Số 200
Ngày 1 tháng 12 năm 2018
Nguyệt San Giao Mùa
P.O.Box
378
Merrifield, Virginia
22116
USA
I . Thơ _______________________________________________________________________
1. Giáng Sinh Ngọt Ngào | ______ Nguyễn Thị Thanh Dương. | ||||||||||||||||||||||
2. Giáng-Sinh Buồn | ______ChinhNguyen/H.N.T. | ||||||||||||||||||||||
3. Nhớ Huế Năm Xưa | ______Sông Cửu | ||||||||||||||||||||||
4. Xẽ Dọc Trường Sơn | ______ Thy Lan Thảo | ||||||||||||||||||||||
5. Chỉ Là Phù Hư Cả | ______ Hàn Thiên Lương | ||||||||||||||||||||||
6. Chia Buồn | ______Vân Hà | ||||||||||||||||||||||
7. Buồn Tàn Thu | ______ Song An Châu | ||||||||||||||||||||||
8. Cho Riêng Em 7 | ______ Ngũ Lang | ||||||||||||||||||||||
9. Ðã Thôi Quét Lá |
______ Chương Hà 10. Tặng Em Nhé - Một Bó Hoa Mầu Trắng |
|
______ Quách Như Nguyệt
| 11. Quay Về |
|
______ Bạch Liên | 12. Chuyện Non Nước & Chuyện Chúng Mình
|
|
______ Tình Hoài Hương | 13. Thu Về Nghe Lá Rụng
|
|
______ Lê Miên Khương |
14. Mưa Thu | |
______ Nguyên Khang
|
15. Vấn Vương Tình Nhi Nữ |
|
______ Phạm Ngọc Thái
|
| 16. Còn Nhớ Tiếng Mẹ Ru | ______ Nguyên Khang | 17. Từ Huế Một Dòng Thơ | ______ Trần Ðan Hà |
II . Văn _______________________________________________________________________
1. Mùa Giáng Sinh Năm 17 tuổi ___________ Nguyễn Thị Thanh Dương | 2. Huấn Luyện Phi Hành (truyện dài nhiều kỳ) ___________ Tình Hoài Hương |
3. Mùa Trăm Hoa Cũ Và Những Chàng Nhân Văn Giai Phẩm ___________ Phan thái Yên |
4. Mùa Lễ Hội ___________ Bạch Liên |
5. Một Số Phong Tục Tập Quán Của Người Việt ___________ Phạm hy Sơn |
6. Phạm Ngọc Thái Và Một Kiệt Tác Thơ Tình ___________ Nguyễn Thị Xuân |
7. Hạnh Phúc ..Rơi / 01-10-2018 ___________ Á Nghi |
8. Quê Hương Tôi Ðã Mất ___________ Song An Châu |
9. Khung Trời Tuổi Thọ ___________ Trần Thành Mỹ |
10. Từ Tokyo Ðến Osaka ___________ Nguyễn Quý Ðại |
III . Trả Lời Bạn Ðọc__________________________________________________
1. Nhắn Tin/Trả Lời Bạn Ðọc _______ Ban Biên Tập |
I . Thơ __________________________________________________
II . Văn___________________________________________________________
Nguyễn Thị Thanh Dương
Chị Bông gõ cửa nhà 904B, tiếng con chó con sủa lên ầm ĩ hình như là mừng rỡ hơn là đe dọa và tiếng chân của nó cào cào vào cửa như muốn giục gĩa chủ nhà mở cửa nhanh cho khách vào.
Chị Bông cảm nghĩ thế vì chị đã quen thuộc với cảnh này, lần nào chị đến con chó con cũng mừng rỡ hơn người chủ của nó.
Chắc Katie đang lò dò với cái walker để ra mở cửa, cuối cùng thì cánh cửa mở ra cùng với mùi khói thuốc lá được dịp thoát ra ngoài và nhất là con chó con nhảy cỡn lên quấn qúyt chân chị Bông, người đã giúp nó được hít thở chút khí trời thiên nhiên và mang vào căn nhà chút âm thanh vui vẻ vì hầu như hàng ngày nó cũng sống trong nhà với sự im ắng hay ngược lại là tiếng cãi nhau ầm ĩ kịch liệt của vợ chồng chủ nhà..
- Chào Katie, tôi đến để thu tiền thuê nhà.
Tháng nào cũng thế, vợ chồng Katie đã hẹn chị Bông cứ sau mồng 5 là đến lấy tiền. Mặc dù đã biết trước thế mà bây giờ Katie mới lò dò rút tờ check từ trong tuí xách, cái túi xách luôn ở gần chị ta và hí hoáy di chuyển đến ngồi xuống chiếc ghế gần bàn để ký tên.
Chị Bông chờ đợi và liếc mắt ngắm nhìn tấm hình khá to treo bên phải chiếc ti vi, ngay lối cửa vào phòng trong.
Ðó là hình một thiếu nữ xinh đẹp tươi vui đang đứng cạnh cổng rào một trang trại, ven hai bên cổng là những cây xương rồng thấp lá tròn như những bàn tay xòe ra và vươn lên trong màu trời không có bóng mây. Cô gái mặc áo sơ mi ngắn tay màu xanh đen đậm bỏ vào trong chiếc quần jean xanh , một tay cô ôm chiếc áo khoác và một tay cầm chiếc mũ len, những thứ mà cô đã cởi ra để chụp hình.
Nhìn hình ai cũng đoán được nơi đây đang mùa Ðông, mùa Ðông của đất trời nhưng là mùa Xuân của cô thiếu nữ.đang xuân..
Chị Bông nhận ra đây là hình Katie hồi trẻ ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy và chị thích ngắm hình này mỗi khi có dịp bước vào nhà.
Katie đã ký xong tờ check.
Chị Bông xã giao hỏi thăm:
- Thomas khỏe không? Katie khỏe không?
Là được dịp nhìn Katie nhún vai:
- Anh ta nằm ngủ trong phòng kia kìa, chốc nữa dậy lại đi uống rượu. Nói tóm lại chúng tôi vẫn đủ khoẻ để uống rượu và cãi nhau hàng ngày.
Con chó con quen thuộc nhảy lên ghế ngồi thù lù cạnh chị Bông từ lúc nào, chị Bông đưa tay âu yếm vuốt nhẹ nó từ đầu đến đuôi như lời cảm ơn sự chào đón thân thiện này rồi đứng dậy ra về vì không muốn ngồi thêm để hít thêm mùi khói thuốc lá tích trữ đầy trong nhà vào buồng phổi của mình:
- Tôi về nhé Katie. Hẹn gặp sau.
Chị chào cả chú chó con cho công bằng:
- Tôi về nhé cún. Hẹn gặp sau
Rồi chị Bông để ổ khóa sẵn sàng ở vị trí khóa cửa trước khi bước ra ngoài và đóng cửa lại, đỡ cho Katie khỏi phải lê bước ra cửa làm công việc này.
Ngày vợ chồng Thomas- Katie đến ký giấy tờ hợp đồng thuê nhà chị Bông đã mất khá nhiều thì giờ để tiếp họ so với những nhà khác. Sau khi đậu xe họ từ sân trước bước vào nhà thật chậm chạp, ngày ấy Katie chưa cần dùng tới walker, chị đi bằng những bước chân run tưởng như không có bóng dáng to lớn kềnh càng của Thomas bên cạnh thì chị ta đã ngã mất rồi.
Khi hai vợ chồng vào nhà ngồi xuống ghế để ký giấy thì chị Bông mới biết cả hai người đều yếu ớt, không biết vì bệnh hoạn hay tuổi già.
Chị Bông tự hỏi hai vợ chồng nhà này ai sẽ nương tựa ai đây?
Họ thuê nhà của chị Bông đã được 3 năm là bao nhiêu lần họ đã cãi nhau chị Bông không nhớ nổi. Lúc thì Katie kể, lúc thì Thomas kể và lúc thì họ cãi nhau ngay khi có mặt chị Bông, rất tự nhiên thoải mái không chút ngại ngùng, đã thế hết Thomas lại đến Katie quay ra phân bua với chị Bông, coi như chị là trọng tài cho cuộc cãi vã ngang ngửa cân sức của vợ chồng họ.
Thomas nghiền rượu bia, Katie còn hơn thế nữa, vừa thích rượu bia vừa hút thuốc. Kể từ ngày đôi chân run không thể đứng vững nếu không có walker trợ giúp thì Katie hút thuốc luôn trong nhà mặc cho chị Bông than phiền và không hài lòng. Cuối cùng người thua cuộc là chị Bông vì chẳng nỡ để họ dọn đi khi hết hợp đồng, họ hút thuốc trong nhà thì chính họ là nạn nhân của khói thuốc, họ biết thừa điều đó nhưng bất cần.
Hai vợ chồng cùng sở thích mà mỗi người đi uống bia rượu ở một nơi khác nhau, đường ai nấy đi. Thomas lái chiếc xe truck to tướng như vóc dáng của ông ta còn Katie thì gọi Taxi chở đi quán bar mỗi ngày.. Thomas và Katie đều có chìa khoá nhà riêng để không ai lệ thuộc ai.
Có lần hơn 11 giờ đêm Katie say lướt khướt gọi phone cho chị Bông đánh thức chị dậy để nhờ mang chìa khóa đến cho chị ta vào nhà vì đã đánh rơi chìa khóa đâu đó mà Thomas thì chưa về.
Chị Bông đã tận tình mang chìa khoá đến, dìu Katie vào nhà cho tới khi biết chắc Katie yên ổn chị Bông mới ra về.
Thomas và Katie đều phung phí tiền bạc và phung phí sức khỏe. Họ đang tự hủy hoại bản thân họ, Katie không nói ra chứng bệnh run rẩy của chị ta là Parkinson nhưng rượu bia thuốc lá và những đêm thức trắng bao nhiêu năm qua cho đến bây giờ cũng đủ làm Katie tiêu hao sức khỏe và nhan sắc. Cả hai vợ chồng đều gìa yếu trước tuổi.
****************.
Hôm nay chị Bông lại có dịp ra khu duplex để lấy tiền thuê nhà của Katie cùng vài nhà khác
Tháng mười hai không gian lạnh đầy mà niềm vui thì rạo rực vì là mùa lễ tết cuối năm. Trước cửa vài căn nhà có treo vòng lá xanh mùa vọng, đèn treo mừng Giáng Sinh giăng mắc bên hiên nhà, mỗi nhà mỗi kiểu giăng đèn kết hoa khác nhau, có nhà còn để hình ông già Nô En to như người thật ngay trước cửa.
Chị Bông gõ cửa nhà 904B, vẫn tiếng chó sủa mừng rơn và tiếng chân của nó bé bỏng rối rít cào cấu lên cửa nhưng lần này chị Bông không đợi lậu vì Thomas là người ra mở cửa.
- Chào Thomas.
- Chào chị Bông
Chị Bông thấy Katie ngồi ở ghế sofa nét mặt vui vui hơn mọi ngày. Hi vọng lát nữa lời qua tiếng lại Katie và Thomas không nổi cáu quát tháo nhau như những lần chị Bông từng chứng kiến..
Thì ra Katie đang ngồi ngắm cây giáng sinh mà có lẽ họ vừa mới dựng lên, một cây thông xanh rì thơm tho mùi lá hình như cũng đủ tạm quên đi mùi khói thuốc lá kinh niên trong căn nhà này.. Katie khoe:
- Thomas mới mua cây Giáng Sinh sáng nay, chúng tôi chưa trang hoàng xong
Thomas đang ngồi viết check cũng xen vào:
- Khi nào xong chắc chắn sẽ là một cây Giáng Sinh đẹp của chúng tôi..
Chị Bông ngỡ ngàng vì lần đầu tiên thấy hai vợ chồng họ tâm đầu ý hợp. Ba năm họ sống ở đây, ba mùa Giáng Sinh đến, nhưng hôm nay chị mới để ý thấy điều này
Katie vui vẻ nói chuyện:
- Mặc cho lễ Thanksgiving năm nay gà tây đắt giá thêm 4 xu mỗi pao chúng ta vẫn có lễ Tạ Ơn đầm ấm và bây giờ chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh vui vẻ.
- Phải rồi Katie, tôi ngại nướng gà Tây nên order tại tiệm những $69.99 một con gà tây cơ đấy. Tuy đắt nhưng ăn ngon và nhất là không phải vất vả nường gà tây.
- Thế chị Bông sẽ làm gì cho ngày lễ Giáng Sinh sắp đến?
- Katie ơi, thú thật nhà tôi chưa sửa soạn gì cho Giáng Sinh.như nhà Katie đâu. Sao mà hai vợ chồng chị chào đón Giáng Sinh sớm và nhiệt tình thế này.
Thomas ký check xong đưa cho chị Bông rồi đi vào trong nhà chắc là để mặc cho hai người phụ nữ nói chuyện.
Katie bỗng mơ màng:
- Vì đây là cây Giáng Sinh năm tôi 17 tuổi.
Chị Bông bất giác nhìn lên tấm hình cô thiếu nữ mặc quần jean nơi cổng trang trại và tò mò:
- Katie chụp tấm hình kia năm 17 tuổi phải không :?
- Ðúng thế, đấy là hình chụp khi tôi đến thăm trang trại nhà Thomas.
Con chó con đã leo lên ghế và ngồi cạnh chị Bông từ lúc nào để đợi chị vỗ về âu yếm và y như là nó muốn giữ chị Bông ở lại lâu hơn để nghe chủ nhân nó kể chuyện..
- Tôi và Thomas cùng tuổi và học cùng lớp, trong lớp có nhiều bạn trai thích tôi trong đó có Thomas. Lần đầu tiên làm quen tôi là vào mùa đông Thomas đã rủ tôi về trang trại nhà anh để đón Giáng Sinh, anh kể về trang trại đẹp xinh, cha mẹ và bà nội anh sống ở đó, những người mà anh quả quyết là tôi gặp sẽ mến họ. Thế là tôi nhận lời.
Chị Bông thú vị hỏi:
- Bắt đầu cho một chuyện tình vào mùa Giáng Sinh nơi trang trại vùng xa?
- Vâng, chúng tôi từ thành phố San Antonio đến trang trại vào khoảng trưa ngày 22 tháng mười hai, tôi đã xin phép mẹ tôi để đi chơi cho tới sau Giáng Sinh mới trở về, dĩ nhiên là tôi nói dối đi với người bạn gái. Trang trại cách thành phố San Antonio tiểu bang Texas chừng 1 giờ lái xe, tôi háo hức được đến một nơi xa lạ mà tôi từng mơ ước, một trang trại rộng vắng riêng tư cho tôi sống với hoang dã thiên nhiên. Thomas đã không qúa lời, mới từ con đường tráng nhựa vắng vẻ dẫn đến cổng trang trại đã làm tôi thích mê, ngay mùa đông lạnh tôi cởi toang áo khoác và mũ len ra để Thomas chụp cho tôi tấm hình?
Chị Bông cũng nôn nao:
- Tấm hình treo tường này chứ gì!. Hèn gì tôi thấy gương mặt Katie thật là vui thích, nụ cười rạng rỡ trong mùa đông..
- Vào cổng, sau một bức tường thấp ghi tên trang trại cũng là mặt tiền của trang trại là một không gian mênh mông của trời và đất hiện ra trước mắt tôi, tôi đi trên con đường nhỏ, băng mình trong gió lạnh đến ngôi nhà gạch màu đỏ nằm dưới gốc những cây sồi to lớn và xanh lá quanh năm, con đường cũng lát gạch đỏ trước cửa nhà, hai bên cũng có những cây xanh rì trong mùa đông. Trước cửa ngôi nhà có treo vòng lá xanh với chùm nơ màu đỏ. Thomas gõ cửa, cha mẹ và bà nội của Thomas chắc đã được báo trước họ vui mừng đón chúng tôi vào nhà, căn nhà chỉ rộng 3,000 sqf. mà tôi tưởng như mênh mông lắm, tôi đã hoa mắt vì khắp nhà được chưng bày và trang trí thật thẩm mỹ, những chậu hoa màu đỏ màu tím trên những bàn, trên kệ hay trong góc bếp thật dễ thương. Các phòng khách, phòng bếp lắp nhiều kính để có thể nhìn ra cảnh bên ngoài đủ bốn hướng đông tây nam bắc mà tôi tin chắc là mỗi mùa đều có cảnh đẹp đặc biệt của nó.
Tôi đoán cha mẹ Thomas không phải là nông dân chuyên nghiệp, họ sống ở đây vì yêu thích thiên nhiên hoang dã như tôi đã yêu thích
Tôi và Thomas mỗi người được một phòng, phòng ngủ của tôi cũng lắp kính nhìn ra sau nhà một cảnh đẹp như tranh, có con đường lát gạch đỏ bên cạnh một vườn hoa cỏ mùa đông, màu hoa violet tím u uẩn đến rạo rực và thổn thức lòng.
- Ôi ..đẹp qúa Katie ..
Katie vẫn mơ màng:
- Tôi muốn Thomas đưa tôi đi khắp trang trại rộng 40 acres này, chúng tôi đã đi vào workshop, nhà kho, đứng xem chuồng bò với vài con bò ngẩn ngơ bên hàng rào gỗ, khi mỏi chân chúng tôi ngồi xuống những thân cây gãy khô nằm lăn lóc hay ngả nghiêng bên con lạch nhỏ nước trong xanh lạnh lẽo vào mùa đông hay dừng chân bên cái giếng dưới một gốc cây cao mà tưởng như nó là cái giếng trong thần thoại để cho tôi ước nguyện những điều mình mong muốn.?
Chị Bông lại buộc miệng:
- Ôi ..thơ mộng qúa Katie ..
- Chúng tôi đã băng qua những cánh đồng gặt hái xong trước khi mùa đông đến, qua những cánh đồng cỏ với chân trời xa tít tắp bơ vơ chiếc cối xay gió trên cao, qua hồ nước thiên nhiên xanh thẫm mọc giữa đường như hồ nước từ trên trời hiện xuống, và đi trên con đường đất dài thăm thẳm quanh co xa xa là những hàng rào thưa ngăn cách với bụi cây rậm rạp đầy bí ẩn làm tôi bỗng sợ lạc lối về nếu không có Thomas bên cạnh.
Thomas đã chế nhạo tôi nhút nhát, nếu tôi mà đến những trang trại rộng mấy trăm đến hàng ngàn acres chắc tôi sẽ hết hào hứng vì mỏi chân và lạc lối.
Tôi được biết rằng một trang trại trung bình là vài trăm acres, trang trại nhà Thomas chỉ vừa đủ cho gia đình nhỏ bé của họ một cuộc sống đơn giản riêng tư. Khi Thomas vào trung học cha mẹ đã thuê 1 căn condo một phòng cho Thomas gần trường học, cha mẹ Thomas thường xuyên từ trang trại lên thành phố San Antonio thăm con và mua sắm luôn thể..
Chị Bông thắc mắc:
- Làm chủ một trang trại hàng trăm, hàng ngàn acres phải giàu có lắm nhỉ Katie?
- Cha của Thomas nói rằng đất đai ở Texas gía rẻ hơn những tiểu bang khác vì không tốt, nhất là vùng phía West và SouthWest. Ngầm dưới đất từ San Antonio tới Corpus Christi là mỏ đá vôi dày..
- Tôi lại thích nhìn những cánh đồng khô cằn cây mọc lưa thưa xen lẫn những cây xương rồng?
- Chị nhìn cảnh hoang vu thì thích chứ nhà nông thì chán lắm, đó là vùng đất xấu. Ở nơi đất đai màu mỡ một acres nuôi được 3 con bò thì ở San Antonio phải 10 acres mới nuôi đủ 3 con bò vì không có nhiều cỏ.
Katie tiếp tục kể:
- Cả nhà Thomas chiều chuộng tôi như một khách qúy, mẹ anh bày ra những món ngon cho mỗi bữa trưa hay bữa chiều, còn bà nội anh thì trổ tài làm bánh ngọt, Thomas luôn là đứa cháu bé bỏng dưới mắt bà và tôi là bạn Thomas tôi cũng chỉ là đứa trẻ như Thomas mà thôi.
Buổi tối cả nhà quây quần nơi phòng khách chính có cây Giáng Sinh để chuyện trò, lò sưởi được đốt lên cho không khí mùa giáng sinh thêm huyền diệu.
Cây Giáng Sinh trang trí đơn giản mà đẹp lạ lùng, những băng vải đỏ quấn quanh cây Giáng Sinh, trên ngon cây có hình ngôi sao 5 cánh, dưới chân cây có những hộp quà lớn có, nhỏ có, gói bằng giấy màu xanh đỏ đến vui mắt.
Khuya thì bà nội và cha mẹ Thomas về phòng ngủ, chúng tôi xin phép được ngồi lại để nói chuyện thêm, những tâm hồn tươi trẻ và mộng mơ như chúng tôi có thể thức tới sáng luôn, cả nhà đều hiểu thế và vui vẻ trả khoảng không gian tự do cho chúng tôi..
Không gian càng lúc càng chìm trong im lặng của đêm khuya dù có tiếng cha của Thomas ngáy khá to từ phòng ngủ vọng ra thì cũng là lúc Thomas đột nhiên run run cầm lấy bàn tay tôi tỏ tình, chúng tôi đã trao nhau nụ hôn môi say đắm. Tình yêu đầu đời của chúng tôi bên gốc cây Giáng Sinh, ?.
Chị Bông nín thở hỏi tiếp:
- Tuyệt quá, đôi tình nhân trao nhau nụ hôn nóng bỏng bên cây Giáng Sinh khi ngoài kia gió đông thổi lạnh lùng trong trang trại mênh mông.
- Chúng tôi đã thề thốt sẽ yêu nhau và suốt đời bên nhau, có cây Giáng Sinh làm chứng, mùa Giáng Sinh này cũng là mùa tình yêu của chúng tôi. Sau đó Thomas đã tiễn tôi về phòng ngủ, nhưng anh đã? vào phòng ngủ cùng với tôi và đóng cửa lại, chuyện gì đã xảy ra chị Bông cũng đoán được rồi. Ðêm ấy tôi đã trao đời con gái trinh trắng cho Thomas bằng tất cả niềm rung động và ham muốn của tôi..
Sáng hôm sau dưới mắt cha me và bà nội của Thomas chúng tôi vẫn là đôi bạn trẻ ngây thơ .
Tôi đã vui hưởng lễ Giáng Sinh cùng họ, đêm 24 đi nhà thờ ngoài thị trấn cách trang trại chỉ 20 phút xe và hôm sau là bữa tiệc Giáng Sinh thịnh soạn với ham đút lò, sườn heo đút lò, sausage, khoai tây, súp, sà lách trộn và dĩ nhiên là tráng miệng với bánh cake của bà nội.
Khi chào tạm biệt gia đình Thomas để ra về tôi đã oà khóc vì luyến tiếc. Tôi tiếc một mùa Giáng Sinh thật tuyệt vời nơi đây. Kỷ niệm này tôi sẽ không bao giờ quên.
- Có phải sau này Katie và Thomas kết hôn và chung sống cho đến bây giờ?
- Không đâu, tình yêu tuổi 17 thì mong manh dễ vỡ, chỉ vài sự đối xử không khéo và hiểu lầm chúng tôi đã chia tay nhau ngay khi mới vào đại học, gia đình tôi rời khỏi thành phố San Antonio về xứ lạnh Minnesota, tôi và Thomas đã mất nhau, quên nhau suốt mấy chục năm trời cho đến khi dòng đời đưa đẩy tôi trở về Texas, ở thành phố Dallas tôi đã gặp lại Thomas cách đây hơn 3 năm?
Chị Bông khẽ thở dài:
- Sự gặp gỡ qúa muộn màng?!!
- Vâng, gặp lại nhau cả hai chúng tôi đều tan nát những giấc mộng đời, cái giếng thần thoại nơi trang trại đã không cho chúng tôi điều ước đẹp, chúng tôi không học hành đến nơi đến chốn, người lấy vợ, kẻ lấy chồng, ai cũng trải qua hai ba lần hôn nhân mà chẳng giữ được hạnh phúc bền lâu. Thomas làm thợ cơ khí cho hãng xe hơi GM còn tôi chỉ là một nhân viên quèn trong nhà bank đã thôi việc vì sức khỏe . Thomas không có khả năng làm cha còn tôi có hai đứa con cũng như không, chúng tẻ lạnh với người mẹ nghèo mạt rệp vì ăn chơi truỵ lạc. Thế là hai tâm hồn trong trắng của mấy chục năm xưa và hai tâm hồn đói lạnh tình yêu thương của hôm nay lại hẹn thề chắp nối đi chung đường. Tôi theo Thomas về thành phố Arlington nơi Thomas làm việc cho hãng GM được hai năm thì cũng là thời kỳ hãng GM cũng như vài hãng xe hơi khác làm ăn sa sút thua lỗ phải cho nghỉ việc nhiều công nhân, Thomas đã lãnh lump sum một món tiền và ăn tiền về hưu sớm luôn,
- Thế còn trang trại nhà Thomas?
- Trang trại xinh đẹp ấy đã bán rồi, bà nội và cha Thomas đã qua đời còn mẹ Thomas hiện nay đang ở trong nursing home, bà bị mất trí nhớ, không nhận ra con trai mình là Thomas nên tuy là còn mẹ nhưng Thomas vẫn không có tình thân nào bên cạnh?
- Ðời vẫn chưa trọn niềm vui phải không Katie?
Katie gật đầu:
- Chúng tôi chỉ hạnh phúc ngắn ngủi những tháng đầu tiên, sau đó là liên tục bất đồng ý kiến và cãi nhau, Thomas và tôi đều nghiện rượu bia và mạnh ai nấy đi theo sở thích của mình, có điều là sau khi cãi nhau hay sau khi đi bia rượu về chúng tôi lại cảm thấy cần có nhau để cuộc sống bớt lẻ loi hoang lạnh.
Thì ra thế, sau mỗi lần cãi nhau họ càng cần nhau thêm, sau những lần hoang đàng trở về mái nhà họ lại càng cảm thấy là bến bờ của nhau..
Katie vui vẻ hẳn ra:
- Nhưng dù thế nào mỗi năm khi mùa Giáng Sinh đến chúng tôi đều cảm thấy niềm hạnh phúc trở về y như mùa Giáng Sinh năm chúng tôi 17 tuổi. Thomas và tôi đều ở nhà trang hoàng cây Giáng Sinh, ăn mừng lễ và cùng nhau uống rượu bia, chúng tôi có dịp này để thương yêu nhau
Chị Bông cũng vui vẻ:
- Chúc mừng Giáng Sinh của vợ chồng Katie mãi mãi là mùa Giáng Sinh năm 17 tuổi nhé
Chị Bông đứng dậy để ra về, chị như vừa rời khỏi trang trại xinh đẹp nhà Thomas, như vừa tỉnh dậy sau một giấc mơ mùa Giáng Sinh có tình yêu của đôi trẻ
Con chó con cũng vừa tỉnh giấc mơ khi nãy giờ được chị Bông ấp ủ trong lòng.
Và như lúc nãy Thomas đã mở cửa, lần này chị Bông cũng không phải khép cửa giùm Katie nữa, Thomas đã ra để chào tiễn khách và khép cửa lại.
Có lẽ Thomas và Katie lại cùng nhau trang hoàng tiếp cây Giáng Sinh.
Người ta có thể sẽ nhớ nhau hoài chỉ một lần gặp gỡ hay một lần yêu thì Thomas và Katie dù cả hai đã phong trần với cuộc đời vẫn không thể nào quên một mùa Giáng Sinh họ đã trao tình từ thuở xa xưa ở cái tuổi cả hai cùng 17 hồn nhiên thánh thiện..
Chị Bông bước ra ngoài sân, không khí lạnh mà trong lành làm chị thoải mái, nãy giờ chị đã hít bao nhiêu là mùi khói thuốc trong nhà nhưng vì mải mê nghe truyện chị không để ý đến
Chị Bông hít thở khí trời thêm vài phút nữa mới vào trong xe. Tạm biệt căn nhà 904B, chị vẫn thấy hình bóng cây Giáng Sinh trong đó, thấy một mùa Giáng Sinh tươi vui tràn đầy hạnh phúc yêu thương của Thomas và Katiẹhôm xưa và hôm nay.
2. Huấn Luyện Phi Hành (truyện dài nhiều kỳ)
Tình Hoài Hương
Tình Hoài Hương
3. Mùa Trăm Hoa Cũ Và Những Chàng Nhân Văn Giai Phẩm
Phan thái Yên Phan thái Yên Bạch Liên
Bạch Liên 5. Một Số Phong Tục Tập Quán Của Người Việt Phạm hy Sơn
Phạm hy Sơn 6. Phạm Ngọc Thái Và Một Kiệt Tác Thơ Tình Nguyễn Thị Xuân
Nguyễn Thị Xuân Á Nghi
Á Nghi Song An Châu
-
Song An Châu Trần Thành Mỹ
Trần Thành Mỹ Nguyễn Quý Ðại
-
Nguyễn Quý Ðại IIỊ Hộp Thư Toà Soạn
___________________________________________________
Thể lệ để nhận Nguyệt San Giao Muà:
1) Ðể vào danh sách của NSGM (subscribe),
xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
Ðịa Chỉ Liên Lạc:
Nguyệt San Giao Muà
Copyright
2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors
Truyen Dai
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 15
Bản Lãnh SVSQKQ
Hồng Hạnh ơi,
Nhân ngày lễ Thanksgiving, anh kể hầu em vài chuyện ?buồn cười nhỉ? do các bạn sưu tầm thiệt vui, và chuyện thật trong đời sống của anh (về những ngày xa quê hương) nhen em: hy vọng em sẽ cười, hết hờn giận anh nhé. Hi hi... Mặc dù anh biết có thể là em không muốn đọc thư anh (vì anh ?hử quá, đôi lúc anh làm điều sai quấy, khiến em đau buồn mà). Nhưng anh cứ viết tiếp cho em thư nầy, em có thể đọc khi vui, lúc buồn hay nhớ nhung? đến ?ai đó?? Bởi vì:
Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên (Thế Lữ)
* Anh bắt đầu kể chuyện tiếu lâm mà bạn hoặc anh đã sưu tầm nè:
Một hôm tui đi vào khu shopping, thấy ba cô gái đẹp đi ngược chiều với tui. Trong đó có một cô mặc quần Jeans đã quên kéo zipper lên. Ði gần tới ba cô, tui nhìn lên trời nói: "Everybody checks your zipper, please!"
Cả ba cô nhìn xuống, cô mặc quần jeans xoay vào tường rồi kéo zipper lên. Cô liền chạy theo tui nói rất nhỏ: "You too!"
Vì nghe không rõ, tui tưởng "thank you", nên tui nói: "No problem."
Tức quá cô ta chỉ ngón tay ngay đó và nói: "You toọ"
Tui quê quá nhìn cô cười hị..hi... rồi kéo zipper lên, mà quên xoay vào tường.
* Một phụ nữ toàn diện là phụ nữ: sáng diện, trưa diện, chiều diện! Tối diện. Vậy thì: Thất bại lớn nhất của đời con là không bỏ được nó. Bi ai lớn nhất của đời con là phải sống với nó. Sai lầm lớn nhất của đời con là quyết định lấy nó. Tội lỗi lớn nhất của đời con là nghe nó. Ðáng thương lớn nhất của đời con là bị nó sai khiến. Mặc dù ta biết: Tình yêu là vĩnh cửu. Và chỉ duy nhất một thứ được phép thay đổi: Ðó là người yêu. Do đó: Sau lưng người đàn ông thất bại là người đàn bà xúi dại. Sau lưng người đàn ông thành công là người đàn bà ngồi không. Sau lưng người đàn ông thành đạt là người đàn bà đánh bạc. Sau lưng người đàn ông long nhong là người đàn bà long đong. Sau lưng người đàn ông ngoại tình là người đàn bà ngồi rình. Sau lưng người đàn ông bất lực là người đàn bà rất bực. Sau lưng người đàn ông yếu đuối là người đàn bà...chán chuốị..(*) ha ha ha ...
***
Sau đây là những chuyện có thật của khoá sinh sinh viên sĩ quan Không-quân; anh vào chuyện nhen:
Các anh đang học bay ở Randolph AFB (Texas). Ở ngay đầu sân bay, có một trại chăn nuôi mấy chục ngàn con ?gà Tâỷ (Turkey). Ông chủ trại tên Joseph lầm lì, đã làm một cái chòi gác cao ngất, ông đặt một khẩu súng đại liên 20 trên đó. Ông doạ:
- Tôi sẽ bắn rơi tất cả chiếc máy bay nào, mà bay sà xuống thấp. Liệu hồn.
Vì trại của ông chăn nuôi vài ngàn con gà Tây, chúng rất sợ tiếng phi cơ gầm rú, khi đáp xuống, hoặc khi cất cánh. Chúng sợ hãi inh ỏi kêu quang quác, bay tán loạn, và tịt ngòi nín thở ngừng đẻ trứng. Khiến trang trại của ông thường bị thua lỗ đậm. Nên ông ta tức giận vô cùng và cương quyết làm ?căng? như vậy! Thật ra, khoá sinh không quân cũng có lắm anh khoái chí thích chọc ghẹo, tinh nghịch quá chừng! Họ ưa bay là là sát mái nhà, rượt đuỗi đàn gà của ông ta nhốn nháo chạy té re, xịt cả phân ra ngoài. Cho nên ông ta mới giận dữ, hăm doạ ấy mà. Thế là, trường ban lệnh cấm: Các anh không được bay dưới thấp quá 300 feets.
* Có một lần, các anh đi học Ground School (học lý thuyết dưới đất) thì bọn Mỹ gốc Xì, được trường thuê mướn quét dọn phòng ốc, đã đình công. Họ đòi tăng lương, nên không chịu làm việc. Lớp các anh có mười người sĩ quan tốt nghiệp ra trường cả. Lên lớp, ông đại úy Mỹ rất ?kỳ thị chủng tộc?. Y nhấn mạnh từng câu nói:
- Tụi Xì đình công. Thì tụi bay phải làm thay tụi nó, quét dọn lớp cho sạch sẽ.
Vinh đứng ra chất vấn nó:
- Tại sao?
- Tụi bây cũng là coloured people.
- Chính phủ ông mời chúng tôi sang đây, là đi học bay. Vậy thì, dù chúng tôi có là da màu chăng nữa. Không làm.
- Chúng tôi vẫn là Guest. Chứ không phải là Servant của mấy ông.
- Ông không được nói thế.
Các anh khoá sinh Không-quân Việt Nam và hai anh Ðại Hàn cương quyết không chịu làm. Thế là tên đại-uý tức mình, chưởi mắng các anh đủ thứ tiếng lóng. Nó gọi người Việt Nam là Gođamn Gook. Hoà đã gây lộn với thằng Mỹ ấy khá lâu. Chính Thanh dũng cảm đi lại gần nó, Thanh lầm lì không nói không rằng, anh từ từ lấy cái ghế đẩu gần đó, kéo sát lại. Vì Thanh chỉ cao đến ngực thằng Mike, (trong khi Mike cao 1m98). Thanh từ từ leo lên ghế, giơ thẳng cánh tay thoi một cú đấm rất mạnh vào giữa mặt thằng kia. Mike xịt toé máu mũi, văng máu tùm lum, tà la. Thấy vậy, cả mười khoá sinh sĩ quan Việt Nam và Hàn Quốc bao vây nó lại.
Thằng Mỹ sợ quá, vừa la vừa co giò chạy lên ?méc? ông chỉ huy trưởng. Ông Ðại Tá và ban quân huấn xuống ngay. Các bạn đẫy anh và Vinh ra nói chuyện, vì dù sao tiếng Anh của hai anh cũng có đủ khả năng, để đối chất lưu loát. Công nhận người Mỹ thật hay! Mike biết lỗi, nó đi bắt tay từng người, xin lỗi cả lớp. Nó từ tốn gọi tụi anh là các "ông sĩ quan" đàng hoàng. Từ đó, Mike thân thiện, hiểu biết hơn, không có thái độ khinh khi người da màu nữa. Tuy nhiên, vì Thanh phạm kỹ luật nhà trường, nên bị báo cáo về Việt Nam. Họ ?đì? Thanh ?tới bến? hoài. (Sau nầy không cho Thanh đi bay. Nhờ đó mà Thanh còn sống sót đến bây giờ. Nay Thanh làm đủ thứ nghề, chạy xe ôm, sữa xe đạp... Cuối cùng, Thanh cũng ra đi vĩnh viễn, vì bệnh ung thư yết hầu).
* Thường thường, vào hai buổi chiều Thứ Bảy, Chủ Nhật cuối tuần, thì nhà trường có những chuyến xe bus quân sự miễn phí, họ chở các sinh-viên sĩ-quan Không-quân ưa đi ra bờ biển chơi. Hay đi về những thành phố gần đó để ăn uống, giải trí. Thế nên, cứ chờ đến cuối tuần là bọn anh vui vẻ ra bờ biển, ngồi trong các bar uống nước, uống bia, hay dùng tí xíu rượu nhẹ giải khuây. Các anh đang ngồi nhâm nhi bia, và tán dóc, hỏi đố nhau, mỗi thằng chêm một vài câu vô hại, có lợi để vui vẻ khoái chí cười ha hả:
Tại các quán kia, có những cô gái tóc vàng, mắt xanh, họ còn rất trẻ, và dĩ nhiên đa số họ khá đẹp, các em ấy là sinh-viên, đi làm thêm partimes mùa Hè, họ muốn tự lập và tự tin để kiếm tiền mua sắm, xài vặt, hoặc đóng tiền học. Vì thế, các quán bar luôn luôn vui vẻ ồn ào nhộn nhịp, đông đúc. Ầm ỉ hết biết.
Ðến quán uống bia, hay uống nước ngọt, thì các anh thích ngồi gần cửa ra vào, cho thoáng. Và; hầu hết các anh Không-quân nầy ưa bày cho các em gái những ý hay, nên các anh được sự mến mộ của mấy em tiếp viên. Ví dụ như bạn anh nói với mấy em:
- To give a shine to hair: Ađ one teaspoon of vinegar to hair, then wash hair (muốn cho tóc được óng ả: bỏ một muỗng cà phê giấm lên tóc, rồi gội sạch).
- To avoid smell of cabbage while cooking: Keep a piece of bread on the cabbage in the vessel while cooking (muốn làm bớt mùi bắp cải khi nấu: để một miếng bánh mì trên bắp cải trong nồi khi nấụ)
- To boil eggs quickly : Ađ salt to the water and boil. (muốn luộc trứng nhanh chóng: bỏ muối vào nước và đun sôị)
- To whiten white clothes: Soak white clothes in hot water with a slice of lemon for 10 minutes. (muốn tẩy trắng quần áo màu trắng: ngâm quần áo màu trắng vào nước nóng có bỏ một lát chanh trong vòng 10 phút).
- To rid the smell of fish from your hands: Wash your hands with a little apple vinegar. (để tẩy hết mùi tanh của cá trên tay: rửa tay bằng một chút giấm táo) vân vân ...
- Hi hi hi... ha ha ha...
Thế nên, có một nhóm Hoologans bất cần đời, coi người khác như pha, đi đâu chúng cũng dàn hàng ngang, giạng chân ra, rú xe mô tô có phân khối lớn, khói bay mù mịt, bóp còi kêu inh ỏi. Tụi nó to cao, dềnh dàng, vạm vỡ, mặt mày bặm trợn, nghênh ngang và xâm vô thân thể chằn chịt những hình thù dị hợm trông quái đản, chẳng giống ai. Vì thế, chúng thấy đám sinh viên Việt Nam hào hoa lịch sự, được các cô vui vẻ tiếp đãi ân cần nồng hậu. Thế là, ?tụi nó? tức giận, chễm chệ ngồi lên cái bàn nầy, mà gác chân qua bàn kia, chúng ?phồng man trợn mắt? quyết tìm cách gây hấn với ?tụi anh?. Lần nào tụi anh cũng gặp bốn năm tên ngồi đối diện và ?nghênh? chiến. Hoặc, chúng đi ngang qua bàn anh ngồi, chúng cố ý đụng bàn, đá ghế, phà thuốc lá thẳng vô mặt các anh, rồi làm đổ ly nước ngọt, hay ly bia lên lưng, lên vai các anh. Chúng tỉnh bơ và lỏ mắt ra ?nghinh? với mình nữa chứ. Hiền nói:
- Tao đã nói mà: Tụi mình ?xuất quân? yên hùng anh dũng từ Việt Nam qua Mỹ vào cái ngày đầu tháng, bắt đầu là ngày một tây, ấy là ngày Chủ nhật, thì luôn luôn có ?thứ 6 ngày 13? ; nên tụi mình bị xúi quẫy, xui xẽo hết biết.
- Xui cái gì! Sợ ?rúm ró? bọn côn đồ, thì nóỉ
- Không phải là sợ, nhưng mình dây dưa với bọn du thủ du thực, du đãng; nhất là do vì mình mang bộ quân phục Không-quân, thì thật là không có lợi. Nếu mình mặc thường phục thì chưa chắc à, ai sợ ai.
Nghĩ phận mình nhỏ con, nhất là vì trên người đang mang bộ quân phục Không-quân, nên các anh không muốn gây ra rắc rối phiền phức, hay kết bè cánh, tạo ?băng đãng? tại địa phương xa lạ làm gì, cho mệt; cho nên tụi anh đành phải nhịn nhục. Nhưng trong lòng mỗi đứa, đều cảm thấy ấm ức, bực bội, tức giận kinh khủng! Chả lẽ mình hèn, cứ cúi đầu chịu nhục, nhút nhát ru rú trong nhà không dám thò mặt ra phố, để cho chúng nó lên mặt vênh váo ăn hiếp mình hoài sao ta!? Về trường bay, tụi anh vẫn hậm hực, tức giận, sôi nổi bàn tán chuyện nầy. "Ông nội Vinh" giận nhất, hăm he phải tìm cách nào đó, để "phục thù rửa hận" mới thôi. Bọn thanh niên khóa sinh giơ thẳng hai tay lên trời, đồng ý với Vinh cái rụp: ?give me fivẻ.
Khi đó hai anh sinh viên sĩ quan Không-quân gốc Ðại Hàn trong trường bay, tướng tá của họ oai phong lẫm liệt, trông ngon lành. Họ là hai võ sư Ðệ Tứ Ðẵng Karatedo và Taekwondo. Hai anh nầy thường nghe tụi anh kể lại chuyện nhóm Hoologans. Một hôm họ nói với tụi anh:
- Ðể chúng tôi ?trị tộỉ bọn ?mất dạỷ kia cho. Yên trí đi.
Tưởng là họ chỉ nói đùa cho yên chuyện, nhưng thế rồi, một buổi chiều Thứ Bảy cuối tuần, các anh sinh viên sĩ quan Không-quân vui vẻ hớn hở đi cùng hai anh Ðại Hàn, ra quán bar. Vì hai anh Ðại Hàn là người Á Châu, nên người Mỹ nhìn thoáng qua coi vóc dáng diện mạo của hai anh nầy, họ không thể phân biệt quốc tịch chủng tộc người Việt Nam và Ðại Hàn khác nhau gì mấy. Hai anh kia bàn tính:
- Nếu có đụng độ trong quán. Các bạn cứ chạy ra phía ngoài, gọi mấy chiếc taxi, các bạn ngồi hết trong xe trước. Chờ sẵn, nghiã là chờ chúng tôi ở trên xe đó nhe. Còn trong quán, thì để chúng tôi ?làm gỏỉ mấy tên ?cao bồi, du đãng? nầy một lát, là ?xong béng?. Rồi khi thấy hai đứa tôi chạy ra khỏi cửa, thì mình cùng nhau dzọ lẹ, cho xe taxi chạy vù về căn cứ bay. Nha.
Hôm sau, bọn ?cu bồi kiả vào quán, họ vẫn thấy đám anh ngồi nguyên ở chỗ cũ. Theo thường lệ, chúng vẫn ngang nhiên đi lui đi tới, nghêng ngang đá bàn, đá ghế, và ?cà nghinh, cà bật?. Ngổ ngáo. Bặm trợn. Coi chẳng giống con giáp nào. Chẳng giống con cầy con lợn nào. Hai anh Ðại Hàn ngồi ở bàn kế bên bàn các anh, họ nháy mắt nheo mày nháy nhó với tụi anh, gật gù tủm mỉm cười cười.
Vinh bình thản kêu cô tiếp viên tính tiền. Mấy anh Việt Nam nhẹ nhàng thối lui, cùng ra ngồi chờ sẵn trong ba chiếc taxi để cửa xe mở toang, và rồ máy, xe chờ sẵn. Không nói chẳng rằng, hai anh Ðại Hàn từ từ đứng dậy, tới bên ung dung hỏi chuyên bọn chúng; rồi nhanh như chớp hai anh nhào vô bọn chúng. Họ ?nện? cho mấy tên kia một trận đòn đích đáng, họ ?dợt? mấy tên kia những cú chưởng huyền bí tung lên ném xuống, như mèo vờn chuột, nên thân. Bảo đảm không đẹp mắt không ăn tiền! Thiệt là xem những chiêu tuyệt hảo. Rồi hai anh Ðại Hàn kéo nhau chạy ra xe. Cả nhóm anh sung sướng, cười nói hớn hở vui vẻ thoải mái quá chừng. Xe chạy riết về căn cứ Không-quân.
Nhưng khổ nỗi, khi hai anh Ðại Hàn vừa ban ?hậu ơn?, cho chúng bài học xứng đáng nhớ đời xong, họ vừa chạy ra xe taxi, hai anh Ðại hàn cứ la to:
- Việt Nam muôn năm. Việt Nam muôn năm!
- Good boy!
Ngày hôm sau, các báo địa phương đăng tin thú vị:
- Có một nhóm sinh-viên sĩ quan Không-quân Việt Nam vào quán bar, họ bị các tay kia làm nhục nhiều lần. Nay họ đã ẩu đả với bọn Hooligans. Khiến có mấy tên bị thương nhẹ. Một tên gãy xương quai hàm. Một tên gãy tay. Một tên long đầu gối, què chân. Từ đây xin đừng ai dụng chạm, hay ?kỳ thị? đến người Việt Nam nữa nhé.
Tin nầy chấn động cả thành phố nhỏ. Thật hả hê sung sướng vui mừng trong dạ làm sao! Trong bụng tụi anh đều mở cờ tung bay phất phới, hân hoan vui vẻ không thể tả! Có điều hơi phiền toái là: Tin đó được đưa lên tận phòng Tùy Viên Quân Sự Việt Nam, (tại Toà Ðại Sứ Mỹ). Than ôi! Ít lâu sau, có một ông sĩ quan liên lạc bay đến. Ông mời cả nhóm Việt Nam lên phòng hội. Khi tụi anh vừa bước vào phòng, ông ta lịch sự chỉ ghế mời khoá sinh Không-quân Việt Nam ngồi. Ông lắc đầu, nhướng mày lên, cười cười:
- Các anh cứ thú thật với tôi đi. Ai đã đánh mấy thằng Mỹ bị thương? Chứ các anh nhỏ con, làm sao mà đánh đấm tơi bời cái bọn có dao găm kia. Ðến nỗi chúng bị gãy tay, lọi giò, gãy răng đó? Hở?
Tụi anh đành kể lại hết và thú nhận. Ông ta cười vang không nói gì. Mọi chuyện rồi cũng ổn thoả thôi. Về sau, mỗi lần có người Châu Á đi ra phố, đa số thị dân đều đón tiếp ân cần, trịnh trọng. Vì họ nghĩ: Người Việt Nam bé nhỏ nầy, nhưng Việt Nam là ?Hero. Võ công cao cường?. Ðám ?cu bồỉ đó chẳng dám hó hé quậy tưng trời như xưa nữa. Mấy anh khoá sinh Không-quân Việt Nam đã dẹp sạch lũ Hooligans ngoài bờ biển thật rồi. Nhân đó, tên Vinh đẹp "giai" nhà ta, được qúy nàng mắt xanh siêng năng tận tình, vui vẻ ưu ái chiếu cố âu yếm ?vuốt ve cưng nựng? nhiều hơn (anh nhờ đó mà ?hưởng lộc tí xáỉ! Hi hi hỉ).
* Ðến giờ vào lớp rồi em ạ, thế nên trước khi anh bước vào những câu chuyện định mệnh sầu đắng, anh xin dừng bút tại đây & tạm biệt em nhé. Không quên chúc em vui vẻ, trẻ đẹp và siêng năng chăm chỉ học tập, cho anh nhờ? Anh gởi lời kính thăm ba má của em, các anh chị luôn an mạnh. Nhen. Anh nhớ em nhiều.
Anh,
LPH
******
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
1.
Bạn bè thỉnh thoảng gặp nhau bên ly cà phê tách trà. Sau chuyện trò về gia đình, con cái,
việc làm, họ vẫn thường chung cuộc với chút chén văn chương và những nghĩ suy có bấn bíu
lòng. Gần đây, trong một cuộc tranh luận, thuật dụng chữ nghĩa của Hoàng Cầm và Trịnh
Công Sơn đã được nhóm bằng hữu mang ra bàn cãi so sánh. Có lẽ sự ẩn dụ hai mang của
ngôn từ và điệp ngữ lửng lơ trong thơ trong nhạc đã giúp họ trong sáng tác, thành danh, và
sự an thân. Dù sao thì ?đàn bò vào thành phố? băng qua lối mòn phản chiến ngoại ô hay
chiếc ?lá diêu bông? bên kia sông và người chị buổi thiếu thời từ cuối một làng quê nào đó
đã giúp họ sống-còn mà đi ?qua vườn ổỉ xanh thơm, hay bận bịu phân bua về một mùa thu
Hà Nội đỏ lá bàng, xanh cốm mới.
Thật sự, tôi đã không còn nghĩ nhiều về những điều trên mà mãi bận lòng nhớ về những
người tuổi trẻ trung thực nhiệt thành, hiên ngang bước chân qua cổng trước của khu vườn
Nhân-Văn Giai-Phẩm để rồi chịu cheo leo suốt cả quãng đời dài. Tôi nghĩ nhiều về những
người tuổi trẻ ?biết ghét biết yêủ, viết văn làm thơ thời ?trăm hoa đua nở?. Tôi muốn được
một lần về thăm lại những người giữ vườn tuổi giữa thanh niên đã một thời dùng máu lệ
mình tưới thắm một mùa trăm-hoa cũ. Những Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, Trần Lê
Văn, Bùi Quang Ðoài, Tạ Hữu Thiện?với bao nỗi ngậm ngùi.
Năm 1956, giữa những ngày Cọng Sản Hà Nội còn đang hăng máu với cuộc Cải Cách
Ruộng Ðất ?hoàn toàn thắng lợỉ thì những sự kiện sửng sốt, không ngờ, dồn dập xảy đến
trong hàng ngũ Cọng Sản quốc tế và chế độ miền Bắc.
Giới văn thi sĩ trí thức ở miền Bắc trước kia đã chân thành hợp tác với Cọng Sản trong
công cuộc kháng chiến dân tộc chống thực dân Pháp nay thấy mình bị lợi dụng, bạc đãi,
khinh miệt và cuối cùng là áp bức, khủng bố tới mức độ không thể chịu đựng nổi.
?Giai Phẩm 1956? ra đời có những bài viết nêu lên thối nát của chế độ. Trong bài ?Cái
chổi quét rác rưởỉ, Phùng Quán nói rằng chế độ miền Bắc đầy rác rưởi dơ bẩn và một nhà
văn như anh sẽ tình nguyện làm cái chổi quét cho sạch rác rưởi đó. Bài viết như một tuyên
ngôn khởi đầu cho cuộc khởi nghĩa văn học.
Trong bài ?Ông Bình Vôỉ, Lê Ðạt đã ám chỉ công kích bọn cán bộ lãnh đạo:
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại
Hữu Loan thì uất ức:
Một điều đau xót
Trong chế độ chúng ta
Trong chế độ ?Dân chủ Cọng hòả
Những thằng nịnh hót còn thênh thang đất sống...
Trong ?Giai Phẩm Mùa Xuân?, thơ Trần Dần tả sự khổ cực, thiếu thốn, thất nghiệp của vợ chồng tác giả. Họ đi giữa Hà Nội, ?không thấy phố không thấy nhà? mà chỉ thấy ?mưa sa trên mầu cờ đỏ?. Cụ Chương Dân Phan Khôi, một sĩ phu Văn Thân đất Quảng Nam, người nho sĩ tiết tháo cuối cùng đại diện cho cả hệ thống Nho Giáo từ hơn hai nghìn năm trước, đơn thương độc mã đối đầu với ý thức hệ Marxism và chế độ Cọng Sản với một ý chí đấu tranh tới cùng:
Nắng chiều tuy có đẹp,
Tiếc tài gần chạng vạng.
Mặc dù gần chạng vạng
Nắng được thì cứ nắng (1956)
Trong Giai Phẩm Mùa Thu tập I ra đời ngày 29 tháng 8 năm 1956, bài viết ?Phê bình Lãnh đạo Văn nghệ? của cụ Phan Khôi như quả bom chấn động cả Hà nội đã gây nên cuộc chiến tranh văn học giữa trí thức miền Bắc với Ðảng. Từ tháng Tám 1956, Hà Nội như một khu vườn với hàng trăm loài hoa đua nở. Cụ Phan Khôi cùng Nguyễn Hữu Ðang, Trần Duy xuất bản báo Nhân Văn. Giới sinh viên thì cho ra đời tờ Ðất Mới do Bùi Quang Ðoài làm chủ bút. Các báo phát hành từ trước như tuần báo Trăm Hoa của Nguyễn Bính, tờ Thời Mới, cũng hưởng ứng phong trào cho đăng những loạt bài đả kích Ðảng. Về phía báo Ðảng thì có những tờ Cứu Quốc, Nhân Dân, Học Tập, báo Văn (sau khi báo Nhân Văn bị đóng cửa). Ðối đầu những văn thi sĩ trẻ viết văn làm thơ đấu tranh chống Ðảng là những ?Con ngựa già của Chúa Trịnh? (truyện Phùng Cung), những tay cặp-rằng văn nghệ chạy theo Tố Hữu như Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Ðình Thi... hay tiêu biểu cho một nhóm nhỏ văn nhân xu thời, xoay xở, lúc nịnh lúc chưởi như Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, cốt sao được ăn trên ngồi trước.
2. Trong khu vườn trăm-hoa đã vụt trỗi lên nhóm nhà văn trẻ tuổi. Họ tiêu biểu cho lớp thanh niên lớn lên trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống thù chung. Họ đã hi sinh, chịu đựng gian khổ, tranh đấu giành lại độc lập cho đất nước để rồi cay đắng hiểu ra rằng tự do, dân chủ, bình đẳng, ấm no, là lớp bánh vẽ xa vời mà chế độ Cọng Sản chỉ hẹn hò mà không thực sự mang lại. Họ trở thành tầng lớp ?quần chúng văn nghệ? phải chịu cảnh đời cơ cực bất công trong cuộc sống kinh tế, đồng thời bị áp bức kìm hãm khủng bố trong sáng tác. Văn thơ của họ là tiếng nói của con người thiên nhiên khác xa với lớp lối biện chứng vô sản hiện thực thiếu lương tri. Thơ đã thành tiếng gọi của Tự Do. Ngoài những đóng góp của Minh Hoàng (Vũ Tuyên Hoàng), Trần Lê Văn (cháu nhà thơ Trần Tế Xương), kịch tác gia Hoàng Tích Linh, thơ văn của Trần Dần, Phùng Quán, Tạ Hữu Thiện, Bùi Quang Ðoài, Phùng Cung, là tiếng gọi sang sảng sấm truyền, đã chân thành nói lên được nghĩ suy tự đáy lòng mình cho dù ai ?cầm dao dọa giết?. Phùng Quán, sinh năm 1932, người trẻ tuổi nhất trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Là một ?nhà văn chân thật trọn đờỉ, ông làm thơ để quét sạch những rác rưởi trong xã hội. Thơ ông là lời tuyên thệ trung thành với tâm hồn của mình, suốt một đời người. Năm 1956 ông ?chống tham ô lãng phí?:
...Tôi không nói quá
Về Nam Ðịnh mà xem
Ðài xem lễ, họ cao hứng dựng lên
Nửa chừng thiếu tiền bỏ dở
Mười một triệu đồng dầm mưa dãi gió
Mồ hôi máu đỏ mốc rêu.
Những con chó sói quan liêu
Nhe răng cắn rứt thịt da cách mạng !...
Năm 1957 ông nhớ ?lời mẹ dặn? làm người chân thật:
...Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều,
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật trọn đời
Ðường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô ngã tôi
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá?
Phần tư thế kỷ sau, thơ Phùng Quán vẫn đam mê chơn chất: Có nơi nào trên trái đất này Mật độ đắng cay như ở đây ? Chín người ? mười cuộc đời rạn vỡ Bị ruồng bỏ và bị lưu đày... Có nơi nào trên trái đất này Mật độ đam mê như ở đây ? Yêu đến phải vào nhà thương điên Thơ đến phải bị còng tay... Có nơi nào trên trái đất này Mật độ yêu thương như ở đây ? Mỗi tấc đất có một người quỳ gối Dâng trái tim và nước mắt Cho nỗi đau của cả loài người...
Trần Dần sinh năm 1924 tại Nam Ðịnh. Vào những năm cuối trung học, chịu ảnh hưởng Baudelaire và Verlaine, ông bắt đầu sáng tác thơ theo thể lối ?tượng trưng?, vận dụng âm điệu để diễn tả những rung động của tâm hồn. Chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, ông vào bộ đội tham gia kháng chiến. Năm 1951, ông về Hà Nội nhận công tác viết báo cho cục Quân Huấn và phụ trách giảng dạy về văn nghệ nhân dân trong những lớp đào tạo cán bộ văn công. Bị phê bình giảng dạy sai đường lối của Ðảng, ông xin ra công tác ở mặt trận Ðiện Biên Phủ. Xúc cảm trước sức chiến đấu của bộ đội và cái chết thê thảm của bạn đồng hành Tô Ngọc Vân, Trần Dần sáng tác ?Người người lớp lớp?. Nhờ tập sách này ông được Ðảng cho đi Trung Quốc để viết lời dẫn bằng tiếng Việt cho cuốn phim ?Chiến thắng Ðiện Biên Phủ?. Trần Dần rất bất mãn vì bị cán bộ chính trị dốt nát về văn chương đã dùng quyền lực sửa chữa từng chữ từng câu của ông. Về đến Việt Nam, ông cùng một số văn nghệ sĩ đảng viên khác như Tử Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, Ðổ Nhuận, viết kiến nghị yêu cầu hạn chế sự can thiệp của cán bộ chính trị vào lãnh vực văn nghệ. Trong thời gian này, Trần Dần tự tiện lấy vợ. Người yêu của ông là một thiếu nữ tiểu tư sản, theo đạo Thiên Chúa. Nàng sống bơ vơ một mình ở phố Sinh Từ vì bố mẹ họ hàng đã di cư vào Nam. Vì bị Ðảng cấm đoán, Trần Dần tự ý xin ra khỏi Ðảng, cùng vợ sống trong cơ cực để được yêu thương nhau. Không lâu sau đó, Tố Hữu, ủy viên trung ương Ðảng phụ trách lãnh đạo văn nghệ, ra lệnh bắt Trần Dần mang nhốt trên một nhà giam ở Việt Bắc vì ông đã công khai phê bình đả kích cuốn ?Thơ Việt Bắc? của Tố Hữu. Tin Trần Dần bị bắt gây dư luận bất mãn trong giới trí thức kháng chiến. Ðảng bèn phải đưa Trần Dần về mạn xuôi, bắt đi theo chiến dịch Cải Cách Ruộng Ðất và cho vợ ông một chân may vá ở mậu dịch Hà nội. Năm 1956, nhóm văn nghệ sĩ kháng chiến nổi lên đấu tranh chống Ðảng bằng cách cho xuất bản tập Giai Phẩm Mùa Xuân. Hoàng Cầm đến xin vợ Trần Dần bản thảo bài thơ ?Nhất định thắng? ông viết năm 1954 để in trong Giai Phẩm. Số báo này vừa in xong thì bị tịch thu ngay. Ðảng gọi Trần Dần về Hà Nội, mang ra ?đấủ giữa một hội nghị có đông đủ các văn nghệ sĩ, quy Trần Dần tội phản động chống Ðảng. Bị giam cầm trong nhà pha Hỏa Lò ở Hà Nội, Trần Dần quá uất ức dùng dao cạo cứa cổ nhưng không chết. Vết sẹo như là một dấu hiệu của sự áp bức văn nghệ dưới chế độ Cọng Sản. Tháng Tám năm 1956, Việt Cọng tuân theo chỉ thị của Ðệ Tam Quốc Tế, phát động phong trào ?sửa saỉ. Giai Phẩm Mùa Thu và báo Nhân Văn, đấu tranh mạnh mẽ hơn, cụ Phan Khôi và Hoàng Cầm trong bài viết ?Con người Trần Dần? lên tiếng phản đối việc khủng bố Trần Dần và vụ tịch thu tờ Giai Phẩm Mùa Xuân. Bị công kích quá mạnh, Ðảng phải thả Trần Dần về. Nhóm Giai Phẩm tái bản tờ Giai Phẩm Mùa Xuân trong đó có bài thơ ?Nhất định thắng? của Trần Dần. Bài thơ dài hơn năm trăm câu, bắt đầu bằng tiếng thở dài.
Tôi ở phố Sinh Từ:
Hai người Một gian nhà chật
Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui ?...
Bài thơ nói lên sự đói rét và nỗi u buồn trong lòng dân miền Bắc sau ngày đất nước chia đôi. ...
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Ðất hôm nay tấm tả mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm ?
A ! Cái lưỡi dao cùn !
Không đứt được ? mà đau !
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ôi cả nước ! Nếu mà lưng tôi lạnh
Hãy nhìn xem: có phải vết dao ?
Không đứt được mà đau !
Lưng Tổ Quốc hôm nay rướm máu...
Cuối năm 1957, Trần Dần gửi đăng bài thơ ?Hãy đi mãỉ trên báo Văn nói lên ý chí cương quyết đấu tranh đòi tự do đến cùng. Hãy đi mãi ! Dù khi cần thiết người ta cần đói khát vượt bình xa.
... Nếu tôi bị gió sương đầu độc,
một hôm nào ngã xuống giữa đường đi
tôi sẽ ngã như người lính trận
hai bàn tay chết cứng vẫn ôm cờ...
Tạ Hữu Thiện là một sinh viên viết văn làm thơ theo phái hiện thực xã hội. Lớn lên với tấm lòng đơn giản nhiệt thành anh thắp sáng thơ mình đi tìm tình yêu, đi tìm tâm hồn ?biết ghét biết yêủ giản đơn hòa hợp như anh. Giữa xã hội miền Bắc khô cạn tình người và lối giáo dục cọng sản lọc lừa, lời thơ anh trở thành tiếng gọi đắng cay, tiếng lòng tự hỏi về một phương trời khác nơi anh sẽ tìm ra người yêu trong mộng một đời. ?
Trong các bạn có chăng người yêu dấu
Mà bấy lâu tôi vẫn gắng công tìm ?
Ðó chính là người tôi chửa gặp
Mới là người tôi ấp ủ trong tim.
Trên tất cả thành phần lý lịch
Trên cao sang, trên sắc đẹp diễm kiều.
Em, trọn cuộc đời tôi kiếm gặp
Chỉ là người biết ghét biết yêu.
Bùi Quang Ðoài là sinh viên Văn Khoa sau ngày Cọng Sản tiếp thu Hà Nội. Anh làm chủ bút tờ báo vắn số Ðất Mới, cơ quan tranh đấu chống Ðảng của sinh viên. Truyện ngắn ?Lịch sử một câu chuyện tình? của Bùi Quang Ðoài đăng trong số báo đầu tiên và cũng là cuối cùng là nguyên nhân anh bị đuổi khỏi trường và đưa đi kiểm thảo, học tập. Trong truyện ngắn này có câu văn lãng mạng ?
Em hãy đếm những vì sao trên trời
được bao nhiêu thì anh yêu em còn hơn thế nữả
sau này đã được nhiều người trích dẫn trong thơ truyện của mình. ?
Ðường trăng mà không sáng !
Bóng mây đã che mờ hẳn trăng đêm.
Ánh đèn trong những gian phòng khu học xá
chiếu hắt ra như những vì sao thứ tự?
Ðoạn văn trau chuốt mang hơi hưởng Tự Lực Văn Ðoàn là dòng khơi từ cho truyện ngắn tả lại không khí sinh hoạt trong khu Học xá ở Hà Nội dưới sự kiểm soát của Ðảng. Truyện kể lại một vụ cán bộ Ðảng dùng uy quyền chính trị chiếm đoạt tình yêu của một nữ sinh Hà Nội thuộc thành phần gia đình tiểu tư sản. Phùng Cung đồng chia cảnh ngộ với các văn thi sĩ trẻ khác trong nhóm Nhân văn Giai Phẩm đã phải sống-trong-cảnh-chết rất nhiều năm. Sau ngày ?Con ngựa già của Chúa Trịnh?, ông đã phải sống trong tận cùng nỗi thấm đau phẩm giá con người của bần cùng, sợ hãi, di lụy, kinh hoàng. Ðăng trên báo Nhân Văn số 4, truyện ngắn ?Con ngựa già của Chúa Trịnh? có ngụ ý đả kích văn thi sĩ thành danh trước kia như Xuân Diệu, Hoài Thanh, Cù Huy Cận, chỉ vì ham được vinh thân thăng tiến trong hệ thống Ðảng mà cam tâm tôi đòi cho chế độ. Ðời sống tôi mọi đã làm thất thoát khả năng văn nghệ cũng như tâm hồn và lương tri của người cầm viết. Truyện viết về con Kim Bông là một quý mã. Thuở ấy chúa Trịnh đang cần tuyển mộ một đoàn kỵ binh để bình định đất nước. Kim Bông được chủ là Lão Nông thuận cho rời
Phương Lộ, một thôn làng hẻo lánh phía Nam chân núi Tản, về chốn kinh thành mà theo Trịnh Chúa Công xông pha chiến trận. ?Kim Bông phi như gió, giả lại đàng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn Tây. Chỉ trong nửa ngày đã về đến Thăng Long?. Trong ngày hội đua tuyển mã, con Kim Bông đã làm kinh hồn táng đởm hàng nghìn ngựa tốt từ các nơi đem về. ?Chỉ trong chớp mắt, con Kim Bông đã vượt lên hàng đầu, vừa hí, vượt lên, chân trước khoăm lại như móc sắt, đuôi bay như giải phướn, tưởng như chân nó không hề chạm đất?. Sau cuộc đua, con Kim Bông được tặng danh hiệu ?Bạch long Thiên lý mã? và chọn làm mẫu mực để luyện tập cho cả đoàn ngựa chiến của triều đình. Từ đó ?nó cùng bầy ngựa chiến xông pha chiến trận, trải nhiều trận vào sinh ra tử?. Cho đến một ngày con ?Thiên lý? được Chúa Trịnh chọn cho làm mã lệnh và được vào ở trong phủ Chúa. Trong mã đài, ngày ngày chỉ ăn và tắm hoặc đứng yên cho mã phu cắt tỉa từng sợi mao, vuốt ve từng chiếc lông đuôi. Con Thiên lý dần rồi quen với gấm điều kim tuyến trên lưng và xa giá sơn son thếp vàng nó kéo đến đâu cũng vang rền lời tiền hô hậu ủng. Những lúc như vậy, nó cảm thấy mình quan trọng hẳn lên và đẹp rực rỡ như phượng hoàng. Có lần được lệnh kéo chúa Trịnh đi duyệt một đoàn quân kỵ mã, con Thiên lý nhìn hàng quân kỵ oai dũng, chợt nhớ thuở tung hoành xưa, nó ngẩng đầu cất cao tiếng hí. Bầy ngựa chiến òa lên cười chế nhạo. ?Thôi bác ạ ! Ðừng khoe tài nữa, chúng em đây ngại bác không rời được khỏi cái xe của Chúa ! Rời ra thì thóc kia trộn mật ai ăn ?? ?Con Thiên lý uất lên, muốn thoát khỏi xe xông thẳng ra ngoài để tỉ sức, nhưng trên xe lại giật cương? nên đành phải cắm đầu đi, lòng vẫn còn tin mình còn đủ sức phi lên hàng đầu. Một ngày kia, Chúa Trịnh vì phải thân chinh đi dẹp loạn nên truyền đem mã lệnh ra đua trường ôn dượt trước khi ra trận. Viên tướng kỵ binh cúi đầu tâu. ?Muôn tâu Chúa công, hiện nay trong triều đình thiếu gì ngựa chiến có dư sức vượt hàng nghìn dặm, và đã từng dự trên dưới một trăm trận. Xin Chúa công để tiểu tướng được chọn dâng một con chiến mã có sức khỏe vào bậc nhất. Còn như con mã lệnh, cứ nên để nó kéo xe; vì từ khi đem nó vào phủ Chúa, nó ăn thì nhiều lại không hề luyện tập, tài nó ắt không được như trước? . Vẫn còn tin ở tài con mã lệnh, Chúa bèn hạ lệnh cho mang con Thiên Lý ra tỉ sức cùng các chiến mã khác để tiện bề kén chọn. ?Con Thiên lý được dịp rời phủ Chúa ra đua trường. Hai cái lá đa đã được cất đi. Nó bàng hoàng nhìn giời, nhìn đất, mắt nó hoa hoa, đầu nó choáng váng. Cảnh vật như quay chong chóng, cây như mọc ngược, núi như đổ xuống. Vừa gặp đồng loại một cái, nó cố dóng hai tai bóp bụng lại lấy hơi hí một tiếng để dương oai. Nhưng tiếng hí của nó vừa hé ra thì cụt lủn như có vật gì nút lấy mõm. Các đồng loại của nó cũng nhe răng ra cười rồi cùng cất tiếng hí làm cho nó càng uất. Không chờ tiếng trống lệnh, nó đã lồng lên, tức thì các đồng loại của nó cũng bỏ vạch rượt theo. Tiếng trống liên hồi, con Thiên lý càng cắm đầu cắm cổ chạy. Nó đã tưởng mình thắng cuộc, nó đắc chí ngoảy đầu lại thì bọn ngựa chiến đã tới sát đàng sau. Chỉ trong chớp mắt nó bị tụt lại. Không chịu, nó càng lồng lên. Bổng nó thấy nhói một cái ở trong ngang bụng như bị một nhát gươm chém mạnh, nó ngã vật xuống, vùi đầu trong bụi lốc của đàn ngựa bay qua, nó biết là đứt ruột, không thể sống được. Nó gắng mở to hai mắt, rên lên một tiếng như nói rằng: Tiếng tăm lừng lẫy như ta chỉ có thể chết ở chiến trường. Nhưng, than ôi ! Bãi cỏ này cũng là bãi chiến trường, chết thế này cũng là chết vì giang sơn, vì Chúa ! Trước hơi thở cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngóc đầu lên cao, co co hai chân trước, thẳng thẳng hai chân sau, chừng như cố để giữ lấy cái thế ?cao đầu phong vĩ?? Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua từ sau mùa trămhoa Nhân Văn Giai Phẩm 1956.
Những con người tuổi trẻ muốn làm nhà văn chân thật trọn đời đã hiện thực giấc mơ được làm người-tự-do trong tư tưởng. Họ chắt chiu lấy giấc mơ mình như niềm hạnh phúc lẫn bi thương đã hiện hữu cùng với sự lựa chọn được làm người-chân-thật. Họ đã trả đắt giá cho sự lựa chọn cao quí của mình để làm ?người biết ghét biết yêủ nhiều khi trong giam cầm, đói khát, hãi hùng. Sau nhiều năm quá trễ, tập đoàn Cọng Sản qua những tay cặp-rằng văn nghệ miền Bắc có làm vài bản ?tự kiểm?, ?xét lạỉ nửa vời, kẻ cả, và xem ra thỏa mãn với hành vi ?sửa saỉ tiến bộ của mình. Thực tế thì hai mươi năm sau ngày đấu tố ruộng đất, cuộc đấu tố văn học lại tái diễn vào những năm sau 1975, như Tần Thủy Hoàng đã thẳng tay ?đốt sách chôn học trò? hằng ngàn năm trước ở Trung Hoa. Và hiện nay, bề bộn từng đống báo lề phải, công an ?mạng?, tường lửa, luật an ninh mạng? Những năm hòa bình ngắn ngủi ở miền Nam Việt Nam trong thời kỳ Ðệ Nhất Cọng Hòa vừa giúp manh nha những hoạt động văn học có kích thước thì ngọn lửa chiến tranh dấy động bởi Cọng Sản miền Bắc dưới chiêu bài giải phóng đã đốt cháy tất cả vốn liếng vừa gom. Chúng ta hiểu tại sao những nguồn tư tưởng triết học vĩ đại của Trung Hoa rực sáng tiên phong suốt thời Ðông Chu Liệt Quốc chỉ để rồi trì trệ thụ động suốt hai ngàn năm sau đó. Chúng ta hiểu tại sao, đã gần thế kỷ qua và có thể còn lâu trong tương lai,Việt Nam vẫn chờ đợi một nhà thơ lớn, một nhà văn lớn, một tác phẩm lớn.
(Viết theo tài liệu từ Ðặc san "Trăm Hoa Ðua Nở trên đất Bắc", Tủ Sách Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa Sài Gòn, 1959)
Mười hai tháng cuối buồn vò võ
Chuyện năm qua buông bỏ nay mai
Tựa như phiến lá vàng phai
Theo luồng gió lạnh lạc loài phương xa
*
Toàn thế giới bước qua năm mới
Hai ngàn mười chín nới vòng tay
Thế nhân say xỉn, xỉn say
Gạo tiền điên đảo, đắng cay cuộc đời
*
Sương muối phủ đất trời lấp lánh
Hạt kim cương sóng sánh nẻo đường
Như thầm chờ đợi vách tường
Giăng đèn muôn sắc phố phường nở hoa
*
Hoàng hôn tắt mượt mà tỏa sáng
Chuông giáo đường loáng thoáng ngân vang
Con chiên ngoan đạo xếp hàng
Ðón mùa lễ hội râm ran tiếng cười
Từng cơn gió lạnh tru rít, ùa tràn khắp ngã đường. Hàng cây bên đường gật gù run rẩy như thầm báo hiệu, chủ nhà nên đóng cửa then cài kỹ lưỡng. Ðúng là mọi diễn biến đều tỉ lệ nghịch với mùa hè nóng cháy. Bao nhiêu áo mỏng mát mẻ bây giờ ngăn nắp lần lượt chui rút vào hộc tủ.
Áo khoác dầy với cái nón được chủ nhân nâng niu mang kè kè theo bên mình. Gió run rét làm tê buốt hai vành tai đỏ ửng, nếu không che chắn cho nhanh thì chóp đỉnh đầu có thể sẽ bưng bưng cảm lạnh. Cũng vì sợ bịnh nên tôi lúc nào cũng lề mề đèo theo chiếc áo dầy có cái hood dính toòng teng sau lưng. Nếu đang đi ngoài đường, luồng gió bấc thổi tạt bất ngờ, thì nhanh như cái máy, bàn tay vội vàng kéo ngược cái nón chụp lẹ lên đầu hầu ngăn cản anh chàng cảm cúm cứ ngông nghêu hăm he xâm nhập vào các cơ thể bèo nhèo.
Không những lo giữ ấm cho mình mà mỗi khi ra sân sau ngắm nhìn cây cảnh, tôi còn chu đáo tìm cách che chắn mấy cây ăn trái. Mình thương cây thì cây sẽ thương mình. Nghĩa là mình đắp mền cho cây, cây mới sống sót qua mùa đông băng giá. Mùa nào cũng chỉ có ba tháng dung dăng, đó là luật xoay vòng của khí hậu bốn mùa. Ðông đến rồi đông sẽ ra đi cho nàng Xuân yểu điệu bước vào vương cung.
Tiết trời tươi mát chào đón xuân sang thì cành nhánh xum xuê đâm chồi nẩy lộc. Vạn vật cựa mình hồi sinh sau ba tháng nhăn nhúm quyện mình ẩn kín trong sương muối và tuyết trắng lạnh căm căm. Chúng ta may mắn được uốn nắn thành con người có đầu óc bén nhạy biết xoay trở, săn sóc cho mình ấm áp để khỏi bịnh hoạn thì, cây cỏ cũng như con người mà thôi. Nắng xuân nồng ấm là chất nhựa hồi sinh tràn đầy năng lượng thúc dục lá non mạnh dạn bung xoè. Lá có xanh tươi hút nước mang về nuôi cành thì nụ búp no tròn trổ dáng đẹp xinh. Có nụ búp thì mới đậu trái cho ta an hưởng thú nhàn du.
Chiều chiều ra hứng gió trời
Lâng lâng ngắm lá lả lơi trên cành
Mùa xuân vạt nắng vàng hanh
Leo trèo thả sợi quấn quanh tỏ tình
Tôi thiết nghĩ, trên thế gian đầy hỉ nộ ái lạc, mỗi ngày có không biết bao nhiêu là chuyện tranh chấp, giết chốc lẫn nhau quá là run sợ. Khi nhìn cảnh buồn thê thảm đó, nếu ai có chút lương tri thì cũng đau lòng lắm. Không ai muốn chuyện không vui xảy đến với mình, chắc chắn mình cũng không gây tai họa nào đến cho người khác. Thân tâm an lạc sẽ cho ta giấc ngủ ngon. Nhất là mỗi sớm mai thức dậy, mắt còn trông thấy ánh bình minh cùng nghe tiếng chim líu lo trên mái nhà. Theo tôi, tiếng chim hồn nhiên ca hát cho lòng người thanh thản và đánh tan những ưu phiền. Ôi thôi, còn gì sung sướng và quí hơn nữa. Cám ơn đời cho ta một ngày nữa để yêu thương!
Tháng mười hai rộn ràng ngoài đầu ngõ, lôi cuốn chân người khoan khoái sắm sửa, chuẩn bị đi chợ mua thức ăn cho ngày họp mặt. Gia đình nào giàu có thì tổ chức linh đình rình rang bữa tiệc thịnh soạn, rượu vang khai mở nghe bốc bốc. Gia đình trung bình thì chung vui với nhau nhờ đậm tình yêu thương cho dù trong căn nhà nho nhỏ nhưng chan hòa niềm vui to lớn.
Hạnh phúc đến từ trái tim nồng ấm, nhìn ánh đèn chớp tắt đỏ, xanh, vàng lấp lánh cũng đủ vui rồi. Văng vẳng nhịp điệu du dương của bài thánh ca như ru người bay bổng theo tiếng chuông giáo đường đing đong?đing đong?vọng lại từ nhà thờ cuối phố chào mừng Chúa sanh ra đời.
Ðing đong .. đong đing
Chúc mừng Giáng Sinh
Cầu xin ơn phước
Vang lời thánh kinh
(Qua Tục Ngữ Ca Dao)
Phong tục tập quán là lối sống hay văn hóa của một dân tộc . Qua phong tục tập quán chúng ta biết dân tộc ấy quan niệm về cuộc sống như thế nào và chúng ta cũng biết trình độ văn hóa cùa dân tộc ấy cao hay thấp . Thói quen hay nhổ nước miếng bừa bãi của người Tàu hay thói quen của người Việt khi phụ nữ sanh con thì ở trong một buồng kín và đốt than cả tháng trời .
Một đàng thì dơ bẩn, mất vệ sinh, dễ truyền bệnh tật; một đàng thì làm tổn hại đến sức khỏe của người mẹ và trẻ sơ sinh khi phải hít thán khí do than thải ra . Nay người Tàu đã bớt khạc nhổ và người Việt đã bỏ hẳn tục đốt than trong phòng của phụ nữ khi sanh nở .
Nhưng người Việt chúng ta vẫn còn một số thói quen chưa hợp vệ sinh, dễ gây truyền nhiễm như gắp đồ ăn mời nhau hay dùng chung một chén nước mắm cho cả nhà, cho cả bàn tiệc có khi mười mấy người lúc ăn uống .
Tuy nhiên không phải tất cả phong tục của chúng ta đều xấu và trong phạm vi của đề mục chúng tôi chỉ đề cập đến một số phong tục tập quán được ghi nhận trong tục ngữ ca dao .
1 ? Liên Hệ Họ Hàng : Phong tục của chúng ta ngày xưa nếu người chị chết để lại con nhỏ thì người em gái săn sóc, cho bú mớn; nếu cha chết, mẹ đi lấy chồng hay cả hai cùng chết thì chú hay bác có bổn phận nuôi các cháu :
- Dì ruột thương cháu như con,
Rủi mà không mẹ, cháu còn cậy trông .
- Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì .
Cho nên dù phong tục Việt Nam coi trọng bên nội hơn họ bên ngoại của mẹ nhưng không vì thế mà họ bên mẹ bị bỏ quên :
Máu loãng còn hơn nước lã,
Chín đời họ mẹ hơn người dưng .
Khác với người phương Tây, người Việt coi con rể là ?khách? , ?con gái là con người tả . Người con gái đi lấy chồng thuộc về gia đình khác, họ khác, không còn thuộc về gia đình gốc của mình :
- Con gái là con người ta,
Con dâu mới thật mẹ cha mua về .
Từ những quan niệm ấy, người ta coi trọng họ cha hơn họ mẹ :
- Con cô, con cậu thì xa,
Con chú, con bác thật là anh em .
Do đó, con trai, con gái trong một họ xa bao nhiêu đời cũng không được lấy nhau . Ðây là phong tục có từ ngàn xưa, có lẽ do quan niệm ? cha sinh, mẹ dưỡng?, coi người đàn bà như thửa ruộng, còn đàn ông là người gieo hạt nên con cái mang dòng máu của người cha và bao nhiêu đời cũng vẫn giữ nguyên dòng máu ấy .
Khoa học hiện nay chứng minh rằng đứa trẻ được sinh ra mang 50% dòng máu của mẹ và 50% của cha . Cháu sinh ra mang 25% dòng máu của ông và của bà; đến chắt thì 2 dòng máu ấy chỉ còn 12,5% và chít là 6,25% . . . mỗi một thế hệ giảm đi ½ . Nên trong một gia đình, con cái người giống cha, người giống mẹ . Không chỉ giống về dáng dấp mà còn giống về cả tính tình . Trong sự pha hai dòng máu, chúng ta thấy rõ ràng nhất ở những người lai có cha mẹ là Âu-Á, Âu-Phi hay Á-Phi . . . .
Về hôn nhân thì cháu cậu, cháu cô, cháu bá, cháu dì không bị ngăn cấm :
- Cháu cậu mà lấy cháu cô,
Thóc lúa đầy bồ, giống má nhà ta .
- Cháu bá, cháu dì tù tì lấy nhau .
Nhưng con cô, con cậu, con bá, con dì không được kết hôn . Ðây là một điểm son trong phong tục Việt Nam dù đời xưa không biết gì về bệnh di truyền nhưng luân lý ngăn cấm :
- Vua chúa cấm đoán làm chi,
Ðể đôi con dì không lấy được nhau .
Khoa di truyền học cho biết những người họ gần lấy nhau, bệnh tật di truyền tiềm ẩn trong DNĂgene) của họ sẽ làm cho những đứa trẻ được sinh ra rất dễ mang bệnh của cha mẹ .
2 ? Tục cưới hỏi : Trong chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh chúng ta thấy vào đời vua Hùng đã có tục lệ nhà trai mang lễ vật đến nhà gái để làm đám cưới cho con trai của mình . Sơn Tinh nạp lễ cưới trước nên cưới được vợ, Thủy Tinh đến sau thất bại nên dâng nước lên cao và dùng thủy
quái đánh nhau với Sơn Tinh . Nước dâng cao thì núi cũng dâng cao . Cuối cùng Thủy Tinh bỏ cuộc .
Lễ cưới gồm những gì ?
Dưới đây là những lời đôi trai gái trao đổi với nhau về chuyện cưới hỏi của họ :
-Em về thưa mẹ cùng thầy,
Có cho anh cưới tháng này anh ra .
- Anh về thưa mẹ cùng cha,
Bắt lợn sang cưới, bắt gà sang sêu .
- Chắc như lời ấy không sai,
Tháng giêng đẵn gỗ, tháng hai làm nhà .
Tháng ba ăn cưới đôi ta .
Thường nhà gái, qua mai mối hay trực tiếp, yêu cầu nhà trai nạp những lễ vật để nhà gái làm tiệc mời họ hàng trong ngày cưới như bao nhiêu tiền, bao nhiêu thúng gạo, bao nhiêu chai rượu, bao nhiêu gà, lợn, cau, trầu . . . :
-Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em bắt được thì cho anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà ?
Aó anh sứt chỉ đường tà,
Vợ con chưa có, mẹ già chưa khâu .
Áo anh sứt chì đã lâu,
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng .
Khâu rồi anh sẽ trả công,
Ðến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho .
Những thứ được đề nghị giúp là những lễ vật để làm lễ cưới :
- Giúp cho một thúng xôi vò,
Một con lợn béo, hai vò rượu tăm .
Giúp cho đôi chiếu em nằm,
Ðôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo .
Giúp cho quan tám tiền treo,
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau .
Và sau đây là một bài ca dao tuy là vui đùa nhưng cho ta biết tục cưới xin ngày xưa :
- Em là con gái nhà giàu,
Mẹ cha thách cưới ra màu xinh sao .
Cưới em trăm tấm gấm đào,
Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời .
Tráp tròn dẫn đủ trăm đôi,
Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng . . . .
Cưới em chín chĩnh mật ong,
Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò .
Cưới em tám vạn trâu bò,
Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm . . . .
3 - Liên hệ vợ chồng : Trong xã hội xưa, do ảnh hưởng của đạo Khổng, người đàn bà bị đặt ở vị trí thấp kém như không được thi cử, không được bổ nhiệm giữ những chức vụ trong triều đình, trong làng xã . Trong gia đình tuy được gọi là nội tướng nhưng luôn luôn lệ thuộc vào người chồng :
- Thuyền theo lái, gái theo chồng .
- Thuyền mạnh về lái, gái mạnh về chồng .
- Con vua lấy thằng bán than,
Nó đem lên ngàn cũng phải đi theo .
- Con ông đô đốc, quận công,
Lấy chồng cũng phải gọi chồng bằng anh .
Dưới con mắt của những người theo đạo Khổng, người đàn bà bị coi là thấp kém . Họ phải làm những công viêc như nấu ăn, rửa bát, giặt quần áo, quét nhà . . . là những việc mà nếu người đàn ông làm thì bị coi là người hèn hạ :
- Ðàn ông rửa bát, quét nhà,
Vợ gọi thì dạ, thưa bà có tôi .
Người đàn bà Trung Hoa xưa hoàn toàn lệ thuộc vào người chồng, con cái họ sinh ra là của người chồng, tài sản họ làm ra cũng thuộc người chồng . Người chồng có quyền bán, cho, bỏ (ly dị) bất cứ lúc nào không cần có lý do và không được chia tài sản chung .
Trong hai thiên Lục Y và Cốc Phong của Kinh Thi do Khổng Tử biên soạn, những người đàn bà lấy chồng từ tấm bé, vất vả tạo dựng cơ nghiệp chung đến lúc có tuổi, nhan sắc không còn bị chồng duồng bỏ lấy vợ khác, đã nói lên những lời oán hận, cay đắng cùng cực của mình, không coi ?Tam tòng, tứ đức? vào đâu cả :
- Sông Kinh leo lẻo bến trong,
Vì có sông Vị cho dòng đục thay .
Mày vui vợ mới của mày,
Chẳng thèm cùng với ta đây làm gì .
- Xưa kia còn nhớ những ngày,
Khó khăn lo sợ có mày có ta .
Bây giờ khốn khó đã qua,
Nỡ đem của độc coi ta, hỡi mày .
- Mày vui vợ mới của mày,
Có ta chỉ để những ngày khó khăn .
Cho ta những việc nhọc nhằn,
Lại còn giận dữ cục cằn làm chi .
Mày sao chẳng nhớ từ khi,
Ấy như từ thuở ta về ở đây .
(Kinh Thi, Thiên Cốc Phong, trg 140, Tản Ðà và Nghiêm thượng Văn dịch, Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP/HCM tái bản năm 2012) .
Ðàn bà không có quyền thừa kế gia tài của cha mẹ, không có quyền cúng giỗ cha mẹ, tổ tiên . Họ không có tư cách pháp lý mà luôn luôn bị đặt dưới sự bảo trợ của người cha, người chồng hay người con trai :
- Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử (ở nhà phục tùng cha, lấy chồng phục tùng chồng, chồng chết phục tùng con ) .
Ở Việt Nam, bộ luật Hồng Ðức đời vua Lê thánh Tông (1460-1497) còn giữ phong tục tập quán của người Việt . Theo đó, người đàn bà được hưởng gia tài cha mẹ để lại, được cúng giỗ cha mẹ nếu cha mẹ không có con trai, người chồng muốn bỏ vợ phải có lý do . . . .
Sau này khi đạo Khổng thấm sâu vào tầng lớp cai trị thì luật lệ cũng bị ảnh hưởng, như trong bộ luật đời vua Gia Long nhà Nguyễn người đàn bà không còn những quyền ấy, họ bị xếp ngang hàng với người đàn bà Trung Hoa .
4 ? Mẹ chồng nàng dâu : Cảnh mẹ chồng nàng dâu hiện nay chỉ còn vang bóng . Nhưng sáu, bảy chục năm trước, những cụ bà nay ở tuổi tám, chín mươi nhiều người vẫn còn bị mẹ chồng hành hạ :
- Cô kia đội áo đi đâu ?
- Tôi là phận gái làm dâu mới về .
Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê,
Tôi ở chẳng được, tôi về nhà tôi .
Vì có những người mẹ chồng cho rằng :
- Mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng,
Mất tiền mua mủng thì đựng cho mòn,
Mất tiền mua con thì đập cho chết !
Người ta quan niệm ?mua con dâủ về để phục vụ nhà chồng nên người con dâu bị coi như con ở không công . Ngoài mẹ chồng ra còn bị chị gái, em gái chồng bắt nạt :
- Một trăm ông chú không lo,
Lo vì một nỗi mụ o nỏ mồm .
Người con dâu bị mẹ chồng hành hạ nên luôn luôn có tâm trạng sợ hãi:
- Bắt chấy cho mẹ chồng, trông thấy bồ nông dưới biển .
Và chán ngán, không muốn sống chung với mẹ chồng :
- Ðói thì ăn khế, ăn sung,
Trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi .
Người xưa cho rằng ?Trước làm nàng dâu, sau mới làm mẹ chồng? nên xã hội chấp nhận, nhìn cái cảnh ấy một cách bàng quan, không phê phán :
- Thật thà cũng kể lái trâu,
Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng .
- Mẹ chồng nàng dâu,
Chúa nhà, người ở khen nhau bao giờ .
Hoặc chỉ phê phán rất nhẹ :
- Muốn nói không làm mẹ chồng mà nói .
Bởi được xã hội chấp nhận nên cái vòng luẩn quẩn mẹ chồng nàng dâu kéo dài không biết bao nhiêu đời, lặp đi lặp lại (khi người con gái làm dâu bị hành hạ, tủi nhục nhưng khi lên làm mẹ chồng lại hành hạ, áp bức vợ của con trai mình) .
5 ? Nam tôn nữ ty : Nam tôn nữ ty là trọng nam khinh nữ . Quan niệm này được những xã hội theo đạo Khổng đem ra áp dụng một cách triệt để :
- Khôn ngoan cũng thể đàn bà,
Dẫu rằng vụng dại cũng là đàn ông .
Hay:
- Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô . ( một con trai viết có con, mười con gái viết không )
- Thứ nhất đẻ con trai, thứ hai đỗ ông nghè .
Sự tai hại của lối sống, lối suy nghĩ ấy là nếu người đàn bà không sanh được con trai để nối dõi tông đường cho nhà chồng thì bị ghét bỏ và nhiều khi những đứa trẻ sơ sinh là con gái bị đem đi cho người khác hay bị bỏ ra ngoài đường, bị bóp mũi cho chết . . . .
6 ? Hội hè : Ngày xưa ở Việt Nam có nhiều lễ tết tổ chức vào những ngày tháng âm lịch . Tết lớn nhất là tết Nguyên Ðán vào ngày 1 tháng giêng và kéo dài trong 7 ngày . Ðây là những ngày cúng mời tổ tiên về ăn tết với con cháu, ngày sum họp của gia đình, ngày đi thăm viếng thân nhân, bạn bè để chúc những điều may mấm, tốt đẹp cho nhau trong năm mới . Tháng giêng cũng là tháng mở đầu các lễ hội :
- Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè . . . .
Tết mồng 5 tháng 5, tết mồng 10 tháng 10: ăn mừng vụ chiêm và vụ mùa . Tết 15 tháng7 : Xá tội vong nhân, ngườt ta lên chùa để cầu cho những người đã chết được siêu thoát . Tết 15 tháng 8 còn gọi là tết Trung Thu . Buổi tối người ta trưng đèn kéo quân và thanh niên nam, nữ tụ ở nhừng nơi ngã ba, ngã tư đánh trống quân và ca hát; người già thì đem bàn ghế, bánh kẹo ra sân vừa thưởng thức vừa ngắm trăng để đoán thời tiết mưa nắng cho vụ lúa chiêm sắp tới ;
- Lúa tháng 5 trông trăng rằm tháng 8 .
Trăng mờ, vụ chiêm ít mưa, không thuận tiện; trăng tỏ thì ngược lại :
- Trăng mờ cày nỏ, trăng tỏ cày rầm .
Ngoài những ngày lễ hội của toàn quốc, mỗi làng lại có những lễ hội riêng, nhưng lớn và quan trọng nhất là lễ tế thành hoàng của làng để cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, dân làng an vui . Thành hoàng là những vị anh hùng có công với đất nước như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, vua Ngô Quyền, đức Trần Hưng Ðạo, Phạm ngũ Lão . . . hay những người người ta cho là chêt vào ngày, giờ thiêng :
- Lệnh làng nào làng ấy đánh,
Thánh làng nào làng ấy thờ .
- Mười bốn tháng ba,
Trở vào hội Láng, trở ra hội Thày (Làng Láng Hạ thuộc Phủ Hoài Ðức Tỉnh Hà Ðông và chùa Thày ở chân núi Sài, Phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây) .
- Dù ai buôn bán đâu đâu,
Mồng mười tháng 8 chọi trâu thì về .
- Kẻ Dầu có quán Ðình Thanh,
Kẻ Hạc ta có Ba Ðình, Ba Voi .
Tháng tám kéo thuyền xuống bơi,
Mười chín giã bánh, hai mươi rước thần .
Trong những ngày lễ, ngoài tiệc tùng ăn uống còn có các trò chơi như đua thuyền, đánh vật, đánh đu, đánh cờ người ( 32 người mặc áo như vua, quan, lính . . . chia làm hai phe và đúng và vị trí của bàn cờ tướng và di chuyển theo lệnh của hai đối thủ) cùng với tổ chức hát chèo, hát nhà trò hay hát xẩm .
7 ? Tục ăn trầu : Theo truyền thuyết, tục ăn trầu có từ đời vua Hùng Vương thứ IV (4) với truyện Trầu Cau chúng ai cũng biết . Hai anh em Tân (anh) và Lang giống nhau như đúc, tới học tại nhà đạo sĩ họ Lưu . Con gái đạo sĩ yêu và lấy Tân . Tân để tâm vào việc săn sóc vợ làm người em là Lang bỏ nhà ra đi tới con suối rộng không qua được thì ngồi bên bờ buồn bã chết biến thành tảng đá . Tân không thấy em, đi tìm tới đó chết biến thành cây cau . Người vợ không thấy chồng lên đường đi tìm tới đó chết thành cây trầu quấn vào thân cây cau . Một hôm đi tuần tra qua đó nghe được câu chuyện, vua Hùng xúc động trước tình nghĩa thắm thiết của anh em, tình nghĩa chung thủy sắt son của vợ chồng thì sai lấy lá trầu và hái trái cau bỏ vào miệng nhai thử một lát nhổ ra thấy sắc đỏ tươi . Vua bèn ra lệnh lấy trầu, cau, vôi nung từ đá để ăn vào những dịp cưới xin, lễ bái trong cả nước . Ðây là truyền thuyết giải thích thói quen ăn trầu của người Việt .
Trên thực tế có nhiều nơi cũng có tục ăn trầu giống chúng ta như Mã Lai, Ðài Loan và những tỉnh miền nam Trung Hoa . . . .
Tục ăn trầu là một nét văn hoá trong nhiều sinh hoạt của người Việt xưa như khách, dù khách là đàn ông hay đàn bà, tới thăm nhà thì chủ nhà đem cơi trầu mời khách vì ?Miếng trầu là đầu câu chuyện ?.
Trong lễ lạt, tết nhất luôn luôn có trầu cau cho mọi người ăn, nhất là trong việc cưới xin thì trầu cau là lễ vật không thể thiếu và không có gì thay thế được .
Trong tình yêu, người con trai dùng trầu cau để làm quen :
- Sáng ngày ta đi hái dâu,
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn . (bàn đá)
Hai anh đứng dậy hỏi han,
Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu ?
- Thưa rằng tôi đi hái dâu .
Hai anh mở túi đưa trầu cho ăn .
- Thưa rằng bác mẹ tôi răn,
Làm thân con gái chớ ăn trầu người .
Hay :
- Trầu bọc khăn trắng cau tươi,
Trầu bọc khăn trắng đãi người xinh xinh .
Ăn cho nó thỏa tâm tình,
Ăn cho nó hả sự mình sự ta .
Và người con gái ngày xưa cũng mời người con trai ăn trầu để làm quen :
- Vào vườn hái quả cau xanh,
Bổ ra làm tám mời anh xơi trầu .
Trầu này têm những vôi Tàu,
Giữa đệm cánh cát, hai đầu quế cay .
Trầu này ăn thật là say,
Dù mặn, dù lạt, dù cay, dù nồng .
Dù chẳng nên đạo vợ chồng,
Xơi năm ba miếng kẻ lòng nhớ thương .
Cầm lược thì nhớ đến gương,
Cầm khăn nhớ túi, nằm giường nhớ nhau .
- Trầu này trầu quế, trầu hồi,
Trầu loan, trầu phượng, trầu tôi, trầu mình .
Trầu này trầu tính, trầu tình,
Trầu nhân, trầu ngãi, trầu mình lấy ta .
Trầu này têm tối hôm qua,
Trầu cha, trầu mẹ đem ra cho chàng .
Trầu này không phải trầu hàng,
Không bùa, không thuốc sao chàng không ăn ?
Hay là chê khó, chê khăn,
Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu .
Qua những bài ca dao trên, chúng ta thấy người con gái bạo dạn hơn con trai và ngày xưa người con gái cũng có thể nói những lời tỏ tình trước, không phải như sau này người con trai luôn luôn
chủ động trong việc tỏ tình .
Tuy không còn nhiều người ăn trầu nhưng trong việc cưới xin ngày nay, trầu cau là một nghi thức vẫn được gìn giữ .
8 - Những phong tục tập quán đã bị mai một :
Qua tục ngữ ca dao chúng ta tìm thấy một số tập quán chỉ ra lối sống của người xưa :
- ?Ăn sống nuốt tươỉ, ? Ăn lông ở lỗ?: Hai câu này diễn tả cách sống của loài người thủa hoang sơ, không phải chỉ riêng lối sống của tổ tiên người Việt chúng ta .
Cách đây mấy triệu năm, con người rời khỏi núi rừng ra sống ở những bình nguyên và cũng là lúc rời khỏi đời sống hoang dã của loài thú để dần dần tiến hoá tới cuộc sống văn minh . Nhưng vào thời đó, tổ tiên chúng ta chưa biết dùng lửa nấu ăn nên vẫn ?Ăn sống nuốt tươỉ; chưa biết làm nhà cửa để ở mà ở trong các hang động để tránh thú dữ, mưa nắng trong tình trạng ?Ăn lông ở lỗ ? . Nhưng cách sống ấy đã biến mất khi con người biết dùng lửa nấu ăn và biết làm nhà để ở .
Ngày nay hai câu nói trên được dùng để chê bai những người có lối sống thô lỗ, kém văn minh : ?Thứ ăn lông ở lỗ?, ?Thứ ăn sống nuốt tươỉ .
- Cách ăn mặc xưa : Vào thời ?Ăn lông ở lỗ?, con người chưa có gì để che thân và có thể qua cả hàng triệu năm mới biết dùng những tấm da thú dày và cứng như mo che thân thể và chống cái nóng, cái lạnh của thiên nhiên . Mãi về sau mới tiến tới dùng sợi dệt vải và may quần áo nhưng sự sản xuất rất hạn chế, chắc chỉ có vua chúa, tù trưởng mới mặc cả quần và áo còn đa số đàn ông thì đóng khố; đàn bà mặc váy và đeo yếm trước ngực, không mặc áo . Yếm may bằng một miếng vải hình vuông, một góc khoét hình tròn gắn hai cái dải hai bên để cột đeo lên cổ, góc đối diện thả xuống quá thắt lưng, hai góc còn lại gắn dải để cột sau lưng:
- Ðàn ông đóng khố đuôi lươn,
Ðàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh .
-Tục nhuộm răng : Tục nhuộm răng có từ lâu đời và không thấy có truyền thuyết nào giải thích tục này như tục ăn trầu . Không phải chỉ riêng người Việt nhuộm răng, người Nhật, Mã Lai, Nam Dương và người miền nam Trung quốc ngày xưa cũng có tục này .
Ở miền Bắc, tục nhuộm răng đến khoảng những năm 1950 thì chấm dứt, ở miền Nam không biết bỏ từ bao giờ .
Cũng như tục ăn trầu, tục nhuộm răng là một nét văn hóa trong đời sống của dân tộc được nhắc đến rất nhiều trong tục ngữ ca dao :
- Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên .
Ba thương má lúm đồng tiền,
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém xa .
Năm thương cổ yếm đeo bùa,
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng . . . .
- Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
Bõ công trang điểm má hồng răng đen .
Khi lấy phải người chồng không xứng đáng, người đàn bà than thở :
- Cổ tay em vừa trắng vừa tròn,
Răng đen rưng rức chồng con kém người .
Khốn nạn thay nhạn ở với ruồi,
Tiên ở với cú, người cười với ma .
- Tục Khao Cử : Khao cử khởi đầu là tiệc ăn mừng khi một người đỗ đạt, được bổ nhiệm hay thăng chức . . làm tiệc mời bà con dân làng tới dự rồi lâu dần biến thành hủ tục do tính đua đòi, khoe khoang muốn nở mày nở mặt với thiên hạ . Ở nông thôn ngày xưa khao cử là một tai hại . Người ta tranh giành nhau để có một chút chức vị trong làng, được tham dự việc làng :
- Có ăn có chọi mới gọi la trâu .
- Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp .
Những người không có khả năng tranh giành thì mua những chức vị suông, không có thực quyền do làng xã bán khi cần tiền như tiên chỉ, lý trưởng, phó lý, nhiêu , xã, trương tuần . . . . Mua xong rồi khao dân làng ăn uống một, hai ngày có khi tới ba, bốn ngày rất tốn kém nên nhiều người phải bàn cả ruộng vườn chỉ vì khao cử :
- Bán gia tài mua danh diện hão .
Ngày nay hủ tục đua đòi, hãnh diện ấy biến sang tiệc cưới, sinh nhật, ma chay, giỗ chạp . . . với hàng năm, bảy trăm người tụ tập ăn uống không khác gì thời trước .
ANH VẪN VỀ THEO DÒNG LỆ EM TIẾC NUỐI
Em nói với tôi rằng... "muốn có một đứa con"
Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm
Năm tháng dáng hình em hiển hiện
Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi !
Người thục nữ tôi yêu
những năm cuối cuộc đời
Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ
Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ
Ðể hồn anh siêu thoát dưới trời âm.
Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn
Tóc cũng bạc đôi phần
dẫu tim còn khao khát
Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức
Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu...
Thì đời này - em ạ, có trớ trêu
Nhưng ta đã bên nhau sưởi ấm mùa đông rét
Anh hôn lên đôi môi em
như một vầng trăng khuyết
Thấy cả bầu trời du ngoạn cõi hồn xanh.
Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim
Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt
Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát
Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em !
Chỉ hóa kiếp mình tiếp cuộc trường sinh
Cùng thi ca,
anh sẽ sống muôn đời trong nhân thế
Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ
Với mối tình nồng thắm của em yêu !
Nếu giây phút nào em lạc bến cô liêu !
Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng
Hãy tìm đến nấm mồ anh miền xa vắng
Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau.
Anh thương em đời gặp cảnh bèo dâu
Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục
Thời trai trẻ phong trần qua chiến tranh loạn lạc
Khi tuổi già có vợ vẫn cô đơn !
Anh tìm đến em
lúc đã tàn úa mái đầu xanh
Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới
Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối
Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu...
PHẠM NGỌC THÁI
Chiều thu năm Mậu Tuất
Hà Nội 6.9.2018
Cô giáo Nguyễn Thị Xuân
LỜI BÌNH: Có lẽ đã qua hơn nửa thế kỷ, từ khi trên thi đàn Việt xuất hiện bài thơ tình nổi tiếng: "Hai sắc hoa ti-gôn" của một nữ sĩ ẩn danh, gọi tắt là T.T.KH - Ðến nay, lại mới có một áng thơ tình của một nhà thơ đương đại, trong giới văn chương rất quen biết, đó là Phạm Ngọc Thái ! Thơ ca của anh trên văn đàn cũng được nhiều độc giả ngưỡng mộ.
"Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối" mà anh mới cho ra đời trên các trang mạng Việt, đã được đông đảo bạn đọc đón nhận và ca ngợi. Nói một cách công minh: với những ai yêu thích thơ ca, kể cả người khó tính nhất cũng phải khen. Là một nhà giáo làm công tác văn chương, vì quá yêu thích bài thơ tình này - Tôi xin được mang chút kiến thức văn học để luận bình bản tình ca, với độ hay tôi đánh giá là một thiên kiệt tác thơ tình !
Thiên tình ca "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối" được chia thành chín đoạn, cả thảy ba mươi sáu câu. Tức là, một bài thơ khá dài. Cảm xúc thơ dồn dập chảy trào ra trong trái tim thi nhân, được bắt đầu bằng lời thổ lộ của người tình gái qua ước muốn của nàng. Ðọc thơ ta tưởng cứ như là câu chuyện tình đêm khuya, thường phát trên Ðài tiếng nói Việt Nam:
Em nói với tôi rằng... "muốn có một đứa con"
Trong tình yêu của người đàn bà, mong muốn có một đứa con... là ước nguyện máu thịt với cả cuộc đời.
Ở trong bài "Hai sắc hoa ti-gôn" nữ sĩ T.T.KH cũng từng mô tả hình ảnh của người tình trong mộng, một thưở xa xưa đã bộc lộ tình cảm yêu thương với mình, rằng:
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng: ?Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!?
Còn trong bài "Anh sẽ về theo dòng lệ em tiếc nuối": Ðó không phải chỉ là tâm tình, khát vọng của ái nữ khi nàng mong muốn có một đứa con kỉ niệm mối tình chung của hai người, mà cũng đã hòa trong dòng lệ yêu thương của chàng. Ta nghe, nhà thơ bộc bạch niềm tâm tư sâu kín ấy:
Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm
Năm tháng dáng hình em hiển hiện
Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi !
Nàng đã trở thành ngọn lửa để sưởi ấm trái tim chàng. Ðây là mối tình của buổi "chiều cuộc đời", và lại phải sống cách xa nhau - Như tác giả viết:
Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn
Tóc cũng bạc đôi phần
dẫu tim còn khao khát
Và anh thổ lộ:
Người thục nữ tôi yêu
những năm cuối cuộc đời
Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ
Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ
Ðể hồn anh siêu thoát dưới trời âm.
Câu chuyện tình có vẻ lâm ly. Anh yêu nàng mãn đời, mãn kiếp, cho tới khi chỉ còn là một nấm mồ xanh cỏ - Chà, thơ thật là đẫm lệ ! Tình đời của dòng thơ này chảy ra thấm đẫm máu tim và chất chứa tính nhân văn... trở thành một câu chuyện tình không khác gì truyền thuyết. Với một nhà thơ dành cả cuộc đời để sáng tác thi ca như anh - Tôi thiết nghĩ, không mong ước gì hơn thế nữa ! Thiết tưởng, bất cứ nhà thơ nào cũng phải ao ước mình sáng tác được một bài thơ như vậy. Ngẫm rằng, họ thương yêu nhau không chỉ đến bạc đầu, mà hóa thành kiếp khác vẫn còn yêu:
Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức
Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu...
Sợ người yêu khi đó sẽ tủi lòng vì phải sống trên đời này một mình, chàng còn an ủi và dặn dò:
Thì đời này - em ạ, có trớ trêu
Nhưng ta đã bên nhau sưởi ấm mùa đông rét
Anh hôn lên đôi môi em
như một vầng trăng khuyết
Thấy cả bầu trời du ngoạn cõi hồn xanh.
Cái hình ảnh đôi môi của người yêu như một vầng trăng khuyết, trong thi ca xưa nay, tôi chưa từng thấy ai ví thế ! Một hình ảnh mỹ học thật cao siêu. Mang hình ảnh trời đất để ví với đôi môi của người yêu, đẹp một cách tuyệt vời ! Lại nữa, anh hôn lên đôi môi nàng... thấy cả bầu trời du ngoạn ở trong hồn. Thơ thăng hoa tới tột đỉnh, hình tượng cao đẹp mà vẫn đời.
Ở trong bài thơ "Người đàn bà trắng" - Tôi đã thấy nhà thơ Phạm Ngọc Thái, từng đem hình ảnh trời đất để tả người yêu rất hay:
Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời
Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
Ðôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng !
Còn khi anh nói về "cái ấy" của nàng:
Chùm trinh em hát: Ðấy chỗ thiên thai !
Người đàn bà ai mà định nghĩa ?
Ðại văn hào Lép Tôn - xtôi từng nói về người đàn bà, đại ý thế này: Người đàn bà không thể định nghĩa, mà chỉ có sự tìm tòi... tìm tòi và tìm tòi mãi... - Phải chăng Người muốn nói về sự bí hiểm, đến mức kỳ diệu và vĩ đại của "cái ấy" đàn bà !?
Rồi, cũng trong bài thơ "Người đàn bà trắng", Phạm Ngọc Thái đã kết:
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng
Nhà phê bình, nghiên cứu văn học thuộc Viên "Ngôn ngữ và Văn hóa dân gian" Trần Tứ Ðức, bình phẩm về hình tượng câu thơ "... ngậm cả vầng trăng" như sau:
- Ðây là một câu thơ siêu thực, chứa đầy trầm tích đã được thăng hoa. Một thiên tạo vĩ đại đang nép trong tấm thân người đàn bà, hay chính nàng là một vầng trăng ? Cái vầng trăng ấy của nàng, nó cứ nguyên thủy như hang động thời tiền sử lại huyền bí như thánh linh...
"vầng trăng" là nguyệt, mà "nguyệt" chính là "cái ấy" - Ðấy, nhà thơ đã mô tả về cái của người đàn bà như thế !
Trong đời thi ca Phạm Ngọc Thái, bài thơ "Người đàn bà trắng" đã rất có danh tiếng trên văn đàn và được đánh giá cao ! Song, theo nhận định của tôi: Thiên tình ca "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối", còn có thể hay hơn, hấp dẫn hơn... chinh phục trái tim đời. Ðộ hay trong tính nghệ thuật thi ca của mỗi bài khác nhau, nhưng chí ít đều đạt là hai tình thơ tuyệt tác của nền văn học.
Tôi nói về đoạn thơ thứ tư:
Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim
Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt
Giọt nước mắt của đàn bà có thể làm xiêu đổ anh hùng. Trong truyên Kiều: Khi Từ Hải chết đứng, hai mắt mở trừng trừng không nhắm lại được... phải đến lúc, Kiều đến ôm chàng mà than:
Khóc rằng: "Trí dũng có thừa,
"Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này!
"Mặt nào trông thấy nhau đây?
"Thà liều sống thác một ngày với nhau!"
Dòng thu như dội cơn sầu,
Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
Lạ thay oan khí tương triền!
Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra.
Còn trong thiên tình ca này, nhà thơ Phạm Ngọc Thái nói với nàng rằng:
Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát
Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em !
Chỉ hóa kiếp mình tiếp cuộc trường sinh
Cùng thi ca,
anh sẽ sống muôn đời trong nhân thế
Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ
Với mối tình nồng thắm của em yêu !
Chàng sống mãi với đời và trong tình yêu của nàng. Họ gắn bó rồi yêu nhau, cảm thông cuộc đời của nhau:
Anh thương em đời gặp cảnh bèo dâu
Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục
Thời trai trẻ phong trần qua chiến tranh loạn lạc
Khi tuổi già có vợ vẫn cô đơn !
Chỉ 4 câu thơ thôi, mà tưởng như diễn giải cả một thiên tiểu thuyết. Trong thiên tình ca "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối, ta thấy thi nhân còn để lại những lời dặn dò, nhắn nhủ người yêu thật máu tim...
Ðọc đoạn thơ thứ bảy giống như một lời trăng trối, tôi bỗng liên tưởng tới những vần thơ nổi tiếng của thi hào Nga vĩ đại Pushkin, khi Người nhắn gửi tới người tình:
Nhưng nếu gặp ngày buồn rầu đau đớn
Em thầm thì hãy gọi tên lên
Và hãy tin còn đây kỷ niệm
Em vẫn còn sống giữa một trái tim.
Hay thi nhân Hàn Mặc Tử, đã để lại những lời trăng trối cuối cùng cho người yêu:
Anh trút linh hồn giữa lúc đây
Gió sầu vô hạn nuối trong cây
Còn em sao chẳng hay chi cả
Xin để tang anh đến vạn ngày
(Trút linh hồn)
Thi nhân Phạm Ngọc Thái thì viết:
Nếu giây phút nào em lạc bến cô liêu !
Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng
Hãy tìm đến nấm mồ anh miền xa vắng
Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau.
Ðọc đến những dòng thơ này, tôi đã khóc - Tưởng như, trên đời này cũng chỉ yêu nhau đến thế là cùng ! Ðoạn thơ kết cũng thật là cảm động, một lần nữa thi nhân thổ lộ cõi lòng tha thiết trong buổi hoàng hôn của đời mình:
Anh tìm đến em
lúc đã tàn úa mái đầu xanh
Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới
Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối
Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu...
Dòng thơ đã đưa ta đi đến cõi vĩnh hằng của tình yêu ! Trong thơ hiện đại Việt Nam, tôi chưa từng được đọc bài thơ nào quyến rũ và hay như bài này. Tôi thiết nghĩ - "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối" của thi nhân Phạm Ngọc Thái, xứng đáng là một thiên kiệt tác thơ tình bất hủ với ngàn năm văn hiến Thăng Long !
Hà Nội , đầu đông 2018
NGUYỄN THỊ XUÂN
GV văn Trường THPT Ba Ðình, Hà Nội
Truyện ngắn
Sống trong một xã hội với mọi giá trị đạo đức đều đang lao dần xuống vực thẳm, con người không còn nhân tính, vật chất thi nhau chạy vào tay tư bản đỏ, người dân bán cả nội tạng để nuôi đảng, tuổi trẻ bị ru ngủ bởi những sa đọa của rượu bia, ma túy vì những con người cộng sản mà trong một khu làng nhỏ ở miền Trung nghèo nàn vẫn còn có những gia đình gốc lính VNCH cố gắng giáo dục con cái theo đường hướng nhân bản đã được thừa hưởng từ cha mẹ; nhờ thế chàng và nàng mới có dịp kết thân và được gia đình hai họ kết hợp nghĩa Ðá Vàng ở tuổi bốn mươi.
Trong trăm ngàn bể khổ phải vượt qua để sinh tồn, hai vợ chồng son đã cố gắng dành cho nhau những ấm áp đơn sơ, dù phải vật lộn quá khó khăn trong cái vòng kim cô Tam Vô luôn sẵn sàng xiết bể đầu họ với những tội danh bất công phi lý vì lý lịch Quốc Gia đậm nét mấy đời. Bởi thế họ phải thay tên, đổi họ, trốn vào Sài Gòn sinh sống và nhờ được nâng đỡ bởi những người bạn đồng minh Mỹ từng chiến đấu chung với cha anh, mà họ được nhận vào làm cho hai công ty Ý và Canada.
?? ??
Giỏi ngoại ngữ và là người yêu thơ văn nhưng không hiểu sao chàng không ưa hội họa, vậy mà chỉ vừa ra riêng được vài tháng là cô vợ đã khoe chồng cả một gia tài tranh to, tranh nhỏ đủ màu sắc do nàng vẽ. Chàng không hiểu gì hết nên không thể chia sẻ được gì nhưng tôn trọng người phối ngẫu nên chàng rất thông cảm với niềm đam mê ấy, chỉ lo cho sự an nguy của nàng vì khuynh hướng sáng tác cũng y như chàng và thân phụ hai bên: lúc nào cũng hừng hực lửa đấu tranh chống lại bọn tà quyền.
Sau khi không may mất đi đứa con duy nhất, thấy vợ thường buồn bã, chàng luôn tế nhị dành riêng cho nàng một khoảng không gian và thời gian thoải mái trong sáng tác, chỉ nhỏ nhẹ yêu cầu:
-Vẽ gì thì cứ vẽ nhưng cô nương đừng treo tranh gì trong phòng ngủ và những góc riêng của anh nghe! Ngoài ra phải cẩn thận, đừng để tụi Cộng thấy được thâm ý của tác giả trong tranh.
Ngày kỷ niệm 5 năm cưới nhau, nhân dịp trở về Quảng Nam chàng đã chụp cho hai vợ chồng một số ảnh bên những luống hoa mai vàng rực cả con đường làng, trong đó có một tấm trông hai người âu yếm, vui vẻ và tình tứ như ngày mới yêu, khiến chàng tâm đắc vô cùng nên đã đặt tên tấm ảnh là ?Hạnh Phúc?.
?Hạnh Phúc? dưới mắt nàng thật tuyệt vời với nét mộc mạc đáng yêu của quê ngoại Phú Bông, ghi lại khoảnh khắc tươi tắn của nàng bên anh chồng lí lắc, nên nhân dịp sinh nhật chàng năm đó rơi trúng vào Mồng 5 Tết Âm Lịch, nàng đã dành cho chàng một món quà bất ngờ:
?Hạnh Phúc? được phóng ảnh thật to và đặt trang trọng vào một cái khung gỗ có họa tiết trang nhã, chạm trổ những đường nét bay bướm của người thợ khéo tay có xuất xứ từ Bảo An, quê nội của chàng (nàng đã phải hì hà, hì hục đóng đinh nhỏ, tháo đinh trung, đổi đinh lớn.v.v? rồi cứ thế mà tháo ra, đóng vào vất vả lắm mới thượng được tấm hình tươi vui ấy lên vách tường của giường ngủ, ở vị trí tương đối vừa óc thẩm mỹ).
Chao ơi! Còn gì ý nghĩa hơn món quà sinh nhật mang cả một kỷ niệm đẹp: hình chụp ở quê Ngoại được che chở trong cái khung đẹp đẽ từ quê Nội ngày đầu Xuân! Nàng hồi hộp ngắm và chờ đợi sự ngạc nhiên của chồng bằng tất cả niềm nôn nao, hào hứng cho đến khỉ ánh mắt chàng lần đầu tiên chạm vào ?Hạnh Phúc? với ?chiếc áo mớỉ: chỉ một thoáng chau mày ngắn ngủi thôi, rồi càng ngắm chăm chú, chàng nhiếp ảnh gia tài tử càng thấy vui vui với chút niềm hãnh diện được cô họa sĩ chuyên nghiệp chia sẻ chút tài mọn.
Chẳng biết là nhờ quê Ngoại của chàng rực rỡ quá dưới ánh nắng tô đậm sắc mai lóng lánh đầu xuân đang rực vàng cả căn nhà hay nhờ nụ cười hiền hòa mang nét đẹp của cô con gái Hội An trong tà áo dài lụa trắng trinh nguyên đang được chồng ôm hôn bên cạnh mà trông ?Hạnh Phúc? tràn đầy ý nghĩa của cái tên nó đã được khai sinh? Chàng cười cười tự? chê:
-Không đâu! ?Người đẹp nhờ lụả, bóng (hình) đẹp nhờ khung! Anh thấy người thợ làm cái khung này phải nên cám ơn tài chọn lựa tuyệt vời của một người con dâu Ðiện Bàn có cặp mắt quá thẩm mỹ!
Nàng sung sướng biết chừng nào khi thấy người chồng khó tính ra vẽ tâm đắc! Ðêm đêm, ?Hạnh Phúc? luôn luôn tươi tắn chào đón vợ chồng nàng sau một ngày mưu sinh mệt nhọc.
?? ??
Thế rồi, một buổi chiều cuối tuần, không hiểu làm sao mà chàng nằm bất tỉnh dưới bức ảnh, mặc cho vợ hốt hoảng khóc lóc thảm thiết nhưng chàng chẳng hề lay động. Hồn chàng đã bay bổng nơi nào mà để nàng phải đau đớn hiểu ra một cách quá muộn màng lời tâm sự của chồng:
-Hình như anh sinh ra là đã ghét tranh rồi?
Có bao giờ nàng ngờ rằng chàng chứng minh câu nói ấy một cách thành thật đến nỗi ghét luôn cả bức hình do chính chàng chụp? Thật là một nỗi chua xót vô vàn! Nàng cứ khóc sụt sùi không ngưng. Trong nỗi cô đơn vò võ, nàng mới chợt nhận ra tình yêu dành cho chồng chưa trọn vẹn. Thấy thương làm sao khi nhớ lại những lúc bà chị ở Ý gửi về cho vài trăm, anh bớt thời gian làm thơ, viết văn hí hửng rủ nàng đi xa thăm bà con dòng họ ngoài Trung, nhưng nàng luôn luôn thoái thác vì mải miết đam mê với màu sắc và khung vải! (Thảng hoặc, nghe tiếng đàn guitar của chồng mang âm hưởng cô độc, nàng mới sực tỉnh buông cọ mà sà vào lòng chồng chuộc lỗi và nhõng nhẽo), còn không thì thời gian cuối tuần bên nhau hầu như lúc nào hai người cũng đều đắm chìm trong thế giới riêng tư của từng sở thích, để rồi cả hai cứ cùng song ca duy nhất có mỗi một bài ?Hờn Anh, Giận Em? khi những niềm say mê tư riêng ấy không đủ mang lại thỏa mãn cho một trong hai người.
Hối hận vì thương chồng, dù biết đã muộn màng, nhưng từ hôm ấy nàng quyết định gác? cọ.
??
Tuy không thể nào hiểu nỗi chàng đã thấy ác mộng gì mà vùng vẫy đến nỗi ảnh động, hình rơi? Hay tại tấm khung nặng nề ấy chê tài đóng đinh vụng về của hai bàn tay chỉ biết cầm những cây cọ nhỏ nhắn mà rơi xuống trúng ngay đầu chàng? Và cái khung đắt tiền đáng ghét kia sao lại lựa ngay nơi chứa bao nhiêu yêu dấu kìa mà rơi? Nàng than thở nghe đứt từng đoạn ruột:
-Anh ơi! Phải chi em đừng ngồi gần 3 tiếng đồng hồ loay hoay pha tới, pha lui bao nhiêu sắc tím, nâu, xám, đen? cho bức tranh sơn dầu chứa cả một nỗi niềm thống khổ, uất hận của đồng bào mình buồn bã kia thì ngày nghỉ của vợ chồng mình đã hạnh phúc biết dường nào! Mà biết đến bao giờ em mới có thể làm lơ được trước cảnh dân tình mình bị đảng đày đọa hở anh?
Không biết nhờ ăn ở hiền lành hay là nhờ vợ than thở trúng giờ linh thiêng mà hồn chồng đã... trở lại trần thế sau những ngày mê man bất tỉnh? Trở lại, để được nàng thương yêu nhiều hơn nhưng chàng vẫn chẳng thích tranh hơn chút nào. Vì chàng ghét nên nàng đã đem tặng hết tranh cho những người lính Nhảy Dù rất? thương yêu hội họa bán đấu giá, lén giúp đỡ các gia đình anh em Thương Binh VNCH đang bị đảng dìm xuống đáy sâu của xã hội.
Từ đó, hai người quyết chí dành dụm, cả năm không tiêu pha bất cứ thứ gì xa xỉ, chỉ chờ dịp nghỉ Tết, có thêm chút ?Quà Xuân Cho Chiến Sĩ? góp vào (từ tiền hưu trí của ông anh tỵ nạn bên Canada và tiền trợ cấp bệnh của bà chị tỵ nạn bên Ý) là năm nào hai người cũng rời Sài Gòn về thăm miền Trung: khi thì về Ðại Lộc tặng quà con em cô nhi quả phụ QL VNCH để chúng có điều kiện học thêm (sau tháng Tư, 1975 tên tuổi của các em đã bị bọn xâm lược bôi đen vì những trang sử hào hùng bảo vệ Non Sông của cha anh), lúc ghé Tam Kỳ tặng quà các chú bác thương binh đã hy sinh một phần thân xác để bảo vệ miền Nam VN thoát khỏi ách xâm lăng của Bắc Việt.v.v? Có năm, Mồng Hai Tết hai người ra Ðà Nẵng thắp hương ông bà, Mồng Ba lại lo trùng tu mồ mả thân nhân ở Duy Xuyên (đã tử trận trong Tết Mậu Thân 1968 tại Huế, trong khi thi hành bổn phận của ?Người Trai Thời Loạn); mồng Năm xuống ngắm trẻ em nghịch ngợm ven sông Thu Bồn một chút, mồng Bảy leo lên Ngũ Hoành Sơn ngắm cảnh một đêm trước khi quay lại Sài Gòn làm việc.
Tết năm nào, đi đâu thấy cảnh còn đẹp, hoa còn dễ thương, trái vẫn trĩu quả, nắng vẫn vàng quê là nàng cũng luôn cười tươi bên hoa mai vàng rực và chàng vẫn say sưa chụp ảnh cho nàng để nhớ là Tạo Hóa vẫn còn cho thiên nhiên được tự do (thứ mà không một ai có thể hưởng với cộng sản), nhưng trong nhà hai người chỉ có mỗi một mình ?Hạnh Phúc? là đứa con tinh thần duy nhất đã được chàng cấp phép cho trú ngụ vĩnh viễn, sau khi đích thân chàng đã đóng đinh lại và đem treo ở phòng khách.
Cũng may là nhờ tai nạn ấy mà tình nàng tỏ cho chàng ngày càng mặn mà hơn (trừ tài đóng đinh treo tranh ra) vì kể từ hôm ấy, nàng không bao giờ dám tái diễn? tài nghệ vẽ vời ?Hạnh Phúc Rơỉ ấy nữa.
25.11.2018
Tôi là người mất nước, xa quê hương tay trắng lên đường, hành trang là bao nỗi đau thương, mang nặng cả tâm hồn đơn lẻ.
Tôi là người mất mẹ, mẹ quê hương nắm ruột đứt lìa, tình ruột rà nay bị xẻ chia, đau như cắt bằng con dao không bén.
Buổi ra đi không lời ước hẹn, nên ngày về có biết được đâu? ? Yên ba giang thượng sử nhân sầủ, trên sông khói sóng cho rầu lòng aỉ*
Tôi là người mất nước, mất thân nhân, mất cả bạn bè, mất tất cả nhưng tình yêu tôi không mất.
Tôi chỉ yêu, yêu quê hương luống ruộng dân cày, yêu bát nông phu mồ hôi nhuể nhại trên luốn cày còn sót đạn bom.
Tôi yêu - dòng sông hiền nhuộm đỏ phù sa, yêu cô thôn nữ mặn mà, đôi vai quang gánh bó lúa vàng kĩu kịt trên đê.
Tôi yêu - những chiều hoàng hôn tím về có bức tranh thủy mạc nơi chân trời xa thẳm.
Tôi yêu - những buỗi cơm chiều đằm thắm dưới mái tranh nghèo, bà mẹ ru con.
Tôi yêu - từng lối mòn trong xóm nhỏ có những trẻ thơ nhịp bước chân non, ngày hai buổi đến trường học hỏi.
Tôi yêu - bà mẹ già còng lưng cuốc đất thay cho con đi tù ?cải tạỏ, tôi yêu cô thôn nữ tuổi xuân thì chít vành khăn trắng, bởi vì người yêu đã chết trận.
Ôi! Ðất nước tôi, đời đời không thù hận. Ai gây chi, bao cảnh đọa đày, tham vọng chi, một kiếp trần ai. Thử hỏi ? được gì khi nhắm mắt?
Quê hương tôi đã mất do bọn người bán nước cầu vinh, gây cảnh máu xương, vì lý tưởng mơ hồ viễn vọng.
Kể từ đó, tôi là người vong quốc. Quê hương tôi đã mất, mất trong tim nhưng hiện hữu ngoài đời !
Ngày xưa ở Việt nam ít người biết đến nhà dưỡng lão. Thời Pháp thuộc ở Thị Nghè Saigon và rải rác vài tỉnh miền Nam lúc bây giờ cũng có. Những ngôi nhà nầy thường chỉ dành cho những người già không có thân nhân nương tựa, tiền của để sống, thành phần đáng thương trong xã hội tạm trú. Dân ta thường sống đại gia đình, theo truyền thống tốt đẹp nầy ông bà già sống chung với mấy thế hệ sau, không có bao giờ nghĩ đến chuyện rời nhà từ đường, nghèo giàu gì cũng thế.
Thời nay, nhất là ở các nước tân tiến, việc xin vào hay được đưa vào dưỡng lão chẳng những là chuyện bình thường mà cần thiết nữa, con cháu cảm thấy bớt áy náy lo sợ bất hiếu vô ơn. Càng ngày càng văn minh hơn, nhà dưỡng lão trở thành ngôi nhà quen thuộc cuối cùng của các bô lão, nơi tập trung của những người cùng thế hệ thời kỳ thứ ba cuộc đời, có thể sinh hoạt, vui chơi giải trí có người hướng dẫn, giúp đỡ, săn sóc, đầy đủ tiện nghi. Mục đích là tạo một không khí ấm cúng từa tựa như trong gia đình để cho người già bớt nỗi cô đơn nuối tiếc hồi tưởng thời còn trẻ tự do bay nhảy, nhớ con thương cháu.
Phải công nhận các nhà dưỡng lão Âu Mỹ thường rất chu đáo trong việc phục vụ người già trên mọi mặt, từ cơ sở vật chất đến sinh hoạt hằng ngày, đời sống tâm linh cho đến ngày qua đời. Phần đông các ông bà cụ khi về hưu, nếu có tư gia, gia đình riêng thường sống với nhau cho đến khi nào một trong hai người qua đời và người còn lại nếu thích hoặc đủ khả năng, sức khỏe thì sống một mình dù góa bụa, cho đến khi nào không tự lo cho mình được nữa mới đành chịu mất tự do trong phòng nhà dưỡng lão.
Thật ra nếu có dịp viếng nhà dành riêng cho người già, cơ sở vật chất được thành lập thiết kế càng ngày càng phù hợp với nếp sống và tình trạng kinh tế của các cụ. Như đẳng cấp các khách sạn được đo bằng một đến năm ngôi sao, bề ngoài và vị trí ngôi nhà cũng là thước đo phần nào lý lịch thành phần xã hội của các cụ nội trú. Càng đắc tiền việc phục vụ tất phải tương ứng theo. Phòng ốc cũng được định giá cao thấp như các chung cư, khách sạn hay phương tiện di chuyển du lịch, phi cơ, xe lửa hay ghe tàu cruise, tiền nào chỗ ở nấy, giá nhất định không có chuyện kỳ kèo trả giá bớt điểm nầy bù vào nơi khác, vì danh sách xin chỗ dài lê thê bít kín có khi trước cả mấy năm liền.
Cơ sở căn bản còn được trang bị thêm một hệ thống tối tân phòng phụ cần thiết hổ trợ cho việc điều khiển sinh hoạt hoàn mỹ hơn như phòng tiếp tân phòng khách, phòng sinh họat giải trí chung, quầy hàng giải khát ăn uống nhẹ, phòng tập thể dục .Về sức khoẻ chẳng hạn có cả ê kíp y tá thường trực săn sóc, liên lạc trực tiếp với bác sĩ khi cần. Tuổi già gần đất xa trời nên trong nhà dưỡng lão nào cũng có nhà thờ hoăc nhà nguyện để các cụ có thể đi lễ hằng ngày do một linh mục về hưu hướng dẫn. Nói tóm lại không chi tiết nào người ta bỏ qua để phục vụ hy vọng an ủi, tìm nguồn vui cho tuổi già hưởng thụ trong giai đoạn cuối cùng nầy.
Ngoài ra, bao sinh hoạt khác xoay quanh, tổ chức xã hội đoàn thể, hội đoàn, tạo cho không khí nhà dưỡng lão thêm phần sống động hơn, bớt vẻ hiu quạnh cô đơn hơn là ở nhà riêng một mình. Các cụ không còn phải lo gì đời sống thường nhật của mình, từ miếng ăn giấc ngủ, sức khoẻ giài trí tâm linh theo một thời khóa biểu ấn định phù hợp với tiêu chuẩn của mỗi nhà dưỡng lão.
Thế nhưng có dịp quan sát các cụ còn khỏe mạnh rảnh rang đi quanh quẩn trong phòng mình hoặc chầm chập thong dong lui tới trong hành lang trước phòng, hay đến ngồi ở phòng tiếp tân đọc báo hay trò chuyện, đánh bài đánh cờ, thật khó mà đoán chắc là các cụ hài lòng với cuộc sống đầy đủ nầy không. Có dịp tiếp xúc nhiều hơn tất được nghe lời tâm sự thường toàn là than phiền, bực mình, trách hờn con cháu hay phê bình người cùng trọ, nhân viên săn sóc phục dịch, thực phẩm, ban điều hành, thông tin khí tượng về thời tiết khí hậu mỗi ngày, tin tức trong ngoài nước, cái gì cũng thường không như ý của các cụ hết. Càng còn mạnh khoẻ chừng nào càng xét nét tinh vi hơn.
- Ông thấy không, hôm nay có mấy cái cô sinh viên mới tập sự làm hè, sao mà khác ngày xưa quá, họ không có vẻ e dè, ngại ngùng gì cả, lạnh lùng tự tin. Lại nhiều người trẻ ngoại quốc nữa.
- Mỗi thời mỗi khác chứ, mà bà có biết là bây giờ khan hiếm nhân viên cho nhà dưỡng lão lắm không.Tôi mới đọc báo và nghe radio về vấn đề này khẩn cấp yêu cầu chính phủ tìm biện pháp giải quyết nhanh nữa đó. Ngày còn đi làm, bà nhớ không, bà trông đến hè để đi du lịch nghỉ dưỡng. Từ đầu năm là bà đã rà so sánh hết mọi quảng cáo du lịch để lên kế hoạch đi đâu rồi, địa điểm ưu tiên phù hợp với túi tiền của mình, nơi xứ nắng ắm, trượt tuyết ski, chu du nơi nầy nơi nọ cho biết đó biết đây đừng để thua kém bạn bè, tỏ ra người văn minh có học trưởng giả. Nhân viên ở đây cũng thế, họ cũng cần thời gian nghỉ ngơi bồi dưỡng, sinh viên cũng cần nên tập sự đi làm hầu biết giá trị của đồng tiền.
- Tôi cũng như bà chị vậy, mỗi lần thay đổi nhân sự là có sự xáo trộn, bà cụ khác góp ý. Các cô y tá ở đây cũng không đối xử đồng đều với các cụ đâu. Thái độ, cách nói năng như bất cần, vô cảm lắm lúc làm buồn lòng nhiều người nhất là các cụ yếu đuối ít người thân thăm hỏi.
- Ðừng trách phiền mà làm chi, không đổi được gì đâu. Ai cũng có hoàn cảnh gia đình lo lắng riêng, sức khoẻ lên xuống, tình tình khác nhau, Trời còn không làm cho mọi người vừa lòng, con người làm sao hơn được. Mình già rồi, sống bao lâu mà làm cho họ ghét, vui ngày nào khi mở mắt mà biết mình chưa tắt thở, tôi còn thấy bà, bà thấy tôi đôi khi hay cau có một tí, hay rên than trời lạnh gió nhiều nhưng mình còn có nhau là đáng mừng rồi.
- Bà chị thấy không, các ông là như thế đó, họ dễ dãi rộng lượng lắm, các ông cứ đổ thừa cho các bà luôn, nào là khó khăn hay bắt bẻ, thích được nuông chìu, nghi nan số một, ưa ra lệnh, không ai được làm trái ý mình, hay chê hơn khen, mê lời dịu ngọt, nịnh bợ càng tốt, đủ thứ tật xấu. Lắm lúc tôi nghĩ mà tức cười, đàn ông hay đàn bà ai cũng vậy, người vầy người thế kia chứ.
- Ông nhà tôi còn hay nhắc câu ?không nên đánh người phụ nữ dù bằng cành hoa hồng?, nghe sao bùi tai lãng mạn làm sao ! Vì thế, không bao giờ hoặc ngại nhờ các nhân viên phục vụ, thậm chí luôn tỏ ra dễ dãi, có vẻ biết ơn họ nữa là.
Nhớ thời còn đi học, học ngoại ngữ Pháp Anh, ai cũng nhận thấy rằng phát âm tiếng Pháp dễ dàng hơn tiếng Anh, viết sao đọc gần như vậy. Thế mà ngán nhất là văn phạm độc đáo của Pháp cầu kỳ tinh vi, rườm rà rắc rối trong chi tiết, như cách chia động từ, số và giống. Thật ra ngôn ngữ nào cũng có cái hay đặc thù của mình, tiếng Việt ta cũng thế. Vì thế để làm bầu không khí học ngoại ngữ bớt nhàm chán thêm sinh động, và cộng với tinh thần hiếu học hài hước cố hữu của dân mình, lúc đầu chúng ta thường phiên âm theo âm Việt rồi sau đó nghĩ ra một đề tài nào tiếu lâm liên quan để áp dụng vào cho dễ nhớ lâu dài.
Nhớ có lần một vị nữ giáo sư chủ nhiệm cười cười bảo khi các nam sinh trong giờ sinh hoạt than phiền các thầy hay bênh nữ sinh ít rầy la :
« Học tiếng Pháp, các em biết rằng mạo từ giống đực số ít là « le » đọc là lơ, đọc theo tiếng Việt là le, giống cái là « la », đọc giống như tiếng Pháp. Ở đây thêm một bằng chứng cho chúng ta nhận thấy tiếng Việt ta sao mà đa năng đa dụng và nhất là khả năng thích ứng thiên phú phiên âm thích hợp. Cái lưỡi Việt ta đúng là :
« Cái lưỡi không xương nhiều điều lắt léo,
Cái miệng không vành nó méo tứ tung. »
Do đó các ông thuộc phái « le » (lơ ) nên tất nhiên thường có vẻ hời hợt lơ là hay làm lơ lắm, ít thắc mắc để ý nhiều đến chi tiết, như trong gia đình chẳng hạn bà mẹ hay lo toan từng ly từng tí cứ động một tí là la liền, đến nổi các ông bố bực mình thường cho là « lo bò trắng răng ».
Giống đực còn là phái le nữa, các bạn chỉ cần nhìn quanh là bạn thấy ngay, con gà trống có mồng như vương miện lẫm liệt bước đi cất vang tiếng gáy giữa đàn gà mái, con sư tử đực với cái bờm độc đáo. Làm sao chúng ta có thể quên không liên tưởng đến chúa tể sơn lâm, hình ảnh oai phong hào hùng tuyệt đẹp của ông hổ, ông cọp tượng trưng phái nam :
« Ta bước chân lên, dõng dạc đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng »?
Tuy nhiên con cọp Việt còn đặc biệt hơn, « đang theo giấc mộng ngàn to lớn », anh hùng bất khuất ngay khi cả bị « sa cơ nhục nhằn tù hãm », « thời oanh liệt nay còn đâu » mà vẫn giữ cái phong thái tiết tháo hiên ngang tự do tự chủ của một nhà ái quốc chân chính xem thường cả cái bản án chung thân, hành hình, cái chết trước mắt, không cúi đầu chịu thua hoàn cảnh, thay đổi lập trường, trong bài thơ « Hổ nhớ rừng » của Thế Lữ :
"Gậm một mối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài trong ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người ngạo mạn ngẩn ngơ
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẩm".
Hơn thế nữa, ở trong nhà dành cho người già, các cụ ít hoạt động, bửa ăn đưa tận chỗ, cần gì có người phục vụ, lâu ngày cũng chán, buồn buồn, rồi bực đọc vô cớ, có lý thôi, con người mà. Ở không ăn rồi lại ngủ, uống thuốc trường kỳ rồi lâu lâu đi khám sức khoẻ đúng theo nội qui ấn định. Con cháu đến thăm một lát rồi cũng ra về, hoặc lâu lâu được chiếu cố mời về nhà riêng của con cháu, một gợn sóng nếp nhăn hằn thêm trên trán. Ngày nào như ngày nào, các sinh hoạt diễn ra cũng thế na ná như nhau. Các bình hoa được thay đổi thường xuyên, các buỗi liên hoan trong ngày lễ, sinh nhật, văn nghệ gây không khí vui nhộn thân tình cũng không xóa được các kỷ niệm xưa.
Người già là thế họ sống với quá khứ hồi tưởng chuyện đã qua, tương lai ít khi đề cập đến. Bệnh tật lại ngấp nghé rình rập bao vây, như chiếc xe cũ cà ràng cà tàng nay bóng đèn cháy, bougie hư, nổ bánh, mai mở máy không lên, bô bể kêu to xì khói, khi chạy bon bon khi ì ạch nằm đường.. Chuyện thường tự nhiên mà ai ai cũng biết.
Con đường đời của mỗi người cũng chẳng khác, nếu sống thọ tất phải qua các giai đoạn trẻ già. Vậy các cụ là hình ảnh trong tương lai của chúng ta thôi. Có ai kéo được thời gian lùi lại hay dừng bước nhìn thời gian vô tình trôi qua. Bất lực thay con người thế mà ít ai thích nghĩ tới, khi còn khoẻ ai cũng tưởng rằng mình có thể là miễn nhiễm nhiều thứ, tội lỗi bệnh tật, tai nạn và cả cái chết nữa.
Lại có một số người còn quan niệm
« Ông cha kiếp trước có tu,
Ngày nay con cháu võng dù hiên ngang ».
Vì vậy mà họ được may mắn, giàu có, quyền lực trong tay có khi vì không phải do năng lực, tri thức, tài ba riêng, « một bước lên bà », « chuột sa hũ gạo » cũng không phải vì thừa hưởng gia sản kếch sù của ông bà để lại, mà « thời thế tạo anh hùng » thôi.
Cái hố xã hội càng sâu thêm giữa các tầng lớp dân chúng khó có cơ hội lấp bằng, vết nứt của trái đất cũng không nguy hại bằng sự đổ vỡ của niềm tin, đột quỵ của lương tâm. Do đó hiện tượng đút lót bao thơ hối lộ tinh vi hay lộ liễu càng ngày càng xâm chiếm đến cả thượng giới, Thần quyền, đổ xô về những nơi thờ phượng, chùa chiền, nhà thờ, đình miếu để mưu cầu lợi lộc riêng, trúng áp phe, trúng số lô tô, đề, thầu, gì gì bất chính cũng không sao.
?Phú quí sinh lễ nghĩả, bao nhà tông đường kiến họ đường bệ nguy nga được xây cất lên cho xứng với tầm mức cao sang quyền thế đương nhiệm, theo quan niệm mới của thế quyền, không phải để bạch hóa rửa tiền đâu mà là một phương cách hữu hiệu tạo công ăn việc làm cho người dân trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu nầy, một hành động đạo đức tích phước cho con cháu về sau. Do đó nhiều nhà giàu có không tiếc vung tiền mua nhà lầu xe hơi, phi cơ, quần tơ áo lụa, tiền bạc bằng giấy hàng mã để gửi đến ông bà quá cố qua ngân hàng âm ty trong ngày ma chay giỗ Tết để tỏ lòng tri ân trả hiếu, một phương cách cầu tài cầu phúc làm gương cho hậu duệ của mình. Hiện tượng nầy cũng được phổ biến rầm rộ mà không ai cho là mê tín dị đoan đâu. Ðổi đời !
Vì thế nếu có dịp đi làm hay có người thân quen ở nhà dưỡng lão tối tân hiện đại hay ít đắc tiền, thực tế lắm khi làm cho người Việt tha hương ta suy nghĩ. Phần đông các vị nội ngoại ta thuộc lớp cao niên. Quá khứ của các cụ đầy ấp kỷ niệm và tập tục xưa quê mình. Kỷ niệm buồn vui gì cũng là kinh nghiệm sống đã qua. Bao cuộc thay đổi xảy ra, các cụ đã lao tâm lao sức cải thiện cuộc sống mới do sức lao động bản thân để vươn lên chẳng những cho gia đình mà giúp được cả thân nhân bạn bè ở quê nhà.
Ngày trước khi nghỉ hưu, ai cũng mong đến thời gian nầy. Nhưng sau một thời gian thong dong lông bông dưỡng sức, du lịch đi đó đi đây, nhiều chuyển biến xảy tới không ngờ. Thời gian sao mà có vẻ dư thừa nhàn hạ quá, bạn bè sao vắng mặt lần lần từ từ trong các ngày lễ họp. Tin không vui nhiều hơn vì nay người quen nầy nằm viện, mai người thân ra đi. Bao bài thuốc trị bịnh, phòng bệnh, an dưỡng được bạn bè tứ xứ gửi về làm tinh thần các cụ lúc đầu phấn chấn rồi sau đó loay hoay, rồi dần dần dường như bệnh nào mình cũng có vướng mắc một vài triệu chứng. May mắn cho cụ nào còn sáng suốt, tỉnh trí, dù sức khoẻ hạn chế mọi hoạt động cơ thể, chậm chạp, mắt mờ nặng tai, nhưng còn tự xoay sở được các cụ vẫn thích sống tự do hơn và không gì bằng là được sống gần con cháu.
Vẫn biết rằng sang sống nước ngoài rồi, « nhập gia tùy tục, nhập giang tùy khúc » là cần thiết, thế mà cố sống thích nghi với khí hậu khác biệt quê nhà dù sao còn chịu được, chứ cũng buồn thật buồn phải sống cùng chung trong một ngôi nhà giữa người lạ khác giống, ngôn ngữ cách ăn uống tập tục truyền thống khác mình.
Vẫn không phủ nhận rằng lực bất tòng tâm nữa rồi, nếu muốn ở nhà mình tất phải có đủ tài chính để mượn người săn sóc, phụ giúp nhưng vẫn cảm thấy cô quạnh làm sao. Phần đông con cái vừa bận đi làm vừa dành thời gian cho gia đình riêng nghỉ ngơi gỉải trí giao tiếp, thêm vào đó bao lo toan khác bất ngờ không dự trù tính trước nên khó thể nào dung hòa chu toàn bổn phận.
Thường thường người ta còn bảo « cha mẹ nuôi con không tính ngày tính tháng, con nuôi cha mẹ con tính tháng tính ngày ». Ðó là chuyện tự nhiên « nước mắt chảy xuống » thôi, không vì thế mà chúng ta đánh mất niềm tin vào lòng hiếu thảo và biết ơn của thế hệ kế thừa vì thật ra, chẳng đặng đừng con cái ta mới đành đưa cha mẹ vào nhà dưỡng lão. Không thể lo trực tiếp được thì nhất cử lưỡng tiện là gởi các cụ vào một nơi các cụ có thể nghỉ dưỡng an toàn, ít nhất là là cả hai bên đều yên tâm được phần nào, các cụ cũng cảm thấy quẳng bớt lo âu mình trở thành gánh nặng khó xử cho con cháu .
Vào đây, cụ nào còn khỏe mạnh có dịp bàn luận trao đổi chuyện đời xưa nay với bạn bè đồng cảnh ngộ. Ở nước văn minh tân tiến, tuổi nào cũng còn cơ hội học được hết. Ngoài ra còn có thể mở rộng tầm hiểu biết, giải trí, liên lạc thông tin trong và ngoài nước qua hệ thống mạng điện tử toàn cầu internet rất hiệu quả kéo dài tuổi thọ, tiêu khiển, giảm nhẹ nỗi buồn chán chường trống rỗng. Cái thế giới ảo trên các mạng làm cho các cụ sống lại được trong những ngày hoàng hôn nầy bao ước muốn, mộng mơ, phiêu lưu kỳ thú thầm kín không ngờ thực hiện được.
Chỉ đáng buồn cho những cụ xa quê tuổi đời đã lớn, phải lao động tay chân ở các nước khí hậu khác biệt, nếp sống vội vã để rồi không còn sức khoẻ, tiền già eo hẹp, cuộc sống thật như không còn ý nghĩ gì nữa vì vật chất thiếu thốn còn giải quyết được nhưng bệnh tật biến nỗi cô đơn buồn tủi tăng nhanh gặm mòn thể xác tâm hồn già xa xứ khó nguôi.
Tuy nhiên, thế giới ngày nay càng văn minh càng có nhiều bô lão vì tuổi thọ con người dài hơn. Do đó việc lo tìm phương cách chính sách liên quan trực tiếp với vấn đề an sinh cho thế hệ trước luôn được bảo đãm tốt nhất và cải thiện không ngừng. Nhà dưỡng lão cũng vì thế thay đổi theo thời tiến bộ khoa học kỹ mỹ thuật phù hợp với thị hiếu nhu cầu quần chúng. Vậy xin các bậc trưởng thượng cao niên hãy an tâm sống vui sống khoẻ, lạc quan, hài lòng với khung trời tuỗi thọ hiện tại của mình, mỗi ngày còn sống là một ngày mới, một tâm hồn thanh thản hơn chẳng màng nghĩ chi đến cái tương lai gần xa « Que sera, sera »,Biết ra sao ngày sau ?. Hy vọng !
Từ Tokyo .. đi Kyoto .. 513.6 km, giá Ticket là 13.600 yen (cạ100 ?) tàu nhanh Shinkansen (Superexpresszüge) tốc độ 400 km/h nhưng chỉ chạy khoản 280 - 320 km/h. Du khách xuống trạm cuối, mỗi toa có hai nhân viên mặc đồng phục đứng cúi đầu chào và sau đó xách dụng cụ lên tàu làm vệ sinh, lau chùi, hút bụi sạch sẽ khoảng 10 phút thì cho du khách tiếp tục hành trình, tàu đầy đủ tiện nghi có WiFi, mổi toa tàu ghế ngồi theo hàng ngang là 3-2 (5 chỗ ngồi rộng rải, khoản 15 hàng dọc) chạy rất êm, khởi hành đúng giờ, thời gian đến Kyoto hơn 2 tiếng, chạy qua những đồng quê xanh tươi ruộng lúa, nông trại trồng rau trong nhà kính? nhà lợp ngói màu nâu khang trang, xa xa là đồi núi với sương mù. (ở Âu Châu đi tàu lửa qua các làng quê phần lớn nhà lợp ngói đỏ, không có ruộng nước, nhưng có nhiều cánh đồng rộng trồng bắp, lúa mì, củ cải, vườn nho, táo. vùng Bavaria trồng nhiều dây hopfen, lấy hoa để nấu bier? Các rừng thông xanh dù mùa đông băng giá)
Kyoto nằm trên đảo Honshu có diện tích 827,90 km² dân số 1.472.027 và mật độ khoảng 1778 người / km². Kyoto chữ Hán nghĩa là (Kinh Ðô) có lịch sử hơn 1000 năm từ năm 794 đến năm 1869 thì Kinh đô cổ nầy dời về Tokyo (Ðông Kinh), nhưng Kyoto vẫn được xem là vùng trung tâm chính trị, văn hóa, tôn giáo, là một trong những thành phố đẹp được bảo tồn lâu đời.
Kyoto nổi tiếng với nhiều ngôi chùa Phật giáo cổ kính, khu vườn thượng uyển, cung điện Hoàng gia, có 3 địa điểm đặc biệt liên quan đến Hoàng gia ở Kyoto, đó là cung điện Hoàng gia nơi ở của các vị Thiên hoàng trong nhiều thế kỷ, biệt thự Hoàng gia Katsura, một trong những công trình kiến trúc cầu kỳ nhất nước Nhật, và biệt thự Hoàng gia Shugaku-in, một trong những khu vườn rất đẹp. Ðền Shinto và những ngôi nhà gỗ truyền thống, ngoài ra còn lưu giữ nếp sinh hoạt văn hóa lâu đời. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Kyoto cũng bị các cuộc không kích hư hại nặng nề, Kyoto có 11 quận là: Higashiyama-ku; Kamigyo-ku; Kita-ku; Minami-ku; Nakagyo-ku; Nishikyo-ku; Sakyo-ku; Shimogyo-ku; Ukyo-ku; Yamashina-ku. Có 14 ngôi đền và đền thờ Thần đạo. Năm 1994 được UNESCO công nhận là những Di sản thế giới, gồm các ngôi đền Kamo (Kami và Shimo), Kinkakuji, Kyo-o-Gokokuji (To-ji), Kiyomizu-dera, Daigo-ji, Ninna-ji, Saiho-ji
(Kokedera), Tenryu-ji, Rokuon-ji (Kinkaku-ji), Jisho-ji (Ginkaku-ji), Ryoan-ji, Hongan-ji, Kozan-ji và lâu đài Nijo.
Kyoto kiến trúc xây dựng theo lối cổ điển, đường phố giống hình bàn cờ. Kyoto cao hơn mực nước biển 1000 m nên không bị ngập lụt, là trung tâm sản xuất áo kimono. Công nghiệp nặng sản xuất hàng điện tử, đây là nơi có trụ sở của các hãng: Nintendo, OMRON, Kyocera, và Murata Machinery. Hãng Wacoal lớn cũng hoạt động ở đây. Gồm 40 trường Ðại học và Cao đẳng là một trong những trung tâm học thuật: 3 trường Ðại học nổi tiếng lớn nhất là Ðại học Doshisha, Ðại học Kyoto và Ðại học Ritsumeikan. Trong số đó, Ðại học Kyoto được xem là một trong những đại học danh tiến, nhiều người xuất thân trường nầy được giải Nobel và huy chương trong các lĩnh vực. (1)
Ga Kyoto lớn thứ nhì sau Tokyo, cao 15 tầng, bao gồm một trung tâm mua sắm lớn, khách sạn, rạp chiếu phim và siêu thị Isetan. Tuyến đường tàu nhanh Tokaido Shinkansen cũng như tất cả các tuyến đường tàu địa phương đều được kết nối tại đây.
Buổi tối đi dọc theo dòng sông Kamo-Shirakawa rất thơ mộng, đến khu phố Gion với nét đẹp của một Kyoto cổ kính, các Restaurant sang trọng, lồng đèn treo trước cửa ánh sáng mờ ảo, những hàng cây xanh gió mát, con đường của giới ăn, uống trà thưởng thức trình diễn văn hóa Maiko, nơi nầy những phụ nữ Nhật mặc kimono, các kiểu tóc được trang điểm cầu kỳ với lược và trâm, trang điểm khuôn mặt trắng bệch mắt tô đậm cùng đôi môi đỏ rực, đi giày gỗ cao. Họ là Geisha và Maiko sống theo nét văn hóa độc đáo truyền thống Nhật. "kỹ nữ Nhật? đem niềm vui đến cho mọi người phục vụ nghệ thuật văn hóa lành mạnh có nhân phẩm như: thi ca, nhã nhạc, thư pháp, trà đạo, vũ múa có duyên dáng yêu kiều, chơi nhạc cụ như: đàn Shamisen, đàn Koto. (Geisha không phải gái điếm mà chỉ là những người rót rượu và đàn hát trong các bữa tiệc được đào tạo có trường lớp, không được phép có mối quan hệ với bất kỳ người đàn ông nào khi họ đang hành nghề, khi kết hôn thì phải kết thúc sự nghiệp).
Khu phố cổ yên lặng không có một tiếng còi xe, thực khách ngồi quanh bàn, lò nướng với ánh lửa bập bùng. Món thịt bò Kobe hấp dẫn đến Nhựt không thưởng thức món này thì thiếu sót, vì tò mò hương vị của nó như thế nào mà nhiều người đều muốn ăn, chúng tôi cũng thử một lần cho biết, Kobe Beef Steak 130 gram giá 21600 Yen # 169.96 ?! Ði qua con đường nầy nhớ về phố Hội An trước 1975 vào
ngày rằm trung thu đường phố cũng treo nhiều lồng đèn lung linh dưới ánh trăng vàng mát dịu. Hơn 300 trăm năm trước người Nhật đã mang văn hóa của họ đến Hội An. Ngày nay phố Hội đời sống không còn yên tĩnh như xưa, vì nhiều du khách đến thăm, các tour không đồng từ Tàu sang rất ồn ào, thiếu văn hoá làm mất vẻ đẹp thanh lịch cổ kính xưa nay!
Khu chợ Nishiki Market ở Tokyo mở cửa đến 20 giờ. Vì thời tiết ở Nhật hay mưa nên tất cả các khu chợ bên trên đều có mái hình vòm cung, nếu du khách mua các mặt hàng như mỹ phẩm, thuốc bổ? trên 5000 Yen sẽ được miễn 8% hay 5% tiền thuế tiêu dùng (Tax free). Ðối với các mặt hàng điện máy, điện tử, điện gia dụng?cần phải mua ít nhất trên 10.000 Yen để được giảm thuế. Áo quần phần lớn được sản xuất từ Việt Nam và Tàu. Hàng Outlet hạ giá một cái áo sơ mi đẹp của VN chỉ có 10$, trong khi mua ở Sài Gòn trong tiệm sang phải trả 25?. Ðời sống ở Nhật tuy đắt đỏ hơn nhưng không có gì là tuyệt đối. (ở Ðức tiền thuế tiêu dùng thực phẩm 7% các món hàng khác 19%). Ðến Kyoto phải đi đến các Ðền, Chùa biết thêm về văn hóa và đời sống tâm linh của người Nhật. Ðến các Ðền, Chùa những con đường phiá trước nhiều cửa hàng bán hàng lưu niệm, trà, cho thuê áo Kimono. Họ mời ăn thử các loại bánh kẹo, các món cải chua ăn thử một vòng. Ai thích thì mua người bán rất lịch sự trên môi luôn nở nụ cười.
Ðền Fushimi Inari Taisha (??????).
Khu thánh địa Fushimi Inari-taisha có diện tích khoảng 870.000m2, phần lớn trồng cây tùng là nơi có một không gian thờ tự uy nghiêm, thành kính. Cũng như tất cả đền thờ Thần Inari khác, kiến trúc của đền Fushimi Inari-taisha bao gồm cổng đền chính (??/torii), cổng vào lầu các, chính điện (???? go-honden). tham đạo (sando), bồn nước thanh tẩy (temizuya), nhà diễn kịch, Thần lạc (kagura), nhà dâng lễ vật (haiden), mỗi kiến trúc mang một nét đặc trưng riêng.
Mái lợp của đền là màu nâu sậm, màu rêu, rải rác trong sân là vô số các pho tượng con cáo bằng đá được tạc tỉ mỉ, nhiều hình dạng và kích cỡ khác nhau. Tượng con cáo ngậm chìa khoá trong miệng tại cổng chính của đền Fushimi Inari-taisha. Theo quan niệm của người Việt chúng ta con cáo bị đánh giá là con vật có tính gian trá và xảo quyệt nên thường
gọi ?con cáo già?, qua các truyện cổ tích cũng như phim hoạt hoạ đều châm biếm con cáo. Nhưng đối với người Nhật hình tượng con cáo biểu tượng cho sự linh hoạt, cần mẫn và thông minh? đó là lý do mà linh vật tượng con cáo trắng được chọn làm hóa thân của nữ thần Inari huyền thoại. Mỗi quốc gia có một thần tượng thờ cúng theo tín nguỡng của họ. Người Chiêm Thành ở miền Trung VN thờ thần Shiva còn được tạc dưới nhiều biểu tượng khác nữa, như: dưới hình thức cái phù linh Linga, một trụ đá tròn trên một cái đế dùng hứng nước phép khi hành lễ, là biểu tượng cho sức mạnh và sự sinh tồn của loài người, sự phối hợp giữa người đàn ông (Linga) với người phụ nữ (Yoni) ? biểu tượng về sự thống nhất giữa Âm và Dương, tức là giữa Linga và Yoni nguyên lý của sự sinh tồn và phát triển.
Ðường dẫn lên Ðền là một con đường mòn, đi dưới cổng Torii (cổng là 2 cột gỗ lớn đỡ 2 thanh xà bên trên) khoảng 10.000 cổng sơn màu đỏ rực rỡ trải dọc con đường dài 4 km quanh co và dốc, đi tới đỉnh núi có hàng chục ngàn gò (?? tsuka) để thờ phụng riêng? Số người lên trên đồi cao 233m rất ít, tùy theo sức khoẻ của mỗi người, đi lên mất khoảng 2 giờ chúng tôi cố gắng đi lên cho đến đỉnh có bản ?top of the Mountain? trước đền Ichinomine (Kamisha Shinseki) trên bàn thờ cũng hai con cáo ngồi đối diện đeo khăn đỏ ở cổ, không nhang khói hoa lá, những vật phẩm cúng thần là những chiếc cổng torii nhỏ. Dọc theo các đường mòn là những ngôi đền nhỏ và nhiều cánh cổng torii màu đỏ son nằm rải rác, đi xuống lưng chừng đồi có nội điện (??? okumiya). Có vài quán nước bán hàng lưu niệm cho du khách dừng chân.
Trong tín ngưỡng của Thần Ðạo, chiếc cổng torii mang ý nghĩa tượng trưng cho mốc không gian chuyển tiếp giữa thế giới trần tục và cõi linh thiêng là cửa ngõ để đi vào thế giới của thần linh. Theo tục truyền người theo tín ngưỡng Inari và có ước nguyện mong thành sự thật thì phải đi qua hết những cánh cổng này. Cũng có thuyết giải thích rằng những cánh cổng lớn này là do những người theo tín ngưỡng Inari từ thời Edo cúng dường. Những chiếc cổng với màu đỏ đặc trưng cứ thế tăng lên, trở thành một nét đặc trưng của ngôi đền Fushimi Inari huyền thoại, về sự giao hòa giữa Thần đạo và Phật giáo tồn tại và phát triển theo thời gian.
Vị thần được thờ ở đền Fushimi-Inari-taisha là thần Inari-Daimyojin được tôn thờ là vị thần của Gạo và rượu Sake, nổi tiếng linh ứng đối với những lời cầu nguyện về kinh doanh thịnh vượng, mùa màng thu hoạch tốt. Cầu xin thần Inari-Daimyojin phù hộ gia đạo bình an, giao thông an toàn, thăng hoa trong nghệ thuật? Hàng năm có 2,7 triệu người đến cầu nguyện, họ mang nhiều cổng Torii nhỏ đặt ở đền để tạ ơn vì ước nguyện của họ thành sự thật.
Kinkaku-ji (kanji: ???, The Golden Pavilion
Kim Các Tự, chùa Gác Vàng tên phổ thông của chùa Rokuon-ji (kanji: ???: Lộc Uyển Tự, chùa Vườn Nai) ở Kyoto. Năm 1393 thì ngôi chùa này được xây
dựng để dùng làm nơi nghĩ cho tướng quân Yoshimitsu Ashikaga (1358- 1408). Nơi nầy không gian rất thanh tịnh, hòa hợp với thiên nhiên. Bao quanh Chùa là hồ nước lớn, xanh ngát và những hàng cây tùng được cắt tỉa đẹp đẻ. Xa xa nhìn từ chùa là những dãy núi chập trùng của chốn bồng lai tiên cảnh, sơn thủy hữu tình. Chúng ta viếng cảnh chùa này, tâm hồn mình cũng trở nên trầm mặc. Ðời sống kỹ nghệ, điện tử hiện đại của người Nhật luôn vội vã vì công việc, nhưng nơi nầy lại có một không gian tĩnh lặng hài hòa không vội vả, chùa Kinkakuji nổi bật với màu vàng lóng lánh, chùa mái cong và 3 tầng. Trên đỉnh chùa gắn con phượng hoàng đúc bằng vàng. Ðây cũng là biểu tượng của tướng quân Yoshimitsu Ashikaga. Chùa không mở cửa nhưng du khách, cũng như học sinh tới viếng cảnh rất đông, du khách phải xếp hàng mua vé và chỉ có một lối vào và hướng ra một chiều.
Chùa kiến trúc 3 tầng, tầng 1 làm bằng thạch cao trắng, tầng 2 và 3 dát vàng, theo tài liệu trong chùa có tượng Bồ tát, tượng Phật và các vị quan trên thiên đình. Trong khuôn viên chùa hướng đi ra có khu vực ném tiền xu cầu may, gần cổng ra có nhà The Sekka-tei Tea Hous và Fudo-do thờ Phật có từ thế kỷ thứ 9 trước chánh điện có lư đồng lớn, khói nhang bay tỏa thơm ngát. Người Nhật dâng hương cầu mong cuộc sống thành công, hạnh phúc, phần đông du khách ăn mặc lịch sự phù hợp với nơi tôn kính thờ phượng.
ARASHIYAMA BAMBOO GROVE ????.
Ðến rừng tre chúng ta phải đi qua cầu Togetsukyo còn được gọi là ?Cầu vượt Mặt trăng?, cây cầu bằng gỗ này dài 155 mét để qua sông Katsura (? ?). Hai bên dòng sông là những vườn hoa đào xanh, mùa xuân thì hoa nở đẹp muôn màu, trên sông có nhiều thuyền nhỏ cho du khách đi dọc theo sông để nhìn mây trời đồi núỉ
Rừng tre với con đường mòn kéo dài khoảng 400m ở khu vực gần đền Nonomiya-jinja băng qua phía bắc của chùa Tenryu-ji rất nổi tiếng, là một trong những địa danh hấp dẫn Kyoto. Rừng tre Sagano thuộc quận Arashiyama, nên gọi là rừng tre Arashiyama. Theo tài liệu rừng tre Sagano có từ thời Heian (794-1185), giới quý tộc chọn đây là nơi nghỉ dưỡng yên tĩnh. Trên khoảng diện tích rộng lớn, hàng
triệu cây tre mọc thẳng tắp ánh sáng và bóng tối hai bên con đường nhỏ thanh bình. Ði qua hết rừng tre lên đồi là rừng tùng xanh tươi, đứng trên đồi có thể nhìn xuống thung lũng của dòng sông Katsura cũng như một phần của Kyoto.
Kumamoto Castle (??? Kumamoto-jo)
Lâu đài Kumamoto ?? xây dựng 1469-1487 bởi dòng họ Kikuchi dưới sự chỉ đạo của Kato Kiyomasa. Năm 1661-1667 được phát triển được đổi cách viết Kumamoto từ ?? thành ??.Khi mới xây dựng, 2 gia tộc Kato và gia tộc Hosokawa chia nhau phân quyền cai quản lâu đài. Vòng quanh lâu đài có nhiều cây anh đào đủ loại. Khu vực công viên mở cửa cho du khách vào ban đêm khi mùa hoa anh đào đang nở rộ từ cuối tháng Ba đến đầu tháng tư. Ðiểm đặc biệt vào mùa này là các tòa nhà và cây sẽ được thắp sáng với đèn xung quanh trông rất lộng lẫy.
Lâu đài có chiều dài từ đông sang tây là 1,6 km, từ bắc tới nam là 1,2 km. Diện tích khoảng 980.000 m2 (9 km chu vi tại thời điểm xây dựng) với 1 tháp chính, 49 tháp pháo, 18 Yagura và 29 cổng vào. Kumamoto còn gắn liền với những chiến tích lịch sử. Tiêu biểu vào năm 1868, lâu đài này trở thành đơn vị đồn trú chính của quân đội chính phủ ở Kyushu. Năm 1877, lâu đài bị Saigo tấn công, các khu căn cứ bị đốt cháy. Ðến năm 1960, lâu đài được xây lại theo kiến trúc cũ bằng bê tông cốt thép. Bên trong có một bảo tàng tái hiện về quá trình xây dựng của lâu đài, nội thất được giữ lại nguyên vẹn như thưở ban đầu. Pháo đài bao gồm hai tòa tháp, một tháp chính sáu tầng cao 30,29 m và một tháp nhỏ hơn. Các vọng lầu được xây dựng rất phức tạp và vững chắc, tường đá cao 13,5 m chung quanh lâu đài là hồ nước rêu xanh.
Yasaka Shrine (???? Yasaka-jinja)
Ðền Yasaka (? ? ??, Yasaka Jinja) tên gọi thời trước là Gion Shrine (? ? ??) là ngôi đền Shinto ở quận Gion, khu phố Higashiyama-ku. Ðền Yasaka là một điểm đến nổi bật, cột kèo bằng gỗ sơn đỏ theo kỹ thuật ?mộng nêm đinh gỗ, nghệ thuật điêu khác kiến trúc rất cầu kỳ thẩm mỹ. Ðền Gion hay Yasaka Jinja, Ðền Yasaka đã có 1.350 năm tuổi và là nơi tôn vinh Lễ hội Gion hàng năm, theo phong tục truyền thống hấp dẫn và cầu may mắn cho mọi người. Viếng đền Yasaka, du khách qua cổng ra vào 2 tầng, tên Ro-mon. Hai bên cổng có Thần Thiện và Ác trấn giữ. Qua khỏi cổng thấy con sư tử-chó bằng đá hắn bảo vệ cầu thang dẫn tới đền thờ, qua cổng chính vào khuôn viên Ðền Yasaka là một sân khấu múa được trang trí lộng lẫy và thắp sáng với những ngọn đèn lồng đẹp tựa tranh vẽ. Có một máng rửa tay đặt bên cạnh sân khấu, muốn rửa tay ở máng này, hãy múc đầy một gáo nước và đổ một ít ra cả hai tay, sau đó lật gáo lên phía trước để phần nước còn lại chảy xuống rửa sạch tay cầm. Có những sợi dây rơm được bện với những dải giấy trắng ngoằn ngoèo, thể hiện ranh giới ngăn cách với chốn linh thiêng. Ðến chính điện có thùng phước sương. Nếu du khách muốn được phước lành thì ném các đồng xu vào thùng có tiếng kêu lêng keng phải lạy hai lạy, vỗ tay hai tiếng, lạy một lạy nữa và cầu nguyện? Ðền thần Yasaka cũng là địa điểm quyền năng về tình duyên lớn nhất ở Kyoto. Vị thần được thờ tại đền là thần vợ chồng ?Susanoo no Mikotỏ và ?Kushinadahime no Mikotỏ. Họ là những vị thần rất hòa thuận, vì vậy mà ngôi đền này cũng trở thành địa điểm quyền năng về tình duyên nơi nầy có treo rất nhiều thẻ gỗ (Ema) hình trái tim thể hiện tình yêu. Nơi nầy còn bức tượng đá nổi tiếng trong thần thoại là Okuninushi no Mikoto đã cứu con thỏ bị thương, trong khuôn viên đền Yasaka còn có Ðền Utsukushigozensha có ?dòng nước làm đẹp? phun lên, người ta cho rằng ?dòng nước này không chỉ mang lại sự khỏe khoắn cho làn da mà còn giúp làm đẹp từ bên trong tâm hồn. Ðây là ngôi đền thờ 3 nữ thần ?Munakatasan Joshin?. Trong số 3 nữ thần này, ?Ichikishimahime no Mikotỏ được cho là đặc biệt xinh đẹp là vị thần của sắc đẹp, nghệ thuật, tiền tài. Vào mùa xuân khi hoa anh đào nở rộ, công viên Maruyama gần ngôi đền, là một trong những địa điểm lý tưởng nhất trong thành phố để ngắm nhìn những cánh hoa màu hồng pha trắng tuyệt đẹp. Gần nơi nầy cũng có các ngôi Ðền, Chùa Chion - In, Kenninji, Kiyomizu-dera Temple ???, Shoren-in Monzeki Temple ?????, Kodaiji Temple ???, Bishamon-do Temple ??????(??) ? Ði qua các con phố nhỏ cũng thấy nhiều Ðền thờ nhỏ màu nâu sậm hay đen, sân đền rất yên tĩnh.
Tokyo (Ðông Kinh) thì thành phố cả ngày đêm sinh hoạt đông người sống động, ngược lại Kyoto (Kinh đô) thì yên tĩnh về đêm. Thành phố cổ trầm mặc với nét thanh lịch theo bản sắc riêng của nó, chúng tôi ở đây 6 ngày trời nắng đẹp chỉ có một chiều mưa, Hotel đều có dù cho khách xử dụng, vào các shopping có túi nylon cho khách bỏ dù vào, đi tự túc không vội vả có thì giờ đi thăm các danh lam thắng cảnh, nhưng rất tiếc các nơi thờ phụng trên bia đá, trên cột, cửa đều viết chữ Nhật mình không hiểu là một thiếu sót lớn trong vấn đề nghiên cứu về văn hóa, theo truyền thống thờ Thần của người Nhật. Nhưng đến tận nơi chúng ta cảm nhận được cái đẹp cái văn minh của dân tộc Nhật.
Từ giả Kyoto đi tàu nhanh Shinkansen đến Shin-Osaka Station khoảng 12 phút tiền vé là 1420 yen, (100Yen = 0,79 ?) còn các loại tàu khác giá rẻ nhưng thời gian đi lâu từ 30-50 phút. Từ ga Osaka kết nối với các tuyến tàu điện ngầm (OsakaSubway Midosuji Line) xe buýt thành phố các tuyến Hankyu, Hanshin, Keihan, Nankai, Kintetsu đi đến các khu vực trong thành phố. Enjoy Eco Card là loại vé có thể lên xuống thoải mái trong ngày các tuyến tàu điện ngầm, New Tram (Nanko Port Town), tất cả các tuyến xe buýt. Giá vé cho người lớn 800 Yen ngày thường, ngày cuối tuần có giá 600 Yen. Vé tàu 1 ngày trên ?du thuyền Cruise" 3.300 Yen đi các chuyến thuyền trên sông chạy quanh thành phố.
Osaka là một đô thị sầm uất đứng thứ hai sau Tokyo. Osaka ảnh hưởng những nét sinh hoạt truyền thống của cố đô Kyoto và nét hiện đại của Tokyo. Những khu phố sầm uất trải rộng từ ga Namba (Minami). Ðây là phố rất thu hút với khu Dotonbori nhiều cửa hàng ăn uống, khu vui chơỉkhu Shinsaibashi là trung tâm văn hóa của giới trẻ, nơi đây có rất nhiều cửa hàng ăn uống như Okonomiyaki hay Takoyaki. Shinsaibashi là địa điểm mua sắm tiêu biểu ở Osaka. Các tòa nhà thời trang như Etoile Shinsaibashi, hay Shinsaibashi Parco, ngoài ra còn có rất nhiều cửa hàng thời trang khác từ Uniqlo, GAP...các thương hiệu nổi tiếng thế giới. Ðặc biệt là các quán bar, club giải trí về đêm rất nhộn nhịp, du khách trẻ có thể thoải mái vui chơi thâu đêm.
Từ xa thấy tháp Tsutenkaku là đài quan sát cao 103m. Tiền vé lên tháp 500 Yen có thể quan sát toàn thành phố. Ðặc sản ?Tsutenkaku Parfait? các món bánh ngọt và các tiện cafe thơm ngon. Shinsekai được gọi là biểu tượng của Osaka là địa điểm tập trung các quán ăn bình dân, các biển hiệu rực rỡ, du khách đến đây để ăn thử món Kushikatsu nổi tiếng. Taiyaki là chiếc bánh hình cá với nhiều hoa văn, bên trong là lớp nhân đa dạng với hương vị truyền thống đặc trưng chính là đậu đỏ rất nhiều du khách ưa thích. Món bánh cá này còn được sáng tạo bởi nhiều hương vị khác nhau, có cả nhân ngọt, nhân mặn hoặc cả kem lạnh. Chợ Kuromo chuyên về hải sản tươi và các cửa hàng rau quả, đồ khộ..các món ăn hấp dẫn Assorted Sashimi, Wagyu beef steak, Akamaru Shinaji, Kaiseki cusine.
Lâu đài Osaka nằm trên khu đất rộng một km². Nó được xây trên hai bệ đá cao tựa vào hai vách tường đá dựng đứng, bao quanh bởi hai con hào. Kiến trúc lâu đài trung tâm có 5 tầng ở phía ngoài và 8 tầng ở phía trong, và được xây trên một tảng đá cao để bảo vệ người trong thành chống lại những kẻ tấn công dùng kiếm. Nền thành có diện tích 60.000 m². Năm 1583 được Toyotomi Hideyoshi xây dựng làm đại bản doanh và căn cứ chính của mình để kiểm soát vùng Tây Nhật Bản?Qua nhiều triều đại người đã ra đi, tường thành vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt.
Cuộc hành trình dài từ Seoul-Tokyo- Kyoto-Osaka. Hằng ngày từ 9 giờ sáng đến 21 tối chúng tôi cố gắng đi xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, viếng các Ðền Chùa, những ngày cuối ở Osaka thấm mệt, các ngón chân bị bong dù mang giày, vớ đi bộ loại tốt. Chúng tôi đi dạo phố uống cafe, mua qùa cho ngày về vào tiệm mỹ phẩm Shiseido hỏi mua dầu thơm, được nhân viên giải thích có nhiều loại dầu nhãn hiệu là Shiseido nhưng không sản xuất tại Nhật, nên phẩm chất kém, đúng vậy phải chọn mua mỹ phẩm ?made in Japan? chính hiệu có uy tín đúng tiêu chuẩn mùi thơm. Các loại: Fucoidan, rong biển và trà xanh không sợ hàng giả có hóa chất độc hại như ở Việt Nam. Những ngày ở Kyoto và Osaka chúng tôi không gặp người Việt Nam. Ở Tokyo rất nhiều người Việt Nam là sinh viên, lao động, thỉnh thoảng gặp các đoàn du lịch từ VN với hành trình 6 đêm 5 ngày mà đi đến 3 thành phố lớn (họ vừa đi vừa chạy cho hết ngày)! chứ ?cưỡi ngựa xem hoả cũng hơi khó!
Dân số Nhật trên 127.078 401 triệu người, theo thống kê năm 2018. Nhật Bản từ xưa đến nay luôn được xem là một quốc gia sạch sẽ nhất trên thế giới. Sự sạch sẽ của Nhật Bản xuất phát từ yếu tố văn hóa. Nếu không tìm được thùng rác ngoài đường, người dân mang rác về nhà không vứt xuống đường. Mỗi khu vực có một hệ thống riêng, rác được phân thành loại đốt được bỏ vào các loại túi hay thùng (màu đỏ), không đốt được (màu xanh), giấy, nhựa, đồ hộp, các tông, xốp, chai nhựa, pin, kính vỡ, v.v (màu trắng). Toilette công cộng sạch sẽ không phải trả tiền, nhìn lại các thành phố ở Việt Nam trên mọi nẽo đường đều là rác! Các gốc cây, bờ tường là nơi đi tiểu bốc mùi hôi thối.
Các phương tiện giao thông công cộng sạch an toàn, không sợ cướp giật, móc túi, thoải mái không chen lấn khi lên tàu mọi người phải xếp hai hàng. Môi trường ít bị ô nhiễm. Ðời sống giáo dục của người Nhật rất văn minh lịch sự, từ trẻ cho đến người lớn tuổi, họ luôn yêu bảo vệ thiên nhiên và tôn trọng sinh hoạt về cộng đồng. Người Nhật thường cúi chào trước người khác thể hiện tinh thần biết trọng thị khiêm nhường. Xứ Nhật động đất nhưng kỹ thuật xây nhà cao tầng, cầu đường hết sức tuyệt vời, bảo đảm không sợ công trình bị rút ruột ăn bớt vật liệu, bởi vậy những trận động đất thường xảy ra không làm cho nước Nhật sụp đổ. Chúng ta không mơ ước gì hơn là mong trong tương lai dân tộc Việt Nam dân trí được phát triển để có thể đưa đất nước văn minh và tiến bộ. Việt Nam có tài nguyên phong phú hơn Nhật, Nước Nhật bị bại trận đầu hàng trong thế chiến thứ II và bị ảnh hưởng thiên tai như: động đất sóng thần tàn phá làm nhiều nơi hoang tàn, đổ nát đói khổ nhưng họ không cướp giật, hôi qủa. Họ kiên nhẫn xếp hàng nhận hàng cưú trợ và cúi đầu từ tốn cám ơn. Với sức người và tinh thần lý tưởng quốc gia sự sống người Nhật đã hồi sinh. Sau thế chiến II dân tộc Nhật đã đứng dậy khôi phục quê hương của họ từ đổ nát hoang tàn để trở thành một cường quốc cũng giống như nước Ðức. Sau Thế chiến II cũng bị chia đôi hai miền Ðông-Tây. Phiá Tây Ðức theo chủ nghiã tự do kinh tế phục hồi, công kỹ nghệ phát triển, từ năm 1972 Tây Ðức tổ chức Thế vận Hội Munich đã trở thành cường quốc. Ngày 3 tháng 10 năm 1990 thống nhất Ðông Tây trở thành một quốc gia giàu có nhất Âu Châu.
Nhìn lại dân tộc Việt Nam chiến tranh chấm dứt gần 43 năm, đời sống vẫn cứ chậm tiến và nghèo đói, lạc hậu, đạo đức, văn hóa suy đồỉ Xã hội bi đát như vậy mong người Việt trong nước suy ngẫm. Tôi xa Việt Nam gần 40 năm lúc nào cũng tưởng nhớ về quê Mẹ?Ngậm ngùi đọc lại bài vịnh Bức Dư Ðồ trong thi tập ?Khối tình con của Tản Ðà.
Nọ bức dư đồ thử đứng coi
Sông sông núi núi khéo bia cười!
Biết bao lúc mới công vờn vẽ
Sao đến bây giờ rách tả tơi?
Ấy trước ông cha mua để lại
Mà sau con cháu lấy làm chơi
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi
Nguyễn Quý Ðại
Tài liệu tham khảo
Explorer Kyoto. TokyỏGuide
Wikipidia
1/ Những người nhận giải Nobel và các giải thưởng khác xuất thân từ
Universität Kyoto
Hideki Yukawa (1907?1981), Nobelpreis für Physik (1949)
Shinichiro Tomonaga (1906?1979), Nobelpreis für Physik (1965)
Kenichi Fukui (1918?1998), Nobelpreis für Chemie (1981)
Susumu Tonegawa (* 1939), Nobelpreis für Physiologie oder Medizin (1987)
Ryoji Noyori (* 1938), Nobelpreis für Chemie [3] (2001)
Heisuke Hironaka (* 1931), Mathematiker, Fields-Medaille (1970)
Shigefumi Mori (* 1951), Mathematiker, Fields-Medaille (1990)
Tetsunari Iida (* 1959), Nuklearingenieur und Politikberater
Otake Fumio (1900?1962), Sinologe und Übersetzer
Ðộc giả có thể tham khảo xem hình ảnh phong cảnh ở Nhật
https://www.youtubẹcom/watch?v=n6CwzULoJdc
Nishiki Market https://bit.ly/2JgzcrC
https://www.alamỵcom/stock-photo/shirakawa-minami-dorịhtml
Fudodo temple https://bit.ly/2z0PS1m
Ðền fushimi inari-taisha https://bit.ly/2OTlAIU
Rừng tre https://bit.ly/2O6aDyt
Lâu đài Kumamoto Castle https://bit.ly/2D712WX
Yasaka Shrine https://bit.ly/2D3u2ix
Lâu đài Osaka https://bit.ly/2ENoave
Osaka Food https://matcha-jp.com/en/1852
Nguyệt San Giao Muà xin cám ơn những thân hữu đã dóng góp bài vở cho Nguyệt San Giao Muà số 200 . Một số bài khác sẽ được đăng dần vào số tớị Mong mỏi sẽ nhận được những sáng tác của các bạn bốn phương để cho Nguyệt San Giao Muà thêm phần hương sắc trong tương laị
2) Ðể rút ra danh sách của NSGM (unsubscribe),
xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
3. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về:
GiaoMua@hotmail.com
4. Mọi bài vở, đóng góp, xin gửi về:
GiaoMua@hotmail.com
Nguyệt San Giao Muà
Homepage: http://www.GiaoMua.com
Thể lệ gửi bài cho Nguyệt San Giao Muà:
Mong bạn gửi Bài cho GM theo cách này là tốt nhất :
1. Dùng mẫu chữ Vietnet (VIQR) hay Unicode
2. Viết Hoa chữ đầu của bài và bút hiệụ Ví dụ: Giọt Mưa Trên Lácủa NS Phạm Duy
3. Gửi bài ngay trong email (không kèm file), để cho BBT khỏi mất công download xuống để đọc
4. Gửi tất cả các bài trong 1 tháng 1 lần trong1 email, nếu tiện.
5. Bài vở xin gửi đến trước ngày 25 mỗi tháng
6. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com
Cám ơn bạn rất nhiều, vì nhân sự có hạn, BBT không thể ngồi đánh máy lại từng đề bài hay bút hiệụ
P.O . Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA
Trang Nhà