi hai ông bà sẽ có cháu để bồng ẵm cho thỏa mãn mơ ước bấy lâu nay.
* * *
Ngày cưới ba má tôi rạng rỡ bên nhau, họ hàng hai bên ai cũng mừng cho mối tình đẹp đã được đơm hoa kết trái từ đây, lúc trao nhẫn cưới và đồ trang sức cho cô dâu, bà nội đeo xong cho má tôi các đồ trang sức, thay vì bà lui về nơi cạnh ông Nội tôi để lễ cưới được tiếp sang phần khác, nhưng không, bà nội tôi vẫn đúng y một chỗ bà cười mĩm một mình rồi bà lòn tay vô túi áo bên trong cái áo dài móc ra chiếc vòng cẩm thạch lên nước sáng bóng, bà lấy miếng vải nhung gói chiếc vòng để lau sạch bụi, bà nội nắm tay má tôi bà tròng chiếc vòng cẩm thạch vô rồi nội nói:
-Má tặng riêng cái vòng này cho con, con nhớ giữ gìn cẩn thận nhe, đây là di vật ngoại má để lại đó, con đeo nó cũng như má lúc nào cũng bên con lâu dài đó nhe con.
Khỏi phải nói má tôi cảm động vô cùng, bản năng tình cảm trỗi dậy má tôi ôm hôn bà nội thật thắm thiết khiến hai họ cũng bùi ngùi thương mến.
* * *
Những năm kế tiếp làng quê nội tôi cũng như khắp nơi ở miền nam chiến tranh loạn lạc, phong trào kháng chiến chống pháp rầm rộ, những cuộc bố ráp, bắt bớ khiến làng xóm bất an vô cùng. Rồi cũng trong những năm này nội tôi hai ông bà lần lượt "an vui miền cực lạc", cũng mừng một điều ông bà nội tôi còn có cái diễm phúc trước khi về bên kia thế giới, ông bà được cô con dâu (tức má tôi) sanh ra một trai đầu lòng là anh Hai tôi bây giờ, rồi thêm một cháu gái là tôi, tiếc một điều hai anh em chúng tôi chưa biết được ông bà nội bằng xương bằng thịt của mình, sau này chúng tôi được biết ông bà nội qua hai di ảnh trên bàn thờ lúc nào cũng nghi ngút khói hương.
Vùng quê nội không còn yên tĩnh nữa, sau khi họp cả gia đình lớn lại ba má tôi xin phép mấy cô để lên Sài gòn sinh sống, ba tôi để lại nhà cửa đất đai mồ mả cho mấy cô thừa hưởng, ba má tôi dắt díu hai con lên Sài gòn để bắt đầu cho những ngày sống tha hương ngay trên đất nước mình.
Ba tôi mướn một căn nhà ở vùng Cây Thị thuộc Gia Ðịnh ngày xưa, rồi ba chạy khắp nơi để xin việc làm, cuối cùng ông cũng được thu nhận vô làm công chức của Ty Kiến thiết, vì vậy ba tôi đành bỏ ngang nghề "gõ đầu trẻ" để làm một ông công chức, ban đầu ba cũng chưa toàn tâm toàn ý với công việc, do nhớ ông bà nội, nhớ nhà cửa ruộng vườn, nhưng nhớ nhất là đám học trò nhỏ quê nghèo .
Dần dà ba thích nghi với công việc mới, ba được xếp ngạch trật với đồng lương đủ sức bao giàn cho cả nhà sinh sống hàng ngày..
Má tôi mang thai con Tư là nhỏ em tôi sau này, ba mừng lắm vì ngày xưa không có hạn chế sinh đẻ, ai muốn sinh bao nhiêu con thì tùy ý, miễn sao nuôi nấng các cháu cho nên người, còn việc học hành thì không tốn xu lớn xu nhỏ nào hết, học trò thời bấy giờ chỉ đóng tiền nguyệt Liểm chia làm hai kỳ, đệ nhất và đệ nhị lục cá nguyệt với số tiền tượng trưng lấy có.
Ngày má tôi có dấu sanh (do mấy bà mụ vườn chỉ cho má tôi lúc còn dưới quê), ba tôi nhanh chóng mướn chiếc xích lô máy chở má tôi vô nhà Bảo sanh gần chợ Gò vấp, phải công nhận các cô y tá rất thân tình với sản phụ, má tôi còn đủ sức đi đứng "xông xổng" nhưng mấy cô bắt nằm lên băng ca để các chú y công khiêng vô giường nằm, các cô nại lý do sợ đi đứng nhiều ảnh hưởng đến thai nhi.
Má tôi nằm đã hai ngày trời mà chưa thấy chuyển dạ, tội nghiệp ba tôi ông nhờ bà Hai bán chè cư ngụ sát bên nhà ngó chừng giùm chúng tôi ở nhà để ba rảnh tay ứng trực canh chừng má tôi khi sanh nở. Tối nọ khi các sản phụ chìm trong giấc ngủ, bổng dưng má tôi la làng lên:
-Ừa để tui trả chỗ này lại cho bà, bà đừng xô đẩy tui nữa, ui da đau quá.
Các sản phụ đều giật mình, họ ngơ ngác nhìn về phía má tôi họ không hiểu điều gì xảy ra với má tôi, một bà nằm gần bên hỏi thăm má tôi:
-Chị Hai nè, chị nằm mơ thấy gì mà la thất thanh vậy, tui nghe chị la tui hết hồn luôn, trong lúc tui mơ màng cứ tưởng trộm cướp gì không hà.
Lúc này ba tôi đang ngủ gà ngủ gật ngoài hàng ba của dãy phòng nơi má tôi nằm, nghe vợ mình la làng nên ông nhanh chóng chạy vô, ba tôi nghe má kể cho bà kế bên:
-Chị ơi, tui nằm mơ thấy một bà Tây trắng bà này lớn con lắm, bả đòi tui trả cái giường này lại cho bả nếu không chịu bả sẽ xô tui ra ngoài. Trời phật ơi tui ớn quá chừng, vậy là phòng sanh này có ma đó chị.
Bà nọ và ba tôi nghe má tôi kể như vậy hai người đều "nổi da gà", tuy vậy ba tôi cố điềm tĩnh trấn an má tôi:
-Có nhiều khi mình nằm nghiêng bị cấn tay chân máu chạy không đều nên mới thấy ác mộng đó. Thôi ngủ tiếp đi lấy sức để còn sanh nở.
Bà nằm kế bên cũng cố ra vẻ "an nhiên tự tại", bà cũng khuyên má tôi đại ý na ná như ba tôi vừa nói với má, cố nén sợ sệt má tôi lại nằm xuống dỗ giấc ngủ vừa dang dở, chừng một tiếng đồng hồ sau má tôi lại la thất thanh, rồi cả phòng ai cũng thức giấc, ba tôi lại chạy vô nghe má tôi thuật lại giấc mơ như lần trước, má kể rằng:
-Lần này bà đầm nọ rủ rê thêm hai ba bà đầm nữa, có bà da đen thui như "Chà và ma ní", cái bà đen này hung dữ hơn mấy bà da trắng nhiều, bà ta nhéo tui đau gần chết tui năn nỉ dữ lắm nhưng bà ta cứ nhéo.
Kể xong má tôi lật ống quần cho mọi người xem bắp chuối của cặp giò bị bầm nhiều vết đỏ .Ba tôi thật sự hoảng sợ vì ông tin lời má tôi nói không sai và lúc dưới quê ba tôi cũng đã từng chứng kiến mấy người bạn cùng trang lứa bị ma giấu trong bụi tre gai quanh làng.
Má tôi dứt khoát đòi ra hàng ba nằm chung với ba tôi để trả lại cái giường cho bà đầm nọ, chứ ương ngạnh lại thì sẽ khổ sở với mấy bà đầm này vô cùng, trong lúc loay hoay dọn đồ ra ngoài má tôi vô tình quơ tay mạnh trúng ngay thanh sắt trên đầu giường khiến cái vòng cẩm thạch của nội cho bị vỡ tan làm mấy mảnh, má tôi thẩn thờ nhớ lại câu nội nhắn nhủ lúc đeo chiếc vòng cho má, giờ thì không giữ được nữa rồi, bất giác hai dòng lệ tuôn chảy trên gương mặt má khiến cho ba ái ngại vô cùng.
Sáng hôm sau ba tôi trình bày với cô mụ trong bảo sanh viện tình trạng má tôi thấy ác mộng và xin đổi qua giường khác, má tôi được toại nguyện họ cho má tôi nằm giường khác cạnh cửa sổ thoáng mát, trong khi dọn đồ vô giường mới cho má, ba tôi đi ngang nơi hai cô y tá đang trò chuyện, ba nghe họ nói lõm bõm :
-Công nhận bà đầm linh thiệt , đâu phải có mình chị này bị đâu, mấy người rồi, nghe đâu bà đầm sanh con rồi chết trên cái giường này đó.
Nghe câu chuyện này, sau khi dọn xong giường mới cho má, ba chạy u ra chợ mua nhang đèn bánh trái đem vô bảo sanh viện, chờ đêm về ba bày ra bên gốc cây da phía sau bảo sanh viện, ba tôi thì thầm khấn vái điều gì đó mà từ khi ông cúng xong má tôi chẳng còn mơ thấy nà đầm lần nào nữa.
Má xuất viện về mang theo con út Tư thật dễ thương, hai anh em tôi vui mừng vì từ nay có thêm đứa em để cùng chơi với mình cho bớt tẻ nhạt.
Từ lúc bể chiếc vòng cẩm thạch má tôi buồn vô hạn, biết vậy nên đến kỳ lương nọ ba tôi tới tiệm bán nữ trang ông mua lại cho má tôi chiếc vòng cẩm thạch khác, chiếc vòng này màu sắc cũng một chín một mười so với cái vòng của nội cho má tôi, khỏi phải nói má tôi vui mừng với món quà của ba sắm cho, má tôi tự an ủi chắc là ở trên cao kia bà nội sẽ vui lòng khi thấy má còn mang chiếc vòng ( Má tôi nghĩ chắc nội không biết được vụ "Linh miêu tráo chúa" thời nay đâu).
Từ lúc đeo chiếc vòng cẩm thạch này má tôi thay đổi tánh tình rất nhiều, má nói nhiều, ăn nhiều, đặc biệt má cứ đòi ăn gà mà phải để nguyên con mới ăn, nếu chặt ra từng miếng má chê bai nào là không ngon, hoặc thịt nhão nhoẹt. V.v..
Mỗi ngày má tôi ăn hết một con gà, vì thương vợ nên ba tôi cũng chìu chuộng mua về cho má ăn, có một điều kỳ lạ là má tôi ăn nhiều vậy đó mà thân hình ngày càng ốm lại, lâu dần ba tôi lấy làm lạ, ông bèn ra nhà thuốc tây mua thuốc bổ về cho má uống, mấy ông đốc tờ quen với ba chỉ cho loại thuốc thích hợp để ba mua về cho má uống, vẫn không có kết quả sau khi uống thuốc, ba tôi bèn đưa má vô nhà thương để khám bệnh, mấy ông đốc tờ khám kỹ lưỡng nhưng chẳng biết má tôi vướng căn bệnh gì, bí thế quá ngài ta bèn phán:
-Bà nhà của ông bị bệnh suy nhược cơ thể, cần tẩm bổ lâu ngày sẽ bình phục.
Thời gian dài trôi qua, thể trạng má tôi vẫn y như "bộ xương cách trí", cả nhà ai cũng buồn rầu vô hạn.
Thế rồi một hôm khi má tôi đang ngồi chơi bên ngạch cửa trước nhà, ngoài đường có một ông thầy tu đi khất thực, đến nhà tôi ông dừng lại đứng cúi đầu chờ bá tánh cúng dường, ba tôi đem ít trái cây cúng cho thầy, thầy ngước lên niệm Phật và cảm ơn ba tôi, bổng đôi mắt thầy sáng quắc lên thầy chỉ vào mặt má tôi thầy nói:
-Không xong rồi, gia chủ bị ma ám dữ lắm, nó nằm trong chiếc vòng bà mang trên tay đó.
Ba tôi điếng hồn khi nghe nhà sư kia nói điều này, ba liền chắp tay sá thầy một sá rồi hỏi :
- Có cách nào cứu (dợ) con được không thầy ? Xin đội ơn thầy suốt đời.
Nhà sư thong thả nói :
-A di đà Phật, thí chủ phải hủy chiếc vòng oan nghiệt kia đi bà sẽ khỏi bệnh, vì có cái vong của ai đó đang ẩn trong cái vòng này .
Ba tôi không cần suy nghĩ, ông nhanh chóng tháo cái vòng cẩm thạch đang đeo trên tay của má tôi ra, ba chọi mạnh xuống nền xi măng trước nhà khiến chiếc vòng bể tan tành, lúc này tự nhiên má tui khóc ré lên kể lể là ba tui phá căn nhà má tui đang trú ẩn khiến bà không nơi nương tựa, ba tôi điếng hồn không hiểu chyện gì xãy ra, nhưng dưới nhản quan của người đạo hạnh thầy biết rõ ràng đây là cái vong nhập vô người má tôi để nói lên hoàn cảnh hiện tại của họ, thầy bèn kêu ba tôi :
- Thí chủ yên chí đi, tui bày cho thí chủ như vầy nè....
Nhà sư đã kêu ba tôi cứu cái vong này bằng cách nhờ thợ điêu khắc làm một tượng người phụ nữ, rồi mua vài cái vòng làm bằng vàng đeo vô cổ tay bức tượng, thầy sẽ đem bức tượng về chùa của thầy cho vong linh nghe kinh kệ để sớm siêu thoát.
Ba tôi làm theo lời dặn của thầy, ba đem pho tượng gỗ vào chùa Tân Nghĩa ở Gò vấp gửi vô đây để vong kia đừng quấy phá má tôi nữa.
Nhờ sự mầu nhiệm của Phật pháp, nhờ đức cao trọng vọng của thầy trụ trì chùa Tân Nghĩa nên má tôi thật sự khỏi bệnh tà ma trong một thời gian rất ngắn...
* * *
Miền nam rồi cũng đến lúc bớt chiến tranh loạn lạc nên ba tôi vội đem hết gia đình để quy cố hương.
Má tôi qua đời , rồi ba tôi cũng "đi xa", trước lúc chia tay người thân ba tôi trăn trối:
-Ba má còn một món nợ với thầy trụ trì chùa Tân nghĩa, sau này có dịp trở lên Sài gòn các con phải tìm cho bằng được ngôi chùa này, cho dù sư thầy khuất núi đi chăng nữa các con nên cúng dường chư Phật nơi chùa này cho ba, có như vậy ba má mới yên lòng nơi chín suối.
Tôi mang tâm nguyện của cha mìnhđi hỏi khắp nơi, bạn bè, anh em quen biết chẳng ai biết được ngôi chùa Tân nghĩa này ở đâu, tôi hy vọng một ngày nào đó tìm ra tông tích ngôi cổ tự này để thực hiện tâm nguyện cuối đời của đáng sinh thành ra anh em chúng tôi.
Viết xong 00h12 ngày 21.11.2017
Kính tặng tất cả thầy cô đã có lần đứng trên bục giảng.
« Thưa thầy, thầy còn nhớ con không ? », câu nói của Carnot ngày xưa thật tự nhiên, đơn sơ, ngắn gọn, thế mà đã gợi cho thầy cô bao kỷ niệm đầu đời về nghề mình đã chọn. Thật vậy, trong quá trình lịch sử nhân loại, nghề giáo được mệnh danh bằng bao mỹ từ cao đẹp, nhà giáo dục, nhà mô phạm, nhà gõ đầu trẻ, kỹ sư tâm hồn, bán cháo phổi mà đại diện tiêu biểu nhất là « vạn thế sư biểu » đức Khổng phu Tử .
Thời Nho học thịnh hành, vai trò vị thế của thầy chỉ đứng sau vua, quân sư phụ. Câu ? nhất tự vi sư, bán tự vi sử, một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy còn nói lên lòng kính trọng tuyệt đối, nghĩa thầy trò sâu nặng biết dường nào ! Quyền uy càng lớn, bổn phận, nhiệm vụ phải tương xứng.
Xã hội đòi hỏi ở các thầy đồ xưa bao tiêu chuẩn, luật phép phải theo. Thầy phải như người mẫu, tấm gương. Tác phong đạo đức thường rập khuôn theo đạo lý kỷ cương thời đại, nhà giáo như được đặt trên một đài cao để người ta chiêm ngưỡng, bắt chước học đòi. Tuy thế thầy bấy giờ cũng không khác chi một thiếu nữ của thời ?nhất nam viết hữu, thập nữ viết vổmà tứ đức như chiếc khung son vuông đều đặn làm nổi bật bức họa ba hoa ?tam tòng?.
Tầm nhìn phóng khoáng, sâu rộng thế nào đi chăng nữa vẫn không vượt hẳn nổi mạng lưới sâu hằn phong tục tập quán, thầy như đầu toa xe lửa chỉ chạy trên đường rầy ?tiên học lễ, hậu học văn?. Do đó nhà giáo như không còn có đời sống riêng tư. một ?hình nộm?, một robot mực thước uy nghiêm, ?đỉnh cao trí tuệ?, cách biệt, xa vời. Lắm lúc vì quá gò bó đến tẩu hỏa nhập ma, các đấng ?lương sư hưng quốc?có cơ biến thành những tên gõ đầu trẻ hung thần vụ lợi mất lương tri .
Nhớ lại những hình phạt ngày xưa như đánh bằng roi mây, khẽ trên đầu mười ngón tay chụm lại, quì trên sơ mít, quì gối quay mặt vào tường cho muỗi cắn, cú đầu vả mặt...thể hiện đúng câu ?thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùỉ. Thầy trò quả không có sự cảm thông, khó thân khó tiếp xúc. Thầy như người nghệ sĩ trên sân khấu bục giảng, diễn kịch mang mặt nạ đóng tuồng, tùy vai kép mùi, kép độc, đào thương, vãn hát ra về khen chê sau lưng, mặc, đường riêng thầy đi.
Xã hội đã phong tước vị cao sang phong nhã tất nhiên thầy phải đảm trách đúng mực, chu toàn. Vô hình chung, thầy được kính như một nhà uyên bác, thông thiên địa lý, mẫu mực cương nhu, công bằng bất khuất. Ra đường, ăn mặc chỉnh tề, tác phong chững chạc quắc thước như tiên sinh đạo cốt, ăn nói đứng đắn đúng phép, lễ độ trầm tĩnh, nhiệt tâm. Ở nhà cũng phải giữ lễ, trên dưới phân minh, không được nhập nhằng xô bồ hỗn loạn.
Rồi dần dần xã hội tiến bộ, giáo dục cũng đổi thay tùy hoàn cảnh đất nước, vị thế của thầy vì thế cũng được ?kỹ nghệ hóả, ?bình thường hóảluôn. Nghề thầy như bao nhiêu ngành nghề khác, không còn phân biệt thượng vàng hạ cám hết ngành hạ bạc như xưa. Nhà giáo cũng là con người với nhân tính cá biệt không thể tách rời xã hội, phát ngôn viên, truyền kiến thức chuyên môn mình đã hấp thụ được theo chương trình pháp định.
Nhưng đây vốn có liên quan đến trí óc, tâm hồn khó lấy thước mà đo, lấy roi mà thử thách nên cần có sự thích nghi hòa hợp dung hòa lý tình. Thầy không còn chỉ tay năm ngón ra mệnh lệnh như ông vua trên ngai ??rầm??trong lớp, một đại thần với thanh bửu kiếm tiền trảm hậu tấu mà phải biết hòa mình, tìm hiểu, luôn học hỏi để thích nghi.
Dưới lăng kính của học sinh ngày nay, thầy vẫn tượng trưng cho khuynh hướng thế hệ đương thời, chiếc gương thời đại phản ảnh ước vọng tuổi trẻ, nguồn cảm hứng dồi dào cho óc mơ mộng trinh nguyên, một hiện hữu trong mọi lãnh vực mà đạo đức đồng minh với chất lượng.
Dù muốn dù không, nghề thầy vẫn khác vì đối tượng là con người còn trắng trong.Thêm vào đãy, giữa thầy và trò có sự tương quan chặt chẽ vì thầy vừa là thầy của trò mà cũng vừa học lại ở trò. Cái nhìn của học sinh quả là cửa sổ đưa thầy trở về nguồn sinh lực dồi dào muôn màu muôn sắc của thời yêu hoa phượng đỏ, đường lên Thiên thai với những tâm hồn chưa vướng bụi đời, một máy ảnh ghi hình, kính lúp phẩm bình chi li tùy hứng, một loa phóng thanh truyền tin cấp kỳ nhanh chóng, một hàng ngũ tình báo vô hình dầy đặc phong phú hồn nhiên khởi điểm của diễm phúc hay chán nản bi quan.
Không thể đòi hỏi ở học sinh niềm kính trọng một chiều như thời trước. Môi trường giáo dục càng ngày càng rộng mở, xã hội phát triển không ngừng. Tất cả đều phải chạy đua nước rút theo đà tiến bộ văn minh. Nghề thầy bắt buộc phải biến chuyển.
Trái hẳn với ngày xưa, tuổi tác giữa thầy trò, nhất là từ bậc trung học trở lên, xấp xỉ không kém nhau bao nhiêu, do đó thế hệ trẻ dễ thông cảm nhau dễ dàng. Thầy là đối tượng trò nhầm tới mà cũng là mầm hoả hoạn bất ngờ. ?Vòng tay học trò? của Nguyễn Thị Hoàng cũng gợi lên cái choáng váng ngây ngô huyền hoặc ấy. Thật ra, ngôi vị giữa thầy trò khác biệt trong trường lớp thôi. Sự ràng buộc cũng chỉ dựa trên nền tảng đạo lý luật lệ xã hội từng thời.
Ngày nay, nhan nhản bao cuộc hôn nhân hội ngộ đẹp, trong đó đường tương kính đến tình yêu không viễn vông xa vời.
Nhìn thầy trên bục giảng như kịch sĩ thủ vai chính, ảo mộng biến thầy như anh hùng chiến sĩ, thư sinh hào hoa phong lưu mã thượng, kích thích óc tò mò thơ mộng ngây thơ của tuổi vừa chớm lớn còn lấp ló ở ngưỡng cửa cuộc đời. Chỉ cái tên nghề thôi cũng đủ bảo đảm suông phần nào lý lịch của thầy. Xuất thân từ Sư phạm còn chắc ăn hơn nữa vì xã hội đã bọc cho thầy chiếc áo khoác vinh dự hiện thân cho đứng đắn đàng hoàng, có lương tâm đạo đức. Ở thầy như mặc nhiên qui tụ nhiều tính tốt mà người thường ước mơ.
Rồi theo cuộc diện đời thay trắng đổi đen, ảnh hưởng của chiến tranh, cách mạng, chế độ, sống còn, kinh tế làm điêu đứng, ngả nghiêng ?xính vính? bao nề nếp. Giáo chức trở thành kỹ sư tâm hồn chẳng hạn vì học sinh được ví như sản phẩm rập khuôn hàng loạt theo kiểu ?clônagẻ. Còn tâm hồn, dù vô hình trừu tượng, như ?con múa rốỉ tùy thuộc đảng, tôn giáo, trường phái, một đàn cừu Panurge chỉ theo một chiều hướng nghĩ suy nhất định. Vô tình hay cố ý nhích ra khỏi hàng là bị tố ngay là phản động, ?tội tổ tông? đôi lúc cũng không được giảm khinh.
Nghĩ thế mới thương dân tộc ta luôn đương đầu với bao hiểm họa xâm lăng đủ mặt, nghìn năm thuộc Tàu, gần trăm năm Pháp đô hộ, hai lần đất nước chia đôi Sông Gianh, Bến hải. Việt nam biến thành chẳng những là nơi thử bom đạn , kỹ nghệ quân sự tối tân siêu vi mà còn là tụ điểm quần hùng Cái bang các nước, đủ loại giống màu, văn hóa ngôn ngữ . Miền Bắc ảnh hưởng Liên xô, Tàu, Ðông Âu, khối Cộng sản, miền Nam, Mỹ và các nước Ðồng minh, khối tư bản.
Thêm vào đấy, ở xã hội tiêu thụ, kinh tế chi phối, ảnh hưởng ngoài học đường như truyền hình truyền thanh, phim ảnh, nhạc, các trào lưu văn hóa ngoại, ? bao cái lăng nhăng nó khuấy tả?, bao nguyên nhân lũng đọan nghề thầy.
Lại có chế độ không khoan nhượng lên án gắt gao nhà giáo thuần chuyên môn phi chính trị, buộc vào tội thuộc chế độ cũ, ít ?hồng hơn chuyên?, phải được học tập, tẩy não, cải tạo.
Nghĩ cũng tội cho nghề, do đó hậu quả trớ trêu của nghề dạy, đào tạo học sinh ?dốt hay nói chữ?, nhặp nhằng cái nọ xọ cái kia tất nhiên gậy đập lưng ông là thường.
Trên bục giảng, thầy chỉ truyền lại kiến thức thuần chuyên môn. Xã hội cần phân định rõ ràng, đừng ?đánh lận con đen?. Bằng không bao chuyện tréo cẳng ngỗng, đi ngược dòng tiến bộ trở về thời kỳ đồ đá, dày xéo phong tục lịch sử gây lắm tội lỗi đau thương. Ở nước ta chẳng hạn, sau 75, bao thầy cô đã bị học trò ruột của mình tố cáo, một số tên trường bị xóa bỏ thay vào tên? anh hùng chiến sĩ? thời đại.
Lạ thật đất nước đã thống nhất, lịch sử phải được bảo tồn, phát huy. Thế mà nhà giáo dục bác học lỗi lạc nổi tiếng trong ngoài nước Pétrus Ký bị quên ơn, dẹp tượng, bôi danh. ?Không gì quí hơn độc lập tự dỏ câu nói gối đầu giường nầy không ngăn cản nổi tên đường Tự do thay bằng Ðồng khởi.
Ở Kampuchea, Pol pot Khmer Ðỏ xô đuổi bắt bớ hành hình những người có học không tiếc thương. Gần đây nhất, chế độ Taliban của Afghanistan cấm đoán phụ nữ đi học trở thành bóng mờ nô lệ. Nền giáo dục Âu Mỹ cũng bị chóa lòa bằng hào quang tự do. Kỷ luật dễ dãi, lỏng lẻo, nghề dạy bắt đầu xuống dốc thảm thương vì cơn lốc kinh tế rõ nét nhất.
Hiện nay, nhan nhản những tấm bi kịch trò hành hung, bắn giết, trả thù, vì nguyên nhân không đâu, bạn học và ngay cả thầy không một chút rung tay hối hận. Ðau thương hơn, thảm cảnh dụ dỗ, gạt gẫm học sinh vị thành niên là tiếng chuông cảnh tỉnh, báo động cho tất cả những ai còn hời hợt, coi thường, ít quan tâm đến nền giáo dục nước nhà. Phụ huynh thường giao phó con em mình cho nhà trường, quan niệm một cách mặc nhiên qui trách nhiệm tất cả cho thầy, vừa truyền kiến thức vừa rèn luyện đạo đức tác phong, ?thầy nào trò nấỷ.
Có khi vẫn biết gia đình đóng vai trò cốt yếu nhưng ngày nay, lắm lúc vì bận rộn với sinh kế, không còn có thì giờ lo cho con cái. Do đó, để thầm chuộc lỗi hoặc bù đắp tình thương, sẵn sàng chìu ý không đắn đo, suy nghĩ. ?Ðược đằng chân lân đằng đầủ, con em cứ leo thang vòi vĩnh, vì đòi là được tại sao không đưa tối hậu thư? Tệ hại hơn nghe lời con mà phê phán oạnh hẹ, hạch xách, hăm dọa, gây hấn và có khi đến thượng cẳng hạ tay mới đáng buồn.
Tất nhiên là thầy không phải hoàn hảo nhưng nếu xã hội không có kỷ cương nề nếp, luật phép, hậu quả tai hại không phải chỉ cho một thế hệ đương thời mà cả bao thế hệ tương lai.
Thật ra, không có nghề nào là dễ, nhưng phải công nhận là nghề dạy học ngày nay đòi hỏi nhiều thử thách, công sức, nghĩ suy, sáng tạo và nghệ thuật. Bản tính tự nhiên của con người là thích học hỏi, suy luận nhưng ít thích người khác. Học lóm dễ hơn vì ?học thầy không tầy học bạn?. Câu ?không thầy đố mầy làm nên? vẫn còn giá trị cho mọi thời điểm nhưng chữ thầy cần được xác định đúng nghĩa.
Nghề dạy học phải kết hợp việc dạy và học như ông bà ta thường dạy, ??học ăn, học nói, học gói, học mở?, ý muốn nói là gì cũng có gì cho ta học. Dạy không phải là?thầy đờỉ, một tự điển sống, một nhà rao giảng giáo điều,...Chấm dứt vị thế các thầy đồ thời Nho học biến học sinh như con vẹt thuộc nằm lòng Tam tự kinh, thiên trời, địa đất, tử mất tồn còn, tử con tôn cháu, lục sáu tam bạ..Thầy giáo, dù hòan cảnh nào cũng thường ?giấy rách vẫn giữ lấy lề?, lắm lúc, chẳng đặng đừng, cũng phải ?tháo giầỷ, ?giáo vác?, ?dáo dác? chạy gạo đổ mồ hôi như câu ?nhất sĩ nhì nông hết gạo chạy rong, nhất nông nhì sĩ?.
Hơn thế nữa, nghề dạy học ngày càng khúc chiết hơn vì khó còn lý tưởng để theo, mẫu người làm chuẩn, mục đích để nhầm tới. Họa chăng là chọn nghề vì thời vận rủi may, sống còn, kinh tế, lý lịch. Giá trị của nghề cũng thay đổi tùy thời điểm, phong tục tập quán, chế độ, chính trị. Ðây không phải là do luật đào thải hay thừa trừ mà đó là sự vận chuyển tự nhiên của xã hội. Vậy thầy giáo cũng không cần màng tước hiệu ?chiến sĩ văn hóả vì khi ?thời oanh liệt nay còn đâủ đành ??ôm uất hận đến ngàn thâủ?như bao nhà chính trị, anh hùng không gặp vận.
Tuy nhiên, dù sao nghề dạy học vẫn có nhiều thuận lợi, ưu điểm hơn bao ngành nghề khác vì luôn được tiếp cận với tuổi trẻ. Phổi của thầy như được hạnh thông bằng những tia nhìn quang tuyến nồng ấm mang sinh lực mới, tim thầy trò đầy nhiệt huyết cùng nhịp đập cảm thông, tâm hồn thầy thường xuyên trẻ hóa nhờ tiềm năng dồi dào của các em, thầy có cảm giác như được bảo vệ chở che, bênh vực an ủi, hiểu nghe hai chiều.
Như con ong thợ chuyên đắp xây tổ tươm mật ngọt, căn bản giáo dục là góp phần vào việc đào tạo hữu hiệu con người biết sống có tình người, không là công cụ, sản phẩm, tín đồ của riêng ai. Giáo dục cần có mục đích đứng đắn không thể
??Thân em như chiếc lụa đào,
Phất phơ trước gió biết vào tay aỉ?.
Vì lợi ích sống còn và hội nhập trào lưu tiến hóa chung của đất nước, để ngăn chận cơ nguy xuống dốc của thế hệ trẻ mỗi thời, vì đây cũng là trách nhiệm của mọi công dân không phân biệt khuynh hướng chính trị, tôn giáo, đảng phái, các nhà lãnh đạo cần ý thức tầm quan trọng cấp bách rõ hơn, định hướng giáo dục cho đúng, thích nghi, nếu không ?trăm năm trồng ngườỉ cũng trở thành phí phạm hoài công, đáng trách và còn mang tội với núi sông.
"Ai Về Sông Tương" là tác phẩm được Nhạc Sĩ Thông Ðạt (tức Văn Giảng, 1924-2013) viết vào năm 1949 với cung La trưởng, âm điệu uyển chuyển tha thướt với lời ca lãng mạn, trữ tình, là một bản nhạc nổi danh, ?gối đầu giường? và nằm lòng của thanh thiếu niên nam nữ trong những thập niên 50 - 60.
Sông Tương trong nhạc phẩm này chắc không phải là Trường Giang tức Sông Tương thuộc tỉnh Hồ Nam bên Trung Hoa, mà có thể chỉ là một ẩn dụ cho một dòng sông tương tư nào đó mà nhạc sĩ Thông Ðạt nghĩ là nơi hẹn hò của những lứa đôi yêu nhau rồi xa nhau.
Trong truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du có câu thơ:
?Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia"
thì Sông Tương đây mới chính là Trường Giang bên Trung Hoa.
Kính mời quý vị thưởng thức nhạc phẩm này qua giọng hát Soprano của ca sĩ Ánh Tuyết.
Phần hình ảnh minh họa 4K của Trần Ngọc.
Xin bấm LINK sau đây để xem hình ảnh rõ nét:
https://www.youtube.com/watch?v=Gb-jdYVxYqA&t=4s
Cám ơn quý vị
Trần Ngọc.
???????????????????????????.
Sơ lược về NS Thông Ðạt (Văn Giảng)
Theo Wikipedia:
Văn Giảng (1924 - 2013) là một nhạc sĩ Việt Nam có những sáng tác thuộc nhiều thể loại. Ông là tác giả của nhiều bản hùng ca. Khi viết tình ca, ký tên Thông Ðạt, ông đã viết bản Ai về sông Tương nổi tiếng. Ngoài ra Văn Giảng còn những bút danh khác như Nguyên Thông, Nguyên Ðàm & Tiến Tài, Anh Phương & Nguyên Diệu. Bút danh Thông Ðạt chính là tên ghép pháp danh Nguyên Thông của ông và Tâm Ðạt của người vợ.
Sau Tết Mậu Thân 1968, nhạc sĩ Văn Giảng vào Sài Gòn lập nghiệp từ năm 1969. Ở đó, Văn Giảng dạy nhạc tại trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn, tham gia sinh hoạt ca nhạc ở đài phát thanh, đài truyền hình và soạn hòa âm cho hãng đĩa Asia, Sóng Nhạc.
Cũng trong thời gian này, với bút danh Thông Ðạt, ông viết tiếp một số tình khúc khác. như: Áo Cưới Màu Hoa, Bàng Hoàng, Ðôi Mắt Huyền, Hoa Cài Mái Tóc, Luyến Quệ.v.v.v.
Và đồng thời, Văn Giảng được Bộ Văn hóa Giáo dục đề cử làm Trưởng phòng Học vụ Nha Mỹ thuật, đảm trách học vấn của các trường Âm nhạc Sài Gòn, Huế và các trường Cao đẳng Mỹ thuật.
Năm 1970, ông được huy chương vàng Giải Văn học Nghệ thuật Quốc gia của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa với tác phẩm Ngũ tấu khúc (Quintet for Flute and Strings)..
Sau 1975, nhạc sĩ Văn Giảng ở lại Việt Nam cho đến năm 1981 ông vượt biên đến đảo Natuna, Nam Dương. Ở đây, trong 6 tháng, Văn Giảng sáng tác một số bài nói lên thân phận của những người lưu vong mà bài đầu tiên là "Natuna người tình đầu" cùng một số 70 ca khúc khác.
Ngày 20 tháng 5 1982, Văn Giảng định cư tại Úc, ở đây, ông tiếp tục con đường âm nhạc, soạn và xuất bản nhiều sách dạy nhạc viết bằng Việt ngữ và Anh ngữ, sách nhạc lý như cách dùng hợp âm, tự học tây ban cầm, hòa âm, sáng tác, học hát, học đàn... Văn Giảng còn sáng tác thêm nhiều tình khúc được tập hợp thành một số tập, như 12 tình khúc (Tập I), 12 Tình khúc (Tập II).
Văn Giảng mất ngày 9/5/2013 ở thành phố Footscray, tiểu bang Victoria, nước Úc. Sau khi rải cốt tro ông trên biển vào ngày 17/5, vợ ông lên cơn đau tim và mất sau khi đưa vào bệnh viện chiều hôm đó.
Truyện ngắn
Vừa bước vào nhà, cô bé đã nhảy chân thấp, chân cao,vừa hát:
-Tình tính tinh. . .là lá la. . .
Mũi cô hếch lên hít lấy hít để mùi thức ăn từ bếp xông lên:
-Chị Khanh ơi! Hôm nay chị cho ăn món gì mà thơm thế?
Cô thò đầu nhìn qua cửa bếp, mẹ cô kêu lên:
-Ði học về rồi thì xuống phụ mẹ dọn cơm.
Cô bé thông báo:
-Bao tử con phát tín hiệu S.ỌS rồi mẹ ơi!
-Thì lẹ lên.
Thoắt cái cô bé đã ngồi vào bàn và thoắt cái cô buông đũa đứng lên.
Chị Khanh phàn nàn:
-Diễm lớn rồi mà không ý tứ, duyên dáng chi cả, ngày xưa học đệ tam là lớp mười của Diễm bây giờ, chị đã chững chạc, nghiêm chỉnh lắm rồi, có người còn bị gả chồng nữa là khác.
Cô bé đưa một ngón tay lên mũi dọa chị:
-Chị đầu độc em nhé, em mà yểu điệu thục nữ là có ?vướng đề? liền. Lúc đó chị lại mắng em . . .ranh!
Mẹ cô bé thêm vào:
-Chị Khanh bằng Diễm, đi học một buổi, về nhà phụ bán hàng với mẹ một buổi, không được như con, suốt ngày cứ ca hát rồi lại xem phim . . .
-Chị Khanh giỏi vậy sao đến giờ vẫn?phải sống độc thân không . . .vui tính vậy mẹ ? (cô bé có ý ngạo chị?ế chồng!)
Chị Khanh lườm cô:
-Nói giống điên quá!
-Hí. . . hí. . .để em kể chuyện điên cho nghe, có hai ông điên suốt ngày đánh nhau, một ông bảo mình là Gia Cát Lượng, một ông bảo mình là Chu Du, bỗng hôm sau hai ông ôm nhau tâm sự rù rì, hỏi ra mới biết, tên Chu Du đã nhớ ra mình là . . ..Tiểu Kiều!
Chị Khanh nghiêm mặt không cười:
-Chị cấm Diễm không được xem phim nữa đấy, bị nhiễm toàn chuyện tào lao, lo học cho giỏi đi, suốt ngày cứ ca hát rồi lại xem phim. Hồi xưa. . .
-Thưa mẹ con đi ngủ . . .trưa!
Cô bé ù chạy vì sợ nghe tiếp chuyện ?hồi xưả của chị Khanh. Cô bé đã nghe nhiều đến thuộc lòng. Chị Khanh đã gần năm mươi tuổi, cách đây. . .non ba mươi năm, chị cũng là một nữ sinh duyên dáng ?tài sắc vẹn toàn? không hiểu sao mãi đến giờ chị vẫn cứ độc thân, không chịu lập gia đình (không chịu hoặc không có ai ghé mắt đến?...cũng vậy!) trong khi các anh chị kế của cô bé đã lần lượt lên xe hoa, yên bề gia thất.
Chị suốt ngày tất bật ngoài chợ, cô bé nghĩ chị Khanh của cô cũng còn xinh đẹp vậy mà . . .ế nhỉ?
Sáng bửng mắt cô bé mới chịu xuống giường, vừa tìm dép cô vừa cất giọng:
-Thắp sáng vào tôi một tháng giêng, khẽ khàng từng bước thật ngoan hiền, xuân đem tất cả niềm vui lại . . la lá la là la lá la...
Bài hát bị quên giữa chừng cô bèn chuyển sang bài khác:
-Xe đạp ơi đã qua rồi còn đâu, mối tình xanh thoáng như một giấc mơ xe đạp ơi! (cô ngập ngừng) xe đạp ơi gì nhỉ . . .
Tiếng chị Khanh?can thiệp:
-Trời ơi! Hát kiểu đó nhạc sĩ mà nghe được chắc họ sẽ ngã ra bất tỉnh quá, lo đi học dùm cho.
-Lại chị . . .(cô bé lẩm bẩm) một bà già khó tính, cầu trời ai rước chị đi cho rồi.
Cô bé hấp tấp thay áo dài, hấp tấp uống nhanh ly sữa chị Khanh đã pha sẵn rồi bốc một nắm xôi để phần sẵn cho vào miệng và hấp tấp dắt xe ra cửa đạp thẳng.
Ðời sống của cô bé không có gì đáng than phiền, cô là em gái út, cô nghĩ mình được cưng chìu cũng là lẽ tự nhiên.
Chị Khanh lo cho cô không thiếu thứ gì, cô chỉ bực một nỗi là chị hay than phiền cô bé ham chơi hơn ham học. Ôi chao! Cái điệp khúc ấy trỗi lên là cô ớn đến tận cổ nên chui tọt vào giường nghe . . .nhạc rồi ngủ quên luôn.
Một đêm, cô bé thức giấc vào giữa khuya và nghe được câu chuyện:
-Các em bây giờ đều đã tự lo được, con nên lập gia đình để sau này có nơi nương tựa. Lỡ có nhắm mắt mẹ mới yên lòng.
Tiếng chị Khanh sụt sịt :
-Khi xưa còn trẻ không tính chuyện ấy thì thôi, giờ con đã lớn tuổi rồi, mẹ thì vẫn bệnh luôn như thế, con làm sao bỏ đi cho được. Con chẳng còn mong gì cho con cả, chỉ cần Diễm học hành chăm chỉ, nên người thì con mới thấy xong trách nhiệm của mình. . .
Câu chuyện của hai người bắt đầu từ bao giờ cô không rõ, chỉ nghe chừng ấy thì mọi thắc mắc từ lâu của cô đã được sáng tỏ. Hy sinh! Vâng, không có từ nào thích hợp trong trường hợp của chị Khanh, chị đã hy sinh tuổi trẻ của chị cho các em của mình mà cô bé đã vô tình không biết.
Bây giờ thì cô hiểu, chị Khanh đã để trôi qua bao nhiêu hình ảnh đẹp đã trở thành kỷ niệm trong đời chị, trong những câu chuyện thường bắt đầu bằng hai chữ ?ngày xưả đầy nuối tiếc (mà cô bé đã từng rất?sợ nghe), khi ấy hẳn trong lòng chị có những hoài niệm mà không hề biết chia sẻ cùng ai, nên chị đành cam chịu, ôm giữ niềm riêng đó một mình, chị buộc phải chọn cuộc sống đơn độc để lo cho gia đình vì đối với chị đã không có cách nào khác.
Một cái gì đó thương cảm, xót xa dấy lên trong lòng cô bé và nước mắt chảy dài ra khóe. Cô nằm im úp mặt vào gối, lòng nhủ thầm ?Rồi em sẽ cố gắng học giỏi, làm theo những mong muốn của chị, để chị không phải bận tâm vì em nữa, chị Khanh ơi!?
Sáng bước xuống giường cô bé vội vã dọn chăn màn, loay hoay quét nhà và trước khi ra cửa cô bé dặn chị:
-Trưa đi học về em sẽ ghé hàng lấy thức ăn, chị khỏi phải về. . .
Chị Khanh nhướng mắt nhìn cô bé, vẻ ngạc nhiên:
-Nhưng Diễm không biết nấu thức ăn?
-Em sẽ nhờ mẹ dạy cho, chị sẽ thấy em giỏỉbất ngờ, em đi nhảlà . . .lá . . ..la..
Cô bé đi khuất rồi, chị Khanh còn tần ngần nhìn theo, chị không hiểu Diễm nói thật hay đùa. Tự nhiên cô bé lạ hẳn. Chị không hiểu Diễm như trước đây cô bé không hề hiểu chị, tư tưởng hai người đang chơi trò . . .cút bắt!
Biển hòa tấu điệu buồn trên cát
Sóng chập chùng ca hát đêm ngày
Giáng Sinh quay trở về đây
Sàigòn kỷ niệm quắt quay nhớ hoài
*
Mây và gió xỉn say oằn oại
Giữ tuổi thơ ở lại bên trời
Chân ngoan học bước nôi đời
Ngỡ ngàng phiêu bạt hai trời xa xăm
*
Theo ngọn sóng nằm ngâm trong nước
Muối trùng dương thắm ướt mặn mòi
Nắng khô hong tóc hóa vôi
Giật mình tỉnh giấc, ngủ ngồi cùng trăng
Không gian vừa mở cửa cho tháng mười hai và ung dung đặt viên gạch cuối trên khắp nẻo đường thơm hương bánh, trái, gà tâỷ Giáng Sinh rộn ràng quay về đầu ngõ và tưng bừng thắp sáng đèn hoa lung linh chớp tắt. Những dây đèn đủ kiểu, muôn sắc màu được bày giăng tứ tung như cố ra sức trang điểm vẻ mặt kiêu sa lộng lẫy cho góc phố nói riêng và cũng như toàn đất nước Hoa Kỳ nói chung.
Không gian nhộn nhịp hẳn lên cả ngày lẫn đêm vì mọi sinh hoạt trở nên sống động và có lẽ không buồn ngủ vì dòng chảy rộn ràng cứ xum xoe tất bật bán mua. Mọi nhu cầu cần thiết cho buổi họp mặt gia đình được tổ chức trang trọng để chào đón người thân từ phương xa tề tựu, chung nhau xum họp sau một năm bận bịu công việc mưu sinh.
Không khí hoan ca tưng bừng gợi trong tôi ký ức của năm tháng xa xưa, thuở nào đó, tôi còn vất va vất vưởng ở trời Sàigòn. Tôi đang mơ màng thả hồn bơi tìm hình ảnh ngày Giáng Sinh sau cùng ở cái nôi Sàigòn. Tôi đã thấy gì ngoài đường lộ Trần Quốc Toản ngay trước mặt tiền nhà. Vì kể từ sau đêm Giáng Sinh tháng mười hai năm ấy, tôi được anh chị chủ ghe báo tin, sẵn sàng chuẩn bị tinh thần cho chuyến vượt biển, rời xa quê mẹ bất thình lình khi cơ hội đến.
Tôi mãi nhớ khi dòng đời gãy khúc, thời gian vài năm đầu giao thời, xã hội vừa chuyển đổi chế độ như bé con non nớt còn tập tễnh học cách đi sao cho có hiệu quả mạnh bạo. Ðây đồng nghĩa với cái ngây ngơ mới mẻ nên người từ các miền Bắc xa xôi chưa kịp lùa tràn vào chiếm đóng Sàigòn như hiện tại. Những con đường thân yêu vẫn còn rộng thênh thang nên tuổi trẻ từng tốp, từng nhóm ăn vận quần áo bảnh bao, cùng rủ nhau đi dạo bằng hai chân chứ không bằng xe hai bánh khi ánh chiều tà buông màu tím hoàng hôn. Vạt nắng hiền hòa trải dài sợi yêu thương trên những con đường chánh dẫn chân người đến nhà thờ Huyện Sĩ.
Nhiều câu chuyện huyên thiên của các cô cậu son trẻ vừa đi tản bộ vừa vui cười nói râm ran trên tuyến đường qui tụ vây quanh thành phố Sàigòn. Hình ảnh dễ thương đó đã in khắc trong ký ức nhỏ nhoi của tôi mãi cho đến hôm nay. Và có lẽ hình ảnh ngọt ngào này sẽ không bao giờ phai nhạt trong tièm thức cho dù đã mấy mươi năm ngăn cách đại dương.
Làm sao tôi quên được nhà thờ Ðức Bà tràn ngập ánh đèn hoa muôn màu, đông nghẹt chân người trong khung cảnh ấm áp đón mời con chiên ngoan đạo đi xem lễ; Cũng như người ngoại đạo nhưng luôn tin tưởng Ðức Chúa ngự trị trên cao.
Cạnh bên bưu điện Sàigòn, các khu đất trống trưng bày nhiều gian hàng bán lồng đèn ngôi sao, hang đá bằng giấy nằm dọc theo hai bên lề đường. Ði đâu cũng thấy đèn hoa lunh linh sáng tỏa. Chuông giáo đường thỉnh thoảng đổ liên hồi như thúc dục con chiên mau mau vào dự lễ đúng giờ.
Sàigòn năm tháng vừa mới đổi tên cũng còn chút chút dễ thương trong cái nhìn bé nhỏ của tôi khi mà hương thơm Sàigòn yêu thương nũng nịu phảng phất, còn len lén ẩn chứa nét thanh tao của xã hội trước bảy lăm. Cũng những tâm hồn đơn thuần của con người miền Nam chân chất còn lắng đọng trong tâm tư, trong trái tim những ai đã được sanh ra và đã sống trong cái nôi Sàigòn, nơi mình hé mắt, cất tiếng khóc oe oe chào đời.
Kính Chúc Quí Ðộc Giả Mùa Lễ Hội An Vui.
Bạch Liên
Dec 2017
****
Khung Cửa
Bên khung cửa ánh đèn chớp tắt
Gió vi vu réo rắt đèn màu
Ngả đường xanh đỏ vàng nâu
Giáo đường thánh lễ kinh cầu vang vang
*
Bên khung cửa bình an mơ thấy
Sàigòn xưa mưa nắng hiền hòa
Sân trường áo trắng thêu hoa
Hồn nhiên gió quyện hai tà gấm tơ
*
Bên khung cửa lá thơ thẩn bám
Trên vách tường lạnh xám đêm đông
Khuya qua sương muối bềnh bồng
Thều thào xin trọ cho lòng ấm êm
*
Ngày mai sáng nắng thèm lơi lả
Ðuổi sương đi lã chã lệ rơi
Mặt trời khe khẽ mỉm cười
Giáng Sinh chuông đổ gọi mời con chiên
Tháng mười hai gió bấc tất bật quay về. Nơi nào chàng Gió rong chơi thì rét run con phố. Vạn vật hình như co rúm lại khi mà mùa đông bắt đầu tung hoành, phô trương cái sức mạnh siêu nhiên của mình. Mùa đông lúc nào cũng muốn mọi người chú ý khi nghe đến tên Ðông thì phải biết thân biết phận, lo trùm chăn để ngủ cho an giấc, khoác áo dầy vào khi ra đường; Và nhất là nâng niu chăm sóc, giữ ấm hai buồng phổi thật cẩn thận.
Cây cỏ, thực vật nghe đến Ðông thì biết mình sẽ bị đóng băng sương muối đến cứng ngắt, teo héo vì làm sao có chăn mền nào rộng mênh mông để được phủ kín khắp không gian bao la. Những chiếc lá vàng kiêu sa ươm màu thu vàng úa thầm biết đây là giờ phút mình phải thui thủi từ giã, chào xa vương cung quyến rũ rực rỡ hôm nào. Cành nhánh thay nhau buông bỏ cuống úa gầy gò mỗi khi anh chàng Gió hung hăng thổi từng cơn phách lối.
Gió đông lạnh tê cóng xuyên thấu suốt lớp da mỏng manh nên ngoài đường lộ, bóng dáng người lang thang tản bộ lại càng hiếm hoi. Sức khỏe là điều tất yếu càng phải được giữ gìn kỹ lưỡng. Như chúng ta đều thấu hiểu, chỉ cần một làn gió buốt tim kiêu ngạo quất mạnh vào thân gầy mảnh mai của bất kỳ ai thì cái tai hại sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến cơ thể; Nhất là với trẻ nít, những người lớn tuổi, càng thêm thận trong giữ ấm cho toàn thân.
Nếu ai muốn biết khí hậu bên ngoài bão bùng, mưa gió ầm ì ra sao, chỉ cần đứng bên khung cửa sổ, nhè nhẹ vén màn sáo thì mọi diễn biến sẽ phơi bày rõ ràng ra trước mắt mình.
Chàng Gió lào xào bay
Lá vàng buồn quắt quay
Lìa cành trong nuối tiếc
Không uống rượu mà say
*
Khăn choàng vắt bờ vai
Không quên mang bao tay
Nón len đầu đội kín
Ðôi chân ấm vớ dầy
Kính chúc quí độc giả Giáng Sinh AN VUI
Dec 2017
Kịch vui một màn:
... Dùng lửa thử vàng
Dùng vàng để thử đàn bà
Dùng đàn bà thử đàn ông....
( Ngụ ngôn Pháp )
( Mời các bạn tập kịch tết diễn chơỉ)
*Các vai
- Ông Năm.
- Bà Năm.
- Hành.( Con gái ông bà Năm )
- Kiệu. ( Chồng chưa cưới của Hành )
- Ông Tư. ( Cha của Kiệu, suôi gia ông bà Năm.)
*Cảnh: Nhà ông bà Năm ở San Diego, Cali, Hoa Kỳ.
Lớp 1
( Ông Năm đang đọc báo thì có điện thoại reọ)
Ông Năm:
- Hello ! Hành đó hả ? Ba đây!...Hả ? Mầy hỏi ai ? Thằng Kiệu phải hông ? Thì mầy cứ nói đại tên nó đị..Cứ anh ấỵ..anh ấỵ..Tao biết thằng nào. (cười) - Nó chưa đến...Ừ...Ừ...Ba biểu nó đợi. Hỏng lẽ tao đuổi nó về...Cha mầy. Ðồ con gái hự..(Cười. Cúp máy .)
Bà Năm: ( vừa về đến )
- Con Hành về rồi hả ông ?
Ông Năm:
- Chưa.
Bà Năm:
- Thẳng đến chưa?
Ông Năm:
- Thẳng nào vậy?
Bà Năm:
- Thì thằng rể mình chớ thẳng nàỏ
Ông Năm:
- Hứ. Mẹ con giống y chang ... Thằng rể, thằng Kiệu gì đó thì nói rõ ra đi. Mẹ hỏi thẳng. Con gọi anh ấy, chẳng biết đường đâu mà rờ. Ngôn ngữ của mẹ con bà mấy người Việt quên gốc tiếng mình mà nghe chắc khùng luôn...
Bà Năm:
- Xí. Cổ lổ xỉ. Mỗi chút mõi lỗi phải. Bây giờ tôi hỏi ông nè. Thằng Kiệu đến Chưa ? Ừa, trả lời dùm cho tôi nhờ cái đi .
Ông Năm:
- Tui ngồi có mình ên đây bà hỏng thấy hả ? Không lẻ thằng rể qúi bà đến tôi đem giấu nó trong phòng con gái bà ?
Bà Năm: (lườm ông Năm)
- Hứ! Vô duyên... Không lẻ nó dám ngồi tréo ngoải táng dóc với ông già vợ nó ở phòng khách? Xí! Người gì mà gúc mắc đầy mình... Nè, nó đến nhớ biểu nó chở tui đi công việc chút nhen... Nhớ đà. Tui vào thay đồ. Nó tới là đi liền đó...
Ông Năm:
-Vừa thôi bà. Cho nó đến đây là để hai đứa nhỏ gặp gở tâm tình với nhau. Ðâu phải qua đây làm rể như hồi tôi cưới bà vậy đâu. Qua thế kỷ 21 rồi đó. Bà liệu...
Bà Năm:
- Xí. Thế kỷ 25 cũng vẫn phải mần rể thôi. Muốn ăn phải lăn vào bếp - Muốn chết phải lết vô hòm. Ông chìu nó, thì tôi bắt con gái tôi lại, gả cho thằng khác. Ưà...
Ông Năm: (cười)
- Ngon ha! Sợ bà bắt lại không được cái rồi ôm gói theo nó để giữ cháu ngoại mới khổ chớ...
Bà Năm: (lườm ông năm)
- Còn lâu à ông Năm !
Ông Năm: (thở dài, cười)
- Nhớ thuở tôi đi mần rể mà ớn da gà. Hồi đó sao tôi khờ qúa. Phải như bây giờ tôi cho bà ở góa luôn...
Bà Năm:
- Hứ! Làm như hồi đó cha mẹ tôi đày xách ông dữ lắm vậy...
Ông Năm:
- Hõng đày đọa mấỵ..Từ vùng 1 chiến thuật xin được có 7 ngày phép về mần rể? vậy mà bà nhạc chỉ cho gặp được mặt cô vợ chưa cưới có hai lần? Bây giờ bà giống y chang
bà ngoại con Hành hồi đó... Vừa thấy mặt là bả đặt hàng liền. Ạ..Má nhờ thằng Năm mầy đắp bờ bao quanh hồ cá vồ dùm, kẻo nước rong cá đi hết. ẢMá nhờ anh Năm nó láy ghe máy đưa má đi chợ Mỹ Tho thăm cô bác bên đó cho bà con biết mặt cháu rể.Ạ..Thằng Năm mầy phụ giúp má...Trời thần đãt lỡ ơi ! Công việc của thằng mần rể luôn 24 trên 24, lúc nào cũng có. Sao hồi nhỏ tui ngu vậy hỏng biết? Hèn nào ông bà xưa nói đúng thiệt. Chừng ta sáng mắt ra thì chuyện đã rồi... Ứ hự !
Bà Năm:(cười )
- Hèn chi, bây giờ ông thông cảm thằng rể tương lai ông qúa há ?...
Ông Năm:
- Chớ sao. Thương người như thể thương thân mà bà. (lên giọng) Mà thôi, tôi cho bà biết: Chiều nay thằng Kiệu không thể chở bà đi được.Có người đi với nó rồi. Bà nghe rõ chưa?
Bà Năm:
- Giỡn hoài. Ông nói chơi hay nói thiệt vậy ?
Ông Năm:
- Tôi nói như đinh đóng cột. Một cộng một là hai... ừa.
Bà Năm:(nhăn nhó)
- Kỳ ha ! Ông định bắt nó đi đâu vậy ?
Ông Năm:
- Không phải tui bắt. Bà muốn đi đâu tui chở cho đi.
Bà Năm:(khoát tay)
-Thôi thôị..Ði với ông bực mình lắm.Vừa đến nơi chưa chi đã hối về. Dễ giận! Tại sao không để thằng Kiệu chở tui đi?
Ông Năm:
- Tại vì nó bận đi với người khác... Thế thôi !
Bà Năm:
- Tui nghĩ, ngoài ông ra, không ai quan trọng hơn bà gìà vợ nó hết... Nhưng ông cũng nên biết, ở cái xứ nầy, mẹ quan trọng hơn cha... Ừa...
Ông Năm: (cười khà)
- Biết rồi. Tụi đàn ông tui thuộc hạng chót mà... Nhưng mà bà chỉ thuộc loại quan trọng với tui thôi. Chưa chắc thằng rể bà coi bà quan trọng như tui đâu... Hỏng tin, bà cứ chống mắt lên coi lời tui có đúng hong. Ừa.
Lớp 2
( Hành, con gái ông bà Năm vừa lái xe về đến )
Hành: - Ảnh đến chưa ba ?
Ông Năm:
- Chưa. (với bà Năm) - Ðó, bà hỏi con gái bà coi thằng rể bà chiều nay đi với ai ?
Bà Năm: - Ủa! Mày với thẳng đi đâu vậy Hành?
Hành: -Dạ, tụi con đi chơi vòng vòng đây thôi má .
Bà Năm:
- Chèn đét ơi! Mầy giữ ý giữ tứ một chút nhen Hành. Con gái con đứa gì...Chồng chưa cưới mà để nó xách đi vòng vòng ... Bà con thiên hạ trông vào coi sao được con?
Ông Năm: (chọc tức bà Năm)
- Mầy để nó đi với bả coi được hơn à Hành ...
Bà Năm:
- Lãng quá ông ơi! (với Hành) - Nè, thằng Kiệu tới, bảo má nhờ nó đưa đi công việc một chút nhen Hành.
Hành:
- Thôi! Ba đưa má dùm đị..Tụi con đi có việc cần hơn mà.
Bà Năm: (lớn tiếng)
- Việc gì ?
Ông Năm: - Việc của nó, kệ nó. Bà hạch hỏi chi vậy. Kỳ hong!
Hành:
- Thank you Ba!
Bà Năm:
- Ừa. Cám ơn ổng đị..Rồi biểu ổng lo luôn cái đám cưới cho mầy với thằng Kiệu. Tao không nhúng tay vào nữa đâu.
Ông Năm: (cười)
- Khỏi lo con. Ba chỉ cần gọi một cú điện thoại lại nhà hàng Sài Gòn là xong từ Y đến Z. Khỏi thở dài than vắn, nhó nhó nhăn nhăn như bà mẹ phúc hậu của con đâu...
Bà Năm: (sắc giận)
- Ðược rồi! Ông cứ việc bắc cầu cho nó leo đỉ Từ nay mụ già nầy chấm dứt bổn phận với cái nhà nầy rồi đó nhen! Hứ, thứ đồ con bất hiếụ..(bực tức vào nhà trong )
Hành:
Mom mỉ Ðừng giận mà...(chạy theo bà Năm).
Ông Năm: (nhìn theo cười)
- Ðúng là tánh đàn bà. Mỗi chút mỗi giận lẫy, nung nẩy, ngoe nguẩy... Thấy mà ghét!
Lớp 3
(Ông Tư, ba của Kiệu đến )
Ông Tư:(bước vào)
- Dạ, chào anh Suôi !
Ông Năm:
- Ô ! Anh Suôi mới tới... Mời anh vào. Ngồi đi anh suôi...
Ông Tư ( bước tới sofa ngồi )
- Xin lỗỉ Tôi vừa nghe chị Suôi nhắc tên thằng Kiệu. Chắc là chị Suôi giận thằng nhỏ tui?
Ông Năm : (cười vui vẽ)
- Có gì đâu anh suôi ơi... Tánh đàn bà mà.
ÔNG TƯ:
- Dạ, cám ơn anh chị đã niệm tình tha thứ. Nhưng tui tự xét thấy con hư là tại mẹ anh à. Nhưng mà mũi dại thì lái phải chịu đòn. Tụi đại diện cho bà nhà tui đến xin lỗi anh chị. Nhất là chị Suôỉ
Ông Năm ( lại cười )
- Lỗi phải gì anh Suôi ơi! Ở cái xứ sở tự do nầy thì vậy đó. Phái nữ họ ưa lên cơn bất tử lắm. Cánh đàn ông mình cứ phớt tỉnh Ăng-lê mà sống, thét mét mấy bả mãi có ngày mình đứt dây thần kinh luôn anh ơi...
Ông Tư:
?Ối giời, Anh Suôi nói đùa chi... Chị Suôi tui giận hoài thì chết? Ðầu đuôi cũng tại thằng nhỏ tui mà...
Ông Năm:
- Thằng Kiệu có đến đây đâu. Nó đâu có lỗi gì. Tại nhà tôi, bả lên cơn đó anh ơi!
Ông Tư:
- Ðó... đó... Tại nó chưa đến mà làm chị Suôi giận đó. Má nó cũng tức mình la nó bên đó anh suôi ơi...
Ông Năm:
- Ủa, thằng rể tôi làm điều gì không phải khiến chị Suôi tức giận bên đó vậy anh Suôi ?
Ông Tư:
- Anh nghĩ coi, đi làm về, má nó biểu qua bên nầy coi anh chị có gì cần giúp không. Luôn dịp chở vợ chồng tui qua thăm anh chị một thể. Nó biểụ..A... Tía chở Má đi trước đi. Con còn bận ghé bồ con chút... Con đến sau. Má nó rầy, sắp cưới vợ rồi đó nghe hong. Chỉnh chạc lại chút nghen con. Nó cười hề hề . . . còn chọc quê bả nữa chớ. Nó nóị..Con đâu phải con gái đời xưa mà má dạy tứ đức tam tùng? Rồi nó xách xe nó vọt ... Bả nổi tam bành bả chưỡi nát cha nó hết chơn? Ứ hự! Mình tui nghe ráo trọi anh Suôi. Con cái thời bây giờ... Bực ghê anh Suôi ơi !
Ông Năm: ( cười , nói vui )
- Thì anh vừa bảo : Mủi dại, lái phải chịu đòn mà? Cho nên con bị mẹ chưỡi thì cha phải nghe chứ sao... Lổ lã gì đâu anh ơi. ( hai suôi gia cùng cười ) Uống trà đi anh suôi.
Ông Tư:
- Cám ơn anh .( giọng thật thà) Anh Suôi biết hông, chưỡi đã rồi cái bả ?lịnh? cho tui đi kiếm nó mới khổ chứ. Tui định đâu có thèm đi kiếm anh. Nhưng thấy bả khóc tức tưỡi cũng tội nghiệp? nên bỏ cũng không đành!
Ông Năm: ( cười )
- Tôi biết mà. Lệnh các bà, toàn bằng nước mắt. Ðúng hong?
Ông Tư:
- Ðúng qúa đi chứ ! Tôi lấy chìa khóa xe là bả ngưng khóc như đàn đứt dây vậy anh suôi. Tôi lái xe đi lanh quanh chứ có biết bồ bịch gì của nó đâu mà kiếm. Chán qúa, tui tạt qua đây coi nó có đến anh chị chưa...
Hành: (Ðứng trong nghe rõ câu chuyện, bực tức bước ra)
- Thưa Tía mới qua !
Ông Tư:
- Ừ, Tía đi kiếm thằng Kiệu. Nhân thể ghé thăm anh chị suôi đây con .
Hành: ( giọng hờn trách )
- Tía kiếm chi cho mệt. Ðể ảnh tự do tâm tình với bồ cũ ảnh, có gì đâu tía...
Ông Tư:
- Sao được con. Tía đã từng dạy nó. Có vợ có chồng thì phải nhất mực thủy chung. Nó không nghe tía sẽ đánh đòn? Chớ saọ( với ông Năm ) Tử bất giáo Phụ chi họa sao anh suôi. Ðúng hong ?
Hành:
- Cám ơn Tía! Ba con cũng thường dạy: Con gái phải biết đề phòng mấy tên ?sở khanh? trước, để khỏi rước họa vào thân. Cũng nhân đây con xin phép ba má con và Tía, cho con trả lại lễ vật đính hôn với anh Kiệu, để ảnh tặng người khác. Xem như con và ảnh từ nay không có quan hệ gì hết?
Ông Tư: ( quýnh lên )
- Ậỷ ậỷ Con đừng làm vậy. Dù gì cũng còn Tía Má, Anh Chị Suôi đây. Còn người lớn nửa chớ. Áo mặc sao qua khỏi đầu được con.
Ông Năm: (cười)
- Thời nầy nó mặc vestone không anh ơi. Hơn nữa thằng Kiệu là con trai, dễ gì anh đặt đâu nó chịu ngồi đó.
Ông Tư: (qủa quyết)
- Anh chị Suôi và con dâu tui cứ yên tâm. Nhà tui là gia đình khuôn giáo lễ nghi. Tui nhất định bắt nó phải từ bỏ cái tật bồ bịt nhố nhăn? Ðến trầu rượu xin lỗii anh chị và con dâu tui. Phụ xử tử phải vong chớ... Thiệt mà.
Ông Năm:
- Biểu nó Sorry được rồi anh suôi ơi. Bên nầy khó kiếm trầu cau lắm... (cười khà khà )
LỚP 4
KIỆU: ( Bước vào )
- Thưa ba. (thấy ông Tư) -Ủa, Tía đến rồi à ? Xin lỗi. Chắc Má và em Hành chờ con hơi lâu. Con kẹt, đi thay nhớt chiếc xe.
Hành: ( giọng hờn dỗi )
- Anh cứ tự nhiên lo cho người khác đi. Em và má... đâu có quan trọng gì đâủ
KIỆU: ( cười )
- Anh xin lỗi thiệt mà...Công việc Má và Em là ưu tiên 1 thôi... Ðâu có việc nào hơn được đâu...
Ông Tư: ( nổi giận )
- Dẹp cái trò lừa đảo của mầy đi. Xe mầy tao thay nhớt hôm qua. Anh chị Suôi và con Hành giận mầy là đáng lắm. Kẻ có lỗi biết hối còn châm chế được, chớ còn láo toét như mầy thì không thể bao dung đâụ. Hồi chiều giờ mầy chui chỗ nào? Con nhỏ nào bồ bịt mầy. Nói thật đi. Tao sẽ rót rượu xin anh chị suôi tha thứ cho mầy. Xin vợ mầy nó bỏ qua cho mầy. Ấm ớ chạy tội thì đừng có trách? Con Hành nó trả sính lễ cưới hỏi lại cho mầy đây nè...
KIỆU: (chưng hửng hỏi Hành)
- Gì kỳ vậy Em ?
ÔngTư: ( lớn tiếng )
- Hổng có kỳ kèo gì hết. Sự thật lúc nào cũng là sự thật. Tao hỏi mầy. Có đứa con gái nào đường hườn mà dám ưng cái thằng đàn ông bồ bịt ba-lăng-nhăng như mầy hông?
KIỆU:(Gảy đầu . . .Nhăn mặt)
- Con bồ bịt hồi nào mà tía ?chụp mũ? vậy ? Con thưa Tía ra toà về tội vu khống vô bằng cớ cho coi...
Ông Tư:
- Trời đãt! Cái thằng nghịch tử bất hiếu nầy lại kiếm chuyện chạy tội nửa. (tằng hắng ) - Nè, tao nhắc mầy biết, ở đây là xứ tự do. Ðừng bắt chước cái mửng con tố cha . Em tố anh đó hỏng tốt lành gì đâu nghen con...
KIỆU: (bệu bạo)
- Ai biểu ...Mỗi lần bị má la . . . cái Tía kiếm chuyện chụp mủ qua con chi...
Ông Tư:
- Tao nói có sách mách có chứng nhen mậy. Tao hỏi mầy. Lúc đi làm về, má mầy biểu qua liền bên anh chị suôi. Mầy nói còn bận lại đằng bồ mầy chút đã. Rồi mầy bỏ mầy vọt. Ðúng hong? Thằng con hư thân mất nết?
KIỆU: ( qủa quyết )
- Thưa Tía không đúng? Con thấy đây là một kiểu vu cáo , đâm sau lưng chiến sĩ... Làm cả nhà hiễu lầm bậy bạ hết chơn...ức thiệt ...(mếu máo )
Ông Tư: ( nóng đỏ mặt )
- Lầm hả... Cây lên đầu mầy bây giờ nè. Cho mầy gọi 911 trước đó...( Ðứng lên ) Mầy theo bồ theo gái chứng cớ rõ ràng mà còn dám bảo tao chụp mủ vu oan cho mầy hả?
Ông Năm:
- Xin Anh Suôi bớt giận cho phép con nó nói. ( Ông Tư ngồi lại vào sofa ) - Kiệu ?
KIỆU:
- Dạ !
Ông Năm :
- Tạm thời ba tin con bị rầy oan. Vậy con nói cho Tía con và ba biết : Chiều đến giờ con đi đâu? Tại sao phải giấu giếm việc đi thăm cô bồ cô bạn gì đó... làm cho Tía con giận ... Chi vậy? Con trai hể dám làm thì dám chịu chớ!
KIỆU:
- Thưa ba con có đi thăm cô bồ nào đâu... Con nói đi lại THẰNG BỒ ...Tía con nghe chưa chính xác là qui chụp, chia cắt, gieo rắc, chia rẽ tụi con rồi...
Ông Năm: - À! Té ra là vậy. Thằng bồ mà hiễu là con bồ. Thiếu chính xác một cách ác liệt. Thiệt, chết người như chơi ha... ( cười khà...)
Ông Tư: ( vẫn chưa nguôi giận)
- Anh Suôi đừng có tin nó.( với Kiệu ) - Xe mầy tao thay xăng nhớt đầy đủ hôm qua rồi. Nay mầy còn đặt điều qua mặt mọi người... Vậy mà còn dám nói tao nghe không chính xác là sao ?!
KIỆU:
- Tía ơi, nghe không chính xác là nghe không rõ. Và tai nạn của sự nghe không rõ là ít cho nạn nhân nói và chịu khó nghe hết đầu đuôi lời giải bày...
Ông Năm: ( cười to )
- Ðược rồi. Tía con và Ba sẽ nghe con giải bày. Nói đi. Tại sao phải nói dối là đi thay nhớt xe?
KIỆU:
- Cám ơn Ba và Tía. Chuyện thế nầy: Hồi 8 giờ sáng nay, em Hành con điện thoại qua sở bảo chiều về ghé qua để hai đứa đi Chợ Xuân Việt Nam. Tãt nhiên là con theo ý ... vợ con rồi...
Ông Năm:
- Tốt! Ở xứ tự do nầy mà biết qúi đàn bà như vậy là tốt. Phải hong anh suôi ? Rồi sao nửa?
KIỆU:
- Chiều gần đến giờ tan cày, má ở đây lại gọi qua. Má bảo về ghé chở má đi xem giang hàng ở Hội chợ Xuân một chút... Khổ tới tắp cho con rồi đó ...
ÔNG TƯ: ( với ông Năm )
- Ðó anh thấy hông. Tuổi trẻ bây giờ mỗi cái mỗi kêu khổ...Tui hồi nhỏ mần rễ cực tối mặt mà có dám than thở tiếng nào đâu...
ÔNG NĂM: ( cười )
- Thì tôi cũng như anh. Vì mình sợ mất vợ không dám than thôi. Tụi nhỏ ngày nay nó hay hơn mình. Cực khổ sướng vui gì nó cũng nói ra... (với Kiệu ) Ba thấy con than khổ là đúng... Má con bả có làm rể đâu mà bả cảm thông được cái khổ đó...
KIỆU: (Nhìn vào thấy bà Năm . . .nói lính quýnh )
- Dạ đâu có ba. Con chở Má và Em Hành con đi xem Hội chợ Xuân , vui chứ có cực nhọc chi đâu...
ÔNG TƯ:
- Vậy là tại tao với má mầy sai mầy chở qua thăm anh chị suôi nên mầy than khổ chắc?
KIỆU:
- Ðâu có Tía !( đọc nhanh như trả bài ) Công Cha như núi Thái Sơn. Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng yêu mẹ kính cha . Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con? mà. Tía đã từng dạy như vậy. Con đâu có quên... (gảy đầu) -Tại sao người già ưa bắt bẻ qúa vậy hỏng biết...Tía định chụp mũ bất hiếu cho con nửa rồi... Khổ ghê !
Ông Năm:
- Vậy chớ con than trách ai? Nói rõ cho tía con nghe.
KIỆU:
-Dạ! Con than chuyện thằng bồ ....Không, thằng bạn thân của con. Nó cũng gọi tới. Nó bảo: Việc gì cũng gác lại. Ðêm nay phải giành đi với nó. Ba mươi năm mới có một lần. Tụi nó đồng lòng cử con làm Trưởng ban điều hợp gian hàng tuổi trẻ hải ngoại tại Hội chợ Xuân năm nay nửa chứ. Ba và Tía nghĩ coi con có khổ chưả!
ÔNG TƯ:
-Chị Suôi đây và vợ mầy với lại thằng bạn. Ai quan trọng, cần lo, mầy không biết à? Sao mà tối dạ qúa vậy mậy?
ÔNG NĂM: ( cưới khà khà )
- Chắc là vợ quan trọng nhất phải không con ?
KIỆU:
- Dạ đúng!...(giật mình ) Dạ đâu có. Nếu hổng có má con thì đâu có vợ con ... Con phải có hiếu với má con trước chớ!
Ông Tư:
- Dữ ác hôn. Mới thấy nó giống tui được một chút đó... Nhưng tao hỏi mầy nè. Nếu chỉ có má mầy bển với chị suôi mà hỏng có tao và anh suôi tao... Có tụi bây hong ? Ừa...
Ông Năm : ( lại cười )
- Thôi cũng được anh suôi. Nó có hiếu với mấy bả cánh đàn ông mình ăn ké cũng an ủi chút đĩnh rồi ... Sợ nó học đòi... rồi quên tuốt luốt mới đáng trách chớ... ( với Kiệu ) Bây giờ con tính sao?
KIỆU:
- Dạ, con có cách ổn thõa rồi....
Ông Năm: (cười )
- Cách nào? Làm bộ đi thăm bồ thăm bạn. Ði đổ nhớt, đổ xăng... Trì hoãn. hết thời gian, huề cả làng , đúng hong ?
KIỆU:
- Dạ con đâu dám mánh mung vậy bả Con mượn chiếc xe 8 chỗ ngồi của thằng bồ con. Ðịnh tới đây chở ba má, em Hành rồi quay về bển rước Tía má con đi dự lễ khai mạc Hội Chợ Mùa Xuân luôn... Không dè chiếc xe nó khô nhớt phải đi thay nên trể giờ... Bạn con nó ngồi ngoài xe kìa kìa... ( thở ra ) . Hiễu lầm hết chơn.....
.Ông Năm:
- Sự hiễu lầm suýt nguy hiễm hạ..Con Hành đâu rồi ?
Hành: ( nhìn Kiệu cười bẽng lẽn )
- Dạ, Con đây nè ba .
Ông Năm:
- Sao! ( nhìn con gái cười ) Bây giờ trả nhẩn cưới lại cho thằng Kiệu phải hong?
Hành: (Nhìn Kiệu cười khúc khích )
- Ba hỏi kỳ qúa hà .
Ông Năm: ( mắng yêu con gái )
- Chưa chi đã ghen bóng ghen gió... (với Ông Tư) Nó giống y chang má nó anh suôi...
Bà Năm: ( từ nhà trong bước ra )
- Phải rồi. Hứ! Cha con như khuông đúc mà đổ thừa nó giống tui...
Ông Năm: ( cười )
-Thì tôi chỉ nói nó giống dòng máu ?Hoạn Thử của bà thôi mà...
Ông Tư:
-Ôi, anh Suôi nói vui thôi. Xin chị Suôi đừng giận.
Bà Năm: (trừng mắt với ông Năm)
- Không nể mặt anh Suôi tui không có nhịn ông đâu à nhen . . .
Ông Năm:
- Thì lâu lâu bà cũng cho tôi lên ...một chút chứ. Mà thôi mẹ con bà làm ơn sửa soạn nhanh đi. Thằng Kiệu còn về bển đón chị suôi nữa đó.
Hành:
- Dạ. Con và má sửa soạn xong hết rồi ba. ( với Kiệu ) Em Sorry. Hiễu lầm. Ðừng giận nha...
KIỆU :
- Ngu sao giận... ( cùng cười )
Ông NĂM:
- Nè Kiệu ?
KIỆU: - Dạ ! Thưa Ba ?
ÔNG NĂM :
- Năm nay Hội chợ có nhiều gian hàng không con?
KIỆU:
- Dạ nhiều lắm ba . Cửa hàng Tuổi trẻ tụi con năm nay, được phụ huynh giúp vốn gây qủi cứu trợ có khoản mười mấy lượng vàng . Chúng con sẽ tổ chức sổ số. Vừa vui xuân vừa thêm lợi nhuận gởi về cứu trợ quê nhà bị thiên tai bão lụt nữa ba.
Hành: ( hăng hái )
- Mỗi vé trúng độc đắc 2 lượng vàng đó ba...
Bà Năm:
- Chu choa... mẹt ơi! Mỗi vé trúng 2 lượng. Chà, biết đâu, 6 người mình mua 6 vé đều trúng hết. Vị chi là 12 lượng. . . . Thấy chưa... Tui nói hay hỏng bằng hên mà...
Ông Năm: (cười ) - Mẹ con bà ...Thiệt là...
Bà Năm : (Trừng ông Năm)
- Thiệt chứ tôi nói giả hả ?
Ông Năm:
- Nghe tới vàng là cặp mắt sáng rỡ . Ai mà xổ cho bà một hơi 6 lô độc đắc? Hèn nào người đời chẳng bảo: Dùng lửa thử vàng. Dùng vàng thử đàn bà. Ðúng qúa mà...
Hành: ( ôm cổ ông năm liếng thoắng )
- Người ta cũng nói ?Dùng đàn bà thử đàn ông? nữa phải hôn ba...? ( nhìn bà Năm cười ranh mãnh )
Ông Năm: ( mắng yêu con gái)
- Cha mầy!
( Tất cả cười vang. Tiếng nhạc Xuân vang lên rộn rã... Màn đóng nhanh .)
Mùa Xuân xa xứ thứ 18/201...
Nguyệt San Giao Muà xin cám ơn những thân hữu đã dóng góp bài vở cho Nguyệt San Giao Muà số 188 . Một số bài khác sẽ được đăng dần vào số tớị Mong mỏi sẽ nhận được những sáng tác của các bạn bốn phương để cho Nguyệt San Giao Muà thêm phần hương sắc trong tương laị
2) Ðể rút ra danh sách của NSGM (unsubscribe),
xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
3. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về:
GiaoMua@hotmail.com
4. Mọi bài vở, đóng góp, xin gửi về:
GiaoMua@hotmail.com
Nguyệt San Giao Muà
Homepage: http://www.GiaoMuạcom
Thể lệ gửi bài cho Nguyệt San Giao Muà:
Mong bạn gửi Bài cho GM theo cách này là tốt nhất :
1. Dùng mẫu chữ Vietnet (VIQR) hay Unicode
2. Viết Hoa chữ đầu của bài và bút hiệụ Ví dụ: Giọt Mưa Trên Lácủa NS Phạm Duy
3. Gửi bài ngay trong email (không kèm file), để cho BBT khỏi mất công download xuống để đọc
4. Gửi tất cả các bài trong 1 tháng 1 lần trong1 email, nếu tiện.
5. Bài vở xin gửi đến trước ngày 25 mỗi tháng
6. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com
Cám ơn bạn rất nhiều, vì nhân sự có hạn, BBT không thể ngồi đánh máy lại từng đề bài hay bút hiệụ
P.O . Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA
Trang Nhà