Số 205
Ngày 1 tháng 5 năm 2019
Nguyệt San Giao Mùa
P.ỌBox
378
Merrifield, Virginia
22116
USA
I . Thơ _______________________________________________________________________
1. Dòng Sông Tuổi Thơ | ______ Ngọc-Khuê Phan Thái Yên | |||||||||||||||||||||||||
2. Tình Phụ Tử | ______ Nguyệt Vân | |||||||||||||||||||||||||
3. Ừ ! Tháng Tư ... | ______Ðặng Xuân Xuyến | |||||||||||||||||||||||||
4. Tháng Tư | ______ Trần Huy Sao | |||||||||||||||||||||||||
5. Ðường Xưa Tôi Về | ______ Lê Miên Khương | |||||||||||||||||||||||||
6. Ngộ | ______Khóc_Cười | |||||||||||||||||||||||||
7. Thung Lũng Tình Yêu | ______ Phạm Ngọc Thái | |||||||||||||||||||||||||
8. Ngày Lễ Mẹ | ______ ChinhNguyen/H.N.T. | |||||||||||||||||||||||||
9. Lần Cuối |
______ Nguyễn Thị Thanh Dương. 10. Buồn Ơi ! |
|
______ Trần Thành Mỹ
| 11. Cánh Anh Ðào Rơi Trên Dòng Potomac |
|
______ Chương Hà | 12. Bước Chân Ðời
|
|
______ Nam Thảo | 13. Vẫn Là Lính
|
|
______ Ý Nga
|
14. Lửa Ngút Trời Trên Quê Hương Em
| |
______ Tình Hoài Hương
|
15. Khao Lề Thế Lính
| |
______ Sông Cửu
|
16. Tháng Tư Ðau Hồn Vong Quốc
| |
______ Hàn Thiên Lương
|
17. Nỗi Niềm
| |
______ Nguyễn Chí Hiệp
|
|
II . Văn _______________________________________________________________________
1. Chọn Vợ Hiền ___________ Nguyễn Thị Thanh Dương | 2. Huấn Luyện Phi Hành (truyện dài nhiều kỳ) ___________ Tình Hoài Hương |
3. 10 Lưu Ý Khi Chọn Ðất Ðể Ðặt Huyệt Mộ ___________ Ðặng Xuân Xuyến |
4. Ngày Tôi Xa Quê Hương ___________ Quách Như Nguyệt |
5. Ðọc Bài Thơ "Bạn Quan" Của Ðặng Xuân Xuyến ___________ Chử Văn Long |
6. Ðại Lễ Hai Bà Trưng Năm 2019 ___________ Phạm Hy Sơn |
7. Mưa Hồng, Mưa Hạ ___________ Bạch Liên |
III . Trả Lời Bạn Ðọc__________________________________________________
1. Nhắn Tin/Trả Lời Bạn Ðọc _______ Ban Biên Tập |
I . Thơ __________________________________________________
II . Văn___________________________________________________________
Nguyễn Thị Thanh Dương
2. Huấn Luyện Phi Hành (truyện dài nhiều kỳ) Tình Hoài Hương
face="Times New Roman">Tình Hoài Hương
3. 10 Lưu Ý Khi Chọn Ðất Ðể Ðặt Huyệt Mộ Ðặng Xuân Xuyến Ðặng Xuân Xuyến Quách Như Nguyệt
Quách Như Nguyệt 5. Ðọc Bài Thơ "Bạn Quan" Của Ðặng Xuân Xuyến Chử Văn Long
Chử Văn Long 6. Ðại Lễ Hai Bà Trưng Năm 2019 Phạm Hy Sơn
Phạm Hy Sơn Bạch Liên
Bạch Liên IIỊ Hộp Thư Toà Soạn
___________________________________________________
Thể lệ để nhận Nguyệt San Giao Muà:
1) Ðể vào danh sách của NSGM (subscribe),
xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
Ðịa Chỉ Liên Lạc:
Nguyệt San Giao Muà
Copyright
2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors
Anh Tư góa vợ khi tuổi đời còn trẻ. Anh đang đi tìm cho mình một tình yêu mới, một người vợ mới.
Ðối tượng anh mong ước là một phụ nữ chân quê hiền ngoan dịu dàng để bù đắp cho anh cuộc hôn nhân đầu không mấy hạnh phúc vì người vợ đanh đá lấn lướt chồng.
Anh quyết định tìm bạn bốn phương, nơi đây có nhiều cơ hội cho anh lưa chọn. Một vài bạn thân đã cản anh họ nói tìm vợ qua mục này là mạo hiểm gặp kẻ xấu nhiều hơn người tốt.
Người vợ qúa cố anh Tư đã gặp gỡ chẳng xa xôi gì, ngay trong hãng làm việc ngày nào cũng gặp mặt nhau và tìm hiểu nhau cả năm trời mới đi đến hôn nhân thế mà anh Tư vẫn lầm cưới phải một bà chằng.
Tìm bạn phương xa nếu có duyên vẫn gặp người như ý. Thế nên anh Tư muốn thử thách với đời.
Người con gái đầu tiên ở Việt Nam tên Hoa anh Tư quen biết qua mục tìm bạn bốn phương trên mạng..
Anh Tư đã về Việt Nam gặp Hoa tại làng quê của cô ở Vĩnh Long, Hoa dịu dàng hiền lành đón nhận chuyện tình cảm với anh, chỉ tha thiết xin anh khi cưới cô rồi hãy là người chồng chung thủy suốt đời. Thật sung sướng và hãnh diện khi được người đẹp xin chút tình yêu và hạnh phúc.
Về Mỹ, sau một vài lần anh Tư gọi phôn nói chuyện là Hoa đã tự động gọi lại cho anh, tấn công tình cảm nhớ thương ráo riết đến nỗi anh như lạc vào cõi u mê gởi tiền về Việt Nam cho cô chi tiêu và học Anh Văn để chờ ngày anh làm giấy tờ bảo lãnh cô sang Mỹ, chưa kể thỉnh thoảng anh Tư còn gởi thêm tiền theo yêu cầu của Hoa để lo cho cha mẹ, cho các em khi gặp chuyện cần thiết
Cho đến một ngày, anh Tư trở về Việt Nam vì muốn mang niềm vui bất ngờ cho Hoa nên anh không báo trước. Anh hí hởn xách một va ly đầy qùa đến thẳng nhà nàng ở Vĩnh Long tưởng rằng cô thôn nữ dịu hiền tên Hoa sẽ mừng vui mở cửa đón anh và đón qùa vào nhà. Nhưng cửa mở là một anh chàng gương mặt ba trợn hất hàm hỏi:
- Anh tìm ai?
Anh Tư bối rối :
- Tôi tìm cô Hoa nhưng?chắc tôi đi lộn nhà?
Anh ba trợn điệu bộ thách thức
- Không lộn đâu, tôi là chồng cô Hoa đây.
Anh Tư càng thêm bối rối, lắp bắp:
- Ủả.cô Hoa đã.. đã?
Anh ba trợn gằn giọng tiếp lời
- Ðã có chồng.. Hôm nay tôi theo vợ về quê ăn đám giỗ ông cố nội vợ.
Nhìn vẻ mặt và lời nói dữ dằn của anh ba trợn anh Tư biết điều rút lui ngay không muốn dây dưa thêm. Ra tới đầu ngõ anh mới hoàn hồn, một bà hàng xóm của cô Hoa đã chạy theo nói nhỏ với anh Tư ::
- Con Hoa là gái bán ba ở Sài Gòn, thằng đó là chồng hờ con Hoa, con Hoa chuyên gài bẫy mấy ông gìa dê hay mấy tay Việt kiều mê gái để làm tiền..
Anh Tư hú vía kiểm điểm lại cũng mất khá nhiều tiền với Hoa nhưng may mà chưa tiến xa hơn, chưa thân tàn ma dại.
Cô Hoa đúng là một cô gái quê nhưng chỉ là trong qúa khứ mà thôi.
Tức giận và cay đắng vì bị lừa tình lừa tiền mất mặt với người thân và bạn bè vì ai cũng nghe tin anh sắp cưới được một người vợ hiền trẻ đẹp từ Việt Nam.
Anh nghi ngờ và thù ghét tất cả những cô gái quê trẻ đẹp qua mục tìm bạn bốn phương.
Càng ghét anh càng tò mò thích ghé mắt vào mạng coi mục này, thấy cô Hoa lại tiếp tục đăng lời tìm bạn trai ở hải ngoại, cũng thiết tha, cũng chân thật như lần trước với tấm hình xinh đẹp của cô ai nhìn mà không động lòng. Không biết đã có anh chàng Việt kiều dại gái nào như anh đang đâm đầu vào chưa?
Nhưng một mẩu đăng tìm bạn của một cô gái khác đã đập vào mắt anh, lời rao tìm bạn rất thực tế:
? Tôi tên B.V. gái quê miền Bắc, hiền lành, nhan sắc khá. Muốn được kết hôn với bạn trai ở nước ngoài để thoát cảnh đói nghèo. Không phân biệt tuổi tác, chỉ cần tình yêu thương và tôi sẽ là người vợ hiền chung thủỷ
Anh Tư đã nhún vai :
- Lại một cô Hoa thứ hai.
Lần trước cô Hoa là gái miền Nam, lần này B.V là gái miền Bắc. Gái quê miền Nam nổi tiếng thật thà mà cô Hoa còn lừa lọc thế huống chi gái miền Bắc thường khôn ngoan đáo để.khôn lường.
Anh chợt nảy ra ý định trả thù đời.
Thế là anh Tư làm quen với cô gái có tên tắt là B.V. Anh gọi số phôn của cô khi nghe đầu giây bên kia nói ?A lổ anh Tư nói ngay:
- Tôi muốn gặp cô Bích Vân hay Bạch Vân gì đó .
Một giọng nói Bắc kỳ rụt rè và ngại ngùng:
- Anh? nhầm số rồi ạ?
- Tôi tin là gọi đúng mà. Có phải cô tìm bạn bốn phương trên mạng không? Tôi muốn làm quen với cô.
- Vâng, nhưng em không tên là Bích Vân, Bạch Vân. Anh nhầm ai rồi
Anh Tư cố dằn cơn bực mình giải thích thêm:
- Tôi đọc mẩu rao gái quê hiền lành muốn tìm bạn, tên viết tắt là B.V. Thế không là Bích Vân, Bạch Vân thì là gì?
Cô gái cẩn thận hỏi lại:
- À, viết tắt là B.V hở anh? chắc là em vì em tên Bền Vững, Nguyễn Bền Vững anh ạ.
Anh Tư mỉa mai nghĩ thầm: ? Ngây thơ vụng về nhà quê qúa nhỉ. Chính mình đăng tìm bạn mà còn không nhớ BV là ai. Hừm, nói dối nhiều qúa nên không nhớ nổi, biết đâu Bền Vững cũng chỉ là cái tên gỉa cho ra vẻ nhà quê chính hiệủ.
Anh lẩm bẩm cho thuộc cái tên:
- Bền Vững?cái tên nghe lạ lạ...
Cô gái tự tin hơn:
- Bố em đặt thế vì muốn cho cuộc sống của em sau này luôn có hạnh phúc bền vững lâu dài. Nhưng cũng khổ lắm anh ạ, hồi còn bé đi học các bạn cứ trêu chọc vì tên em như tên con trai ấy.
Lối nói chuyện của cô Bền Vững thật chân quê. Nhưng anh Tư đã từng nghe về các cô gái Bắc lấp lánh sắc màu đủ kiểu, hiền lành mà chua ngoa, thật thà mà xảo trá, ngây thơ mà đầy bản lĩnh. Anh thú vị trước cuộc chơi này để cô Bền Vững trước sau gì cũng sẽ phơi bày bộ mặt thật
Trong vòng một tháng hai người đã nói chuyện với nhau nhiều lần và thân nhau hơn. Nhưng chỉ có anh Tư gọi cho Bền Vững, chứ cô chớ hề gọi lại cho anh. Ðó là phong cách làm cao ?cáo gìa, chảnh chọẻ của các cô gái Bắc đỏng đảnh. Anh nghĩ thế
Thế là anh lại gọi cho Bền Vững để câu chuyện tiếp tục tiến triển như ý muốn. Lần này anh Tư sẽ tấn công nhanh hơn :
- Chào em Bền Vững.
Như thường lệ cô hỏi thăm lê thê:
- Anh Tư có khỏe không? Hai bác có khỏe không? và các anh chị em của anh ở bên Mỹ có khỏe không ạ?
- Mọi người đều bình thường. Lần sau em hỏi thăm thì gom lại thành một câu ngắn gọn là ?Cả nhà anh có khỏe không?? là đủ rồi, khỏi cần dài dòng em nhé, giòng họ anh nhiều lắm, em hỏi thăm sao cho hết..
- Vâng ạ.
- Anh muốn báo em một tin vui là anh sẽ về Việt Nam thăm em và gia đình để hai ta gặp mặt và tìm hiểu nhau nếu hợp sẽ tiến xa hơn.
Bền Vững mừng vui:
- Thật thế hở anh. Em mong ngày gặp anh lắm. Em sẽ cho bố mẹ em biết để chuẩn bị đón anh về thăm quê hương em.
- Anh sẽ mua vé máy bay và báo cho em biết ngày giờ anh xuống sân bay Nội Bài
Cho cô Bền Vững niềm hi vọng ngất ngây vui mừng xong anh Tư thở phào, coi như chấm dứt một vở hài kịch.
Sẽ có một người vỡ mộng như anh đã từng vỡ mộng.
Anh sẽ ngồi ở Mỹ và ung dung tưởng tượng ra cái ngày cô Bền Vững hí hửng ra phi trường Nội Bài đón anh về, cảnh cha mẹ cô chộn rộn ở nhà chờ mong con đưa bạn trai Việt kiều từ Mỹ về và mơ ước một tương lai tưoi sáng đang chờ khi con gái họ được cưới sang nước Mỹ định cư
Nhưng cô Bền Vững sẽ bẽ bàng thất vọng vì chẳng có anh Tư việt kiều nào về trong chuyến bay, cô sẽ phải trở về với con người thật của cô, nếu cô không nham hiểm lừa đảo như cô Hoa thì cũng là một cô gái khôn ngoan đáo để nào đó ở thành phố đang bán bia ôm, đang làm bồ nhí đại gia, hay làm gái gọi muốn từ gĩa ?ngành nghề? tai tiếng này để lập lại cuộc đời tươi sáng hơn dưới vỏ bọc là một cô gái quê hiền lành thật thà như trước kia cô chưa hề sa chân vào cạm bẫy cuộc đời.
Những Việt kiều xa xôi vạn dặm như anh Tư thì đời nào biết được những mảnh đời éo le như thế?
Anh Tư chợt cao hứng, ngồi nhà tưởng tượng ra chưa hả hê bằng tận mắt chứng kiến màn cuối của vở kịch bi hài này Lần trước anh bị gái đẹp lừa, lần này anh lừa lại gái đẹp thế là huề, không nợ nần ân oán gì nhau.
Anh quyết định mua vé máy bay về Việt Nam.
Anh sẽ nhìn thấy con cáo gìa đóng gỉa nai tơ và dĩ nhiên chẳng đời nào anh lộ diện chứ đừng nói đến chuyện theo con cáo ấy về quê hương nghèo khổ của nó như ngày nào anh đã theo chân cô Hoa về Vĩnh Long.
*****************
Anh Tư ở trong một khách sạn tại Hà Nội, ngày hôm sau anh thuê xe taxi đến phi trường Nội Bài..
Chuyến bay của anh cho cô Bền Vững đến vào buổi chiều, rất bài bản và đúng với thực tế vì anh đã hỏi tại dịch vụ bán vé máy bay ở Mỹ lịch trình ngày giờ chuyến bay về tới Việt Nam, dĩ nhiên anh không mua vé đi chuyến bay đó.
Còn chuyến bay thực sự có mặt anh Tư thì về Việt Nam sớm hơn một ngày nên hôm nay anh đã có mặt tại phi trường Nội Bài trà trộn với đám đông người bên ngoài đang chờ đợi đón thân nhân từ Mỹ về khi sắp đến giờ máy bay đáp xuống.
Anh Tư đứng một chỗ khuất kín đáo để ý kiếm tìm và dễ dàng nhận ra một cô gái trẻ mặc áo trắng tay cầm một cánh hoa Hồng màu đỏ đúng như anh và cô đã giao ước, còn cô chốc nữa đây sẽ mỏi mắt tìm anh chàng Việt Kiều từ trong bước ra cũng mặc áo sơ mi màu trắng, ngực áo có đeo bảng tên Nguyễn văn Tư không bao giờ xuất hiện.
Anh ngạc nhiên sững sờ vì cô gái trông thật sự nhà quê, cách ăn mặc đơn giản và nét mặt xinh đẹp hiền lành ngơ ngác giữa chốn đông người.
Chuyến bay đến đúng giờ hành khách từ trong kéo hành lý ra ngoài gặp gỡ thân nhân, cô Bền Vững đến gần nhìn kỹ từng người rồi lại lui ra chờ đợi người khác, nét mặt cô lúc thì lộ vẻ căng thẳng vui mừng lúc thất vọng lo âủ
Cho đến khi dường như số hành khách của chuyến bay đã ra ngoài hết thì cô thật sự tuyệt vọng, cánh hoa Hồng đỏ trên tay cô hững hờ, cô đứng bơ vơ một góc chưa biết phải làm gì.
Anh Tư không hề cảm thấy hả hê thú vị như anh đã nghĩ, anh không muốn rút lui vì đã đạt ý nguyện mà trái lại anh càng tò mò muốn biết tâm trạng của cô lúc này.
Anh bước thẳng đến bên cô, anh sửa giọng cho khác đi một chút:
- Tôi có thể giúp gì cho cô không?
May qúa, cô không nhận ra giọng nói của anh vì có thể giọng nói qua phôn đường dài khác với giọng nói khi thực tế đối diện. Còn anh đã nhận ra đây là giọng nói của cô Bền Vững khi cô ngại ngùng chối từ và định quay đi:
- Không có gì ạ. Thôi tôi về đây.
- Tôi thật sự muốn giúp cô mà, nãy giờ tôi thấy cô đứng đây đã lâu.
Cô Bền Vững đành dừng chân lại:
- Không biết đã hết người của chuyến bay này chưa hở anh?
- Không còn ai nữa đâu.
Cô gái lập lại câu nói cũ:
- Thôi tôi về đây.
- Khoan đã, tôi có thể làm quen với cô được không? Tôi cũng là hành khách vừa từ nước ngoài về thăm Việt Nam, tôi thật sự muốn có một người bạn gái dịu dàng như cô.
Cô vội vàng từ chối:
- Không, tôi đã có bạn trai rồi. Hôm nay tôi đi đón anh ấy, chào anh.
- Tôi không tin thế vì bạn trai của cô đã không xuất hiện.
Cô gái khẳng định:
- Chắc anh ấy bận chuyện gì đó nên không về đúng hẹn chứ anh ấy nói dối tôi để được gì?.
Cô gái tất tả bước đi như sợ bị người lạ níu áo lại.
Giây phút này tình thế đổi ngược, anh Tư bỗng bồi hồi cảm động và có chút ân hận, cô Bền Vững qủa là một cô gái hiền lành đoan trang vậy mà anh đã nghi ngờ và thử thách cô.
Anh Tư nhanh chóng đứng ngay trước mặt cô vì sợ cô đi mất:
- Cô Bền Vững, cô không nhận ra tôi sao? Tôi là Nguyễn văn Tư đây.
Cô Bền Vững đứng sững sờ nhìn anh Tư, anh nói giọng bình thường thật chậm cho cô nhận ra:
- Tôi là người đã làm quen cô trên mục tìm bạn bốn phương trên mạng hơn hai tháng nay và đã hẹn gặp cô ngày hôm nay.
Cô gái ngạc nhiên và mừng rỡ:
- Anh là anh Tư đây sao??
Anh càng thêm cảm động trước cử chỉ của cô:
- Anh thành thật xin lỗi em vì đã để em chờ?.
Cô gái mỉm cười:
- Thật bất ngờ qúa, em đang không biết sẽ trở về nhà nói với cha mẹ em làm sao.
Anh Tư hỏi cái điều mà anh từng thắc mắc từ khi làm quen với cô:
- Nhưng anh hỏi thật em nhé, em có vẻ là một cô gái quê ít giao thiệp với cuộc đời, sao em lại có ý nghĩ tìm bạn bốn phương và bằng cách nào đăng trên mạng? Em có biết là lãng mạn và mạo hiểm lắm không? Sẽ có những người thật lòng và không thật lòng đến với em.
Cô gái thật thà:
- Vâng, em đã gặp người xấu rồi, có mấy người gọi điện cho em nói chuyện trên trời dưới đất, hứa hẹn những điều không tưởng. Em biết họ chỉ đùa bỡn không thật lòng nên không tiếp xúc với họ nữa, còn chuyện tìm bạn của em là ngẫu nhiên thôi, một người bác họ của em ở Mỹ về thăm quê miền Bắc thấy cảnh nhà em nghèo bác ấy muốn giúp em lấy chồng ở nước ngoài hi vọng em được đổi đời thoát khỏi cảnh khổ nên bác liều đăng trên mạng tìm bạn cho em để cầu maỵchứ em chả dám mong..
- Có lúc nào em nghĩ anh cũng không thật lòng và đùa giỡn với em không?
- Em không dám nghĩ thế?
- Khi nào rảnh anh sẽ kể cho em nghe sau, nhưng kể từ giờ phút này thì em hãy tin anh nhé.
- Vâng ạ.
- Vậy anh có thể theo em về quê ngay bây giờ không ?
Cô gái cảm động và hãnh diện:.
- Anh không chê em nhà quê nhà nghèo thật qúy hóa vô cùng, bố mẹ em đang chờ đón khách phương xa đến thăm nhà đấy..
Họ đón Taxi về khách sạn ở Hà Nội để anh Tư lấy hành lý đồng thời Taxi sẽ đưa họ về làng quê cô Bền Vững cách Hà Nội khỏang 4 giờ lái xe.
Anh Tư sẽ thuê phòng một khách sạn tại thị xã nơi gần làng quê của Bền Vững nhất để tiện việc đi lại với gia đình cô.
Anh Tư đã đến một làng quê nghèo. Cha mẹ cô Bền Vững là nông dân và hiền lành chất phác..
Anh Tư thân tình hỏi cha mẹ cô Bền Vững:
- Hai bác cho em Bền Vững quen người ở Mỹ xa xôi như cháu, hai bác có an tâm không?
- Nhà chúng tôi nghèo nhưng anh không chê, không quản ngại từ xa xôi về muốn làm quen với em nó thì chúng tôi vui lắm, anh và em nó cứ tìm hiểu nhau thêm?
Anh Tư hào hứng:
- Nếu sau này cháu muốn cưới em Bền Vững mang sang Mỹ, con gái đi xa hai bác có buồn không?
Bác trai cũng hào hứng:
- Ở Mỹ là nhất anh ạ, ngày xưa chúng tôi chống Mỹ, nhưng bây giờ chúng tôi ?chấm? Mỹ, chỉ thích cho con đi Mỹ thôi.
Chỉ qua vài câu chuyện với cha mẹ Bền Vững cũng đủ cho anh Tư hiểu họ là những người nông dân lương thiện, thật thà và cởi mở.
Ở đời chuyện xấu tốt tuỳ người, những người đăng tìm và đi tìm bạn bốn phương có thật và có gỉa dối, tí nữa anh mất đi một mối chân tình vì vơ đũa cả nắm.
Ở chơi với gia đình cô Bền Vững một tuần thì anh Tư phải từ gĩa trở về Mỹ, anh đâu ngờ cô Bền Vững dễ thương đến thế, chân tình đến thế, cha mẹ cô tử tế đến thế. Anh tiếc là chuyến ở Việt Nam của anh qúa ngắn ngủi.
Trong lòng anh Tư đang có niềm vui phơi phới vì đã tìm được đúng người, cô Bền Vững sẽ là người yêu, người vợ hiền như anh từng mong ước, mai này các người thân và bạn bè của anh ở Mỹ sẽ phải ngạc nhiên và ghen tị với anh vì điều may mắn này.
Hôm qua anh đã nói chuyện và hứa hẹn nhiều điều với cô Bền Vững, anh dặn dò mấy lần:
- Em chờ nhé, anh sẽ về cưới em và bảo lãnh em qua Mỹ
Ðáp lại cô Bền Vững ngây thơ cũng hứa hẹn sẽ yêu anh trọn đời.
Tiễn anh Tư ra phi trường Nội Bài có cha mẹ và cô Bền Vững. Cuộc chia tay bịn rịn và cảm động kẻ ở người về.
Khi anh Tư từ gĩa vào trong đã lâu mà gia đình cô Bền Vững vẫn còn đứng chờ ở ngoài. Bố mẹ cô sốt ruột liên tục giục con gái:
- Ta về thôi, anh ấy chắc đã lên máy bay rồỉ
- Phi trường đông người nhìn ông đi qua bà đi lại mẹ hoa cả mắt, nhức cả đầu. Về đi con?
Cô Bền Vững gắt toáng lên:
- Bố mẹ làm gì mà cứ nhắng lên thế, Biết rồi, nhưng đợi con hỏi lại cho chắc..
Cô nhanh nhẹn chạy ra hỏi một nhân viên phi trường và được xác nhận là chuyến bay ấy đã cất cánh cách đây 10 phút thì cô mới thở dài nhẹ nhỏm, cô nói:
- Bây giờ bố mẹ đón xe về quê, con ở lại Hà Nội. không cần đóng vai gái quê nữa, anh Tư chẳng có cánh mà bay ngược trở lại ngay lúc này đâu.
Bà mẹ ngần ngừ:
- Thì con cứ về làm gái quê như từng là gái quê càng tốt chứ sao, làm vương làm tướng gì mà ở mãi Hà Nội?
- Về quê chán lắm bà gìa ạ, ở một tuần mà con muốn điên cả người. Nhưng bất cứ khi nào có anh Tư Việt kiều con lại trở về quê làm con gái ngoan của bố mẹ như chưa từng đi hoang.
Cô nghênh mặt tự hào:
- Mẹ cứ yên tâm, con chắc anh Tư sẽ về cưới con, con sẽ lấy được tấm chồng như bố mẹ từng mong đợi mà lại là chồng Việt kiều Mỹ hẳn hòi, hơn hẳn những đứa lấy chồng Ðài Loan, Hàn Quốc đấy nhá.. Người ta nói đánh đĩ mười phương cũng chừa lại một phương để lấy chồng làm lại cuộc đời quả không sai. Không bao giờ con hí cho thằng tình nhân, thằng chồng hờ hay con bạn nặc nô cà chớn nào biết lai lịch nguyên quán của con nên đối với làng quê mình con vẫn là gái ngoan tử tế con nhà lành..
Ông bố giật mình mắng con gái:
- Ôi, con này ! khẽ mồm khẽ miệng chứ, mày ăn nói sỗ sàng và to tiếng thế ai nghe được thì tao đeo mo vào mặt. Ở làng quê bố mẹ phải nói dối và che đậy cho mày, nói mày lên Hà Nội làm việc trong một nhà máy ...
- Bố nhạy cảm nhỉ, ở Hà Nội con mặt dày như mặt đường nhựa cao tốc rồi. Chỗ này thiên hạ không ai biết mình đâu bố đừng lo. Nhưng bố mẹ thấy con đóng vai gái quê ngoan hiền có đạt không? Cũng phải kể đến công lao của mẹ góp phần vào, mẹ đã giúp con nấu nướng những món ăn dân gĩa miền bắc, món nào anh Tư cũng rối rít khen con đảm đang và khéo tay trong khi con là thứ gái đoảng. Muối cà, cà thâm. Muối dưa, dưa khú. Nấu cháo, cháo khét. Quậy bánh đúc, bánh đúc khể
Bà mẹ thật thà âu yếm trách con :
- Con liệt kê đủ thứ đoảng mà món chủ yếu lại quên. Nấu cơm, cơm sống nữa chứ con. Mấy lần con nấu cơm không sống trên cũng sống dưới. Rõ khổ, may mà con đã mua về một nồi cơm điện để giải quyết vấn đề?
Cô Bền Vững nhún vai:
- Lên Hà Nội con lại ăn cơm hàng cháo chợ nên đến bây giờ vẫn chưa biết nấu nướng là gì.
Ông bố thở dài:
- Bà chiều nó qúa nên mới thế, mới ra nông nỗi này..
- Ý ông lại đổ vạ tại tôi nuông chiều đứa con gái độc nhất của chúng ta nó mới đổ đốn hư hỏng bỏ nhà đi hoang đấy hử ? Ông có giỏi sao không cho tôi đẻ thêm đứa thứ hai, thứ ba, thứ tư đi thì đâu đến nỗỉ
Ông bố điên tiết:
- Bà lại ngoạc mồm ra chê trách tôi sau trận ốm vàng da sốt rét thập tử nhất sinh tôi không thể có con được nữa hả? hả? đừng có chọc vào tự ái của tôi. Rõ chửa?
Cô Bền Vững cong cớn đe dọa:
- Hai ông bà mà cãi nhau nữa là đây ở Hà Nội luôn không thèm thỉnh thoảng về quê thăm nhà cho biết thân?.
Hai vợ chồng nhà quê vội vàng xuống nước vì sợ con gái nổi giận tung hê bất cần đời giữa chốn công cộng này:
- Ðừng đừng con?bố mẹ chỉ lẩm cẩm nhắc lại thôi
- Bố mẹ hiểu rồi, dù sao con cũng đang muốn tìm chồng để làm lại cuộc đời. Con tìm đâu ra anh Tư Việt kiều thật là giỏỉ, chẳng đoảng tí nào..
Cô Bền Vững nguôi ngay và khoe thành tích:
- Tâm lý Việt kiều nào về Việt Nam chẳng muốn cưới vợ hiền, vợ ngoan, càng nhà quê càng được tin yêu. Con đã ra tay thì anh Tư có mà chạy đằng trời .
Bà mẹ khuyên con:
- . Ừ, anh Tư có vẻ tin cậy và thương yêu con, hãy giữ gìn mối quan hệ này cho tốt?
Ông bố năn nỉ:
- Mày liệu mà lấy chồng đi, lông bông mãi là tàn đời con ạ. Bố mẹ bó tay không dạy bảo được mày, bố chỉ xin mày nghiêm túc nghe lời một lần này thôi.
- Khỏi cần bố mẹ dạy đây cũng biết thừa, gái hư hỏng như con ở Việt Nam ai thèm lấy có chăng là Việt kiều phương xa hay lấy tây lấy Mỹ thôi. Nói thật nhé, đây ăn chơi Hà Nội chán rồi đang muốn được tung cánh bay đi Mỹ đi Tây xem nó sung sướng thế nào.
Ông bố chửi thầm : ? Con nhà hỗn như gấu !?
Bà mẹ rên rỉ thầm: ? Vô phúc cho thằng nào vớ phải mày con ạ?.
Cả hai cùng nghĩ và cùng chẳng dám thốt nên lời.
Cô Bền Vững đầy khôn ngoan bản lĩnh, cô đã tự đạo diễn cho mình một kịch bản chặt chẽ và hợp lý, đóng vai cô gái quê tìm bạn trên mạng, lúc ngơ ngác ở phi trường Nội Bài, lúc thấy anh Tư xuất hiện con cáo gìa như cô đã đóan ra anh Tư ngay dù chưa hiểu thấu đáo anh xuất hiện bất ngờ thế vì lý do gì, cô càng diễn giỏi diễn hay hơn nữa vai trò cô gái quê đoan trang hiền thục làm anh Tư ngả nghiêng từ những phút gặp gỡ đầu tiên ấy.
Những ngày cùng bố mẹ tiếp anh Tư cô luôn ra vẻ là đứa con ngoan, là cô gái tốt càng làm anh Tư thêm quấn qúyt và gắn bó
Nhớ lại anh Tư đã kể cho cô chuyện bị cô Hoa lừa, cô Bền Vững nhếch môi cười khinh bạc, khinh thường cô Hoa gái quê người miền Nam kia chưa sắc bén và kinh nghiệm đời còn non kém thua xa gái Bắc kỳ đầy bản lĩnh như cô, thà hư hỏng tai tiếng ở đâu nhưng với quê hương bản quán mình phải giữ gìn. Làng quê, gia đình là nơi an toàn nhất để trở về dung thân làm lại cuộc đời..
Chia tay bố mẹ tại bến xe trước khi mỗi người đi một ngã cô Bền Vững tươi cười hứa hẹn:
- Ông bà gìa cứ về quê và chờ đợi tin vui nhé. Anh Tư Việt kiều sẽ sớm về Việt Nam xin cưới con, mà dù chẳng may anh có ?xù? thì con cũng sẽ tìm được anh Tư Việt kiều khác để rước đi đứa con gái giời đánh này, của nợ đời này, oan gia nghiệp chướng này cho bố mẹ được ăn ngon ngủ yên .
Truyen Dai
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 19
Những Cánh Cửa "Vũ Môn"
Ðợt 33.-
Tóm lại, Phi Hành cùng bạn hữu đã tới các trường, các lớp, những nơi cần thiết học tập và thực hành hầu như đầy đủ các bộ môn:
- Khoá Anh ngữ (General & Specialized) tại căn cứ Không-quân Lackland, San Antonio, Texas.
- Trường huấn luyện phi cụ IPIS tại Randolph AFB, Texas.
- Trường dạy Khu-trục tại Hurlburt Field ở Florida.
- Trường bay Hải quân Hoa Kỳ Corpus Christi, Texas.
- Trường quân sự Hải quân Hoa Kỳ tại Pensacola, Florida.
- Trường Hải quân Hoa Kỳ, học về cao đẳng phi hành (Advanced taining) trên phi cơ T ? 28 B / C ; có chong chóng ba cánh, và phi cơ A D-6 Skyraider VT-30, Corpus Christi, Texas.
- Học lớp UPT (I-28 Air Force) trên phi cơ T ? 28 A Trojan ? Keesler AFB, MS tại Randolph (Texas).
Trong cánh cửa "vũ môn" ấy, Hành thích học và thực tập nhất là loại phi cơ C 130, vì nó bệ vệ an toàn, do có hệ thống động cơ, thủy điều, điện? Những thứ đó có thể thay thế, khi một trong những thứ ấy khi bị trục trặc. C 130 thật kỳ diệu và đặc biệt là: có thể gắp bốn động cơ; chứa được 28,000 gallons xăng JP4 trong cánh, và hai bình xăng phụ Pylon Tank.
Ðợt 34.-
Việc đầu tiên người chịu trách nhiệm máy móc leo lên nóc check hệ thống cánh quạt lớn, lên ?tail skid? check cánh quạt đuôi, rồi anh cơ phi (cơ khí viên phi hành) kiểm soát lại dầu máy, dầu hộp số, coi nó có ở ngay cái vạch an toàn không, anh cẩn thận chu đáo coi hết từ trên xuống dưới, hai bên thân tàu, vân vân... Xong xuôi, anh ra dấu hiệu an toàn 100% - để phi công sẵn sàng chuẩn bị đi "quay cuồng với máy bay" trên không trung bao la.
Hành đến bàn sĩ quan trực lập phi trình, điền sổ phi vụ lệnh, ghi nhận toạ độ, coi toạ độ, sau đó anh leo lên phi cơ ngồi gọn gàng trên ghế trái trên phi cơ làm "hoa tiêu chính". Gài dây an toàn, Hành để quyển check list trên đùi xong, anh đội mũ, đeo ống nghe để liên lạc với đài kiểm báo và nhân viên dưới đất. Một tay anh vói lên đầu cần kiểm soát các cầu chì bên hộp trái, và bên phải. Rồi Hành tìm nút overhead panel, để khởi động GTC; kiểm soát 32 cái đồng hồ trước mặt giữa vị trí của phi công chính và phi cơ phụ. Lúc trước thầy làm tới đâu, thì Hành phải ghi nhớ và học thuộc lòng các động tác. Hôm nay Hành cũng làm y chang như thầy.
Ðợt 35.-
Những lần sau Hành tập bay solo với bốn chiếc khác, tập bay hợp đoàn (Formation Flight). Hành bay qua Tampa (FLA) vài ba lần. Vì nhà ông thầy ở vùng đó. Theo chương trình suốt thời gian bay, thỉnh thoảng Hành được đi bay không hành nhiều lần. Nghĩa là đến cuối tuần vào chiều Thứ Sáu, Hành lên phòng khí tượng làm Flight Plan (bản đồ bay). Mình có quyền chọn địa điểm nào mình ưa thích, để bay đến đó, thì Hành báo cho thầy biết nơi mình sẽ đến. Ông thầy chỉ có việc bỏ vào túi xách phi hành (Flight Bag) mấy bộ quần áo. Ông thầy điềm đạm và ung dung lên sân bay chờ Hành. Hành thường chọn bay đến Oklahoma, vì nơi đó có gia đình bà chị đang sinh sống. Sáng thứ Bảy, Hành gọi phone báo cho chị biết tin. Anh chị sẽ lái xe chạy lên phi trường đón em về nhà họ, Hành ở chơi trọn kỳ week-end. Chiều Chủ Nhật, thì anh chị đưa em trở lại phi trường, Hành sẽ cùng ông thầy bay trở về trường học.
Bình thường đi bay, ban ngày trời trong xanh gió nhẹ? thật là lý tưởng cho người phi công, để bay bằng mắt thường, nghĩa là mình dễ điều khiển con tàu, dựa theo cảnh vật bên ngoài mà mình trông thấy, thì dường như quen thuộc, dễ dàng nhận xét mình đang ở nơi nào hơn, và theo giác quan mà mình cảm nhận rõ ràng từng vị trí. Ví như nhờ ta nhìn thấy đường chân trời, nên biết mình đang cho phi cơ bay chúi xuống; hay ngóc đầu lên, máy bay đang nghiêng, hay bình phi, v.v? Ðó là bay theo mắt trần của mình, nên còn gọi là Visual Flight.
Dĩ nhiên cũng có nhiều khi máy bay lướt nhẹ qua những đám mây mỏng lưa thưa, lúc đó càng làm cho Hành thêm vui tươi hứng khởi, mình có cảm giác lâng lâng, bềnh bồng, lả lướt, khoái cảm và nên thơ, thú vị biết chừng nào; đâu cần mộng mơ lãng mạn, mà tưởng như mình đang len lỏi, đùa vui, nắm vuốt dãi áo lụa trắng ngà, mềm mại của các nàng tiên nữ duyên dáng xinh như mộng đang uyển chuyển, phất phơ trong điệu vũ khúc nghê thường trên chốn bồng lai tiên cảnh? đào nguyên! ái dà dá da... thiệt là thích ơi là thích.
Còn về đêm trời đẹp, nhờ có ánh đèn xa xa của thành phố nầy, thành phố nọ mà mình đã thăm viếng hoặc bay qua vài lần, thì nhờ vậy mình cũng có thể định vị của máy bay cũng được. Dù có? gay go hơn ban ngày! Ngược lại, bay phi cụ (Instrument Flight) là phi công chỉ bay theo, và căn cứ vào những cái phi kế thôi! Tất nhiên họ phải tin tưởng tuyệt đối vào những cái đồng hồ đỏ quoạch nầy, để uyển chuyển linh động, nhịp nhàng mà điều khiển máy bay, cốt yếu là mình phải giữ phi cơ bay thăng bằng, lên xuống, hay nghiêng, quẹo, ... đều dựa theo mấy cái đồng hồ nầy! Nó cũng tương tợ như là... "phù chú của vị thần hộ mệnh" ấy mà!
Mấy tay "lão luyện" nầy khá giỏi, có nhiều năm trong nghề bay, có nhiều kinh nghiệm, thì tay lái vững vàng lắm rồi! Hành nghe nói mấy tay bay phi cụ là họ có card trắng hay xám gì đó. Khi phi trường bị đóng cửa vì thời tiết xấu, hạn chế nhiều loại máy bay, thì những tay được mang card loại nầy họ chỉ cần thông báo với đài kiểm soát card của mình: màu gì? số mấy... là họ được quyền cất cánh ngay. Mấy tay ?săn bãỏ chắc cũng thuộc hàng ?sư tổ, đại sư phụ? của mấy ?ngài phi cụ? rồi!
Còn Hành, bay đêm nay thì coi như Visual Flight thôi, vì thời tiết khá trong lành. Tốt nhất là bay lúc trời sáng sủa là an toàn hơn. Có tầm nhìn cao (Visibility). Dù trong lúc bay Hành cũng liếc nhìn vào phi cụ, nhưng không phải chỉ chăm chú bay theo phi cụ không thôi! Do trong tâm trí anh cứ mãi thắc mắc định hỏi thầy, hay tìm tòi học hỏi nơi sách vở, nơi bạn bè, nhưng rồi anh cứ quên hoài quên huỹ, cứ lu bu chuyện nọ chuyện kia, nên Hành không nhớ hỏi thầy, hoặc nhờ các niên trưởng chỉ giáo thêm về sự thắc mắc, mà anh chưa khi nào dám thực hành, chuyện như vầy:
- Tất cả các loại phi cơ khi bay trên không trung bao la, các huấn luyện viên kỳ cựu đều có thể bay lên, bay xuống, bay thẳng tới trước, quẹo gắt, lật ngửa, thậm chí maý bay úp sấp, hay chổng ngược đuôi lên trời dễ dàng, rồi vèo một cái vút bay thẳng đứng lên trời cao. Mọi việc họ đều thao tác tuyệt vời. Thế nhưng Hành không thể biết: các loại phi cơ ấy có thể bay thụt lùi như mình ?de xe lạỉ được không nhỉ?
Ðợt 36.-
Sau bao tháng ngày trầy trật bận rộn, nhọc nhằn lo học và hành, nay Hành bay gần như thành thạo. Bây giờ nhớ lại, cảm giác lâng lâng trong hạnh phúc nhẹ nhàng êm ái của thuở ấy dường như hãy còn nguyên vẹn. Khoá sinh được biết năm vừa rồi có một sinh viên Việt Nam bay đêm như thế nầy, khi sắp về đến sân bay bỗng nhiên phi cơ của anh ta bị lật ngửa. Phi cơ lao xuống khu rừng bên cạnh. Anh ta bị vertigo! (tạm coi như choáng váng, không nhận biết vị thế thật sự của máy bay như thế nào, mà anh chỉ tin vào cái ?ảo giác sai lầm? - lúc đó như: về độ cao, sự thăng bằng?). Nhân khi nói đến vertigo, một hiện tượng có thể xảy đến với bất kỳ một phi công nào khi baỷ lỡ bị lọt vào trong mây do thời tiết xấu, hay trong đêm tối mịt mùng không một ánh trăng sao! Thì? chao ơi, có lẽ hầu hết ai ai cũng cảm thấy lo lắng như mình. Thật khổ hết biết!
Khi đã nhuần nhuyễn, thành thạo, và thành công, nghĩa là có trường dạy đưa tặng Hành cái "bằng cấp bay bổng" hẳn hoi, thì sinh viên sĩ quan Không-quân chờ đợi... lúc nào có đủ ba người, họ mới tổ chức lễ phát bằng trong buổi tiệc linh đình. Họ tiễn khoá sinh sĩ quan Không-quân trở về bên US Air Force, để... một lần nữa cần phải học bay bổ túc thêm:
- Hệ thống đèn hạ cánh optical landing system (OLS) meatball.
- Học độ chúi (glidepath) của cận tiến vòng chót (final approach) trên Hàng Không Mẫu Hạm.
- Học Landing Signal Officer (LSO).
- Học sử dụng cờ màu (colored flags), ván (cloth pađles) và gậy đèn (lighted wands)
- Học điều khiển phi cơ hạ cánh trên Mẫu Hạm.
- Flight Deck Officer (FDO).
Vì nguyên nhân sau: Chương trình bay với US Navy đã được đặt ra, do từ ông Nguyễn Cao Kỳ đề xướng, khi ông lên làm Phó Tổng Thống, ông nói:
- Nếu Mỹ sợ dư luận trong nước, và quốc tế, về việc các phi công Mỹ đang ở Việt Nam bị bắn rơi, bị bắt làm tù binh ngoài miền Bắc nước Việt Nam. Hãy xin cho phi công Việt Nam đi bay thay thế. Họ sẽ được huấn luyện bởi US Navy. Họ sẽ được cất cánh từ Hàng-không Mẫu-hạm ở ngoài khơi biển Ðông. Họ sẽ tiến vào bờ, (nơi vùng đất liền nào đó), để đánh phá các mục tiêu đã định. Sau đó, họ sẽ tự động bay thoát đi, bằng cách là phi cơ ấy quay trở lại với con tàu Mẹ. Tôi tin chắc họ sẽ thành công.
Hồi đầu Mỹ chịu, nhưng Việt Nam phải tuyển toàn những người có trình độ Anh-văn cao. Có thể hình tốt, nhất là những người hoàn toàn tự nguyện mới được. Vì thế, Hành và một số ít bạn được gởi đi học thêm ở US Navy. (Rồi không hiểu vì sao... một thời gian lâu lắm, lúc về sau nầy, lại có lệnh ?ngưng? chương trình ấy. Kể ra, từ năm 1964 cho đến 1967, có tất cả 74 người đi học ở trường Võ Bị Hải-quân Không-Hành. Thi đậu chỉ có 40 người, trong đó có Lữ Phi Hành).
* Có thể do chi phí "quá tải" nặng kinh khủng khi muốn đào tạo một phi công US Navy, nên họ lo chi "tiền" không xuể, chịu không nỗi chăng? Vì thời gian huấn luyện những phi công US NAVY nầy khá dài, và tốn kém gần gấp rưỡi khi học bên US Air Force. Muốn huấn luyện thành thục một phi công bên Không-quân, kể cả thời gian học Anh-văn ở Lackland AFB, cho đến khi ra trường. Thường thường chỉ cần mười tám tháng.
* Còn muốn đào tạo một phi công US Navy. Phải mất ít nhất hai năm. Ðó là chưa kể phi công ấy còn phải học ?chuyền sâủ, tức là phi công ấy phải đi học bổ túc nầy, huấn luyện nọ..., để anh ta có thể bay loại phi cơ thông dụng tại Việt Nam, (là loại khu trục cơ Ạ1.E Skyraider). Loại Skyraider thì phải học lái 8 giờ bay trên không trung. (Phi cơ nầy mang 8,000lbs, 4 đại bác 20mm; 12 dàn ngoài có thể mang 500lbs. 3 dàn trong mang 3,000lbs).
* Không hiểu tại sao hồi ấy và hiện nay tại Việt Nam không thể có loại phi cơ A-4E của Navy mang bốn dàn bom? (mỗi dàn có 6 quả bom nặng 500lbs). Phi cơ A-4E không cần có dù-đuôi khi đáp trên Hàm Không Mẫu Hạm. Mà bom napalm nếu thả trúng ngay trên súng địch, thì rất hữu hiệu, chính xác, vì sức nóng rợn người của bom sẽ làm ?co dúm? hoặc cong queo nòng súng)!? Thì ta cần gì phải nhọc công mệt nhoài "đánh với đấm"??? Nếu ?phe tả có phi cơ A-4E của Navy mang bốn dàn bom, thì tuyệt vời quá rồi còn gì!
* * *
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
- Trích trong TÌM HIỂU VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG TRONG DÂN GIAN
của Ðặng Xuân Xuyến ; xuất bản năm 2007 -
*
Hiện nay, sách về phong thủy và các bài viết hướng dẫn tìm thế đất tốt để đặt huyệt mộ khá nhiều nhưng các bài viết đó hay dùng các thuật ngữ của phong thủy, viết đã dài, lan man, lại không giải thích cụ thể, thậm chí dùng thuật ngữ còn sai.
Ví dụ: ?Theo sách địa lý kim cổ ngôi huyệt đúng đất gọi là ?huyệt trường?, phải có ?tiền án?, ?hậu trẫm? (thực ra là ?tiền án hậu chẩm? (núi án phía trước, núi gối phía sau), tác giả đã dùng sai thuật ngữ) ?tả long?, ?hữu hổ?, tức là có những mô đất cao thấp tượng trưng cho án huyệt ao nước, tay long, tay hổ. Ngoài ra trước huyệt phải có ?minh đường Thủy tụ? phía sau phải có ?long mạch thu thúc?, phía ngoài phải có ?bàng sa triều củng?, cốt phải có ?tụ khí tàng phong?... Khiến người đọc thấy rối rắm, phức tạp, khó tiếp nhận thông tin cần thiết.
Vì thế, tôi tổng hợp và soạn 10 điểm lưu ý khi chọn đất để đặt huyệt mộ.
Nếu bạn không nhiều ?tham vọng?, chỉ ước muốn ?mồ yên mả đẹp? để con cháu được hưởng bình an, phú túc và phát phúc đều đều thì bài viết này có thể giúp bạn tự tìm thế đất tốt đặt huyệt mộ cho người quá cố, đáp ứng niềm mong mỏi của bạn.
Cụ thể:
1. - Nơi đặt mộ phải cao ráo (vừa phải), cây cỏ tươi tốt, phía trước huyệt mộ cần thoáng đãng, không bị che chắn... Nếu huyệt mộ nằm trên đồi (hoặc khu đất), được các dòng nước chảy dưới chân bao bọc; hoặc được đồi núi (gò đất) hai bên ôm lấy huyệt mộ ở giữa, phía sau có núi (đồi) cao che chắn, phía trước có ao, hồ, sông nước thì đấy là những thế đất rất tốt để đặt huyệt mộ.
2. - Nơi đặt mộ rất cần yên tĩnh, tránh xa nơi ồn ào, náo nhiệt, có đường đi lối lại... Phạm phải, âm trạch sẽ bị nhiễu, tổn hại tới hồng phúc của con cháu. Nếu mộ có đường đi (hoặc dòng nước) đâm thẳng vào giữa, hoặc đâm xuyên sang hai bên, hoặc đường đi sát ngay phía sau là tối kỵ, chủ lụn bại, tổn hại nhân đinh.
3. - Nơi đặt mộ rất cần tránh nơi nhiều gió để tụ khí. Tối kỵ đặt mộ ở địa thế cao, trơ trọi, sẽ phạm vào thế gọi là ?cô phong sát?, đón gió bốn phương, làm cho khí bị tan tác, dẫn đến con cháu bị lụn bại, gặp nhiều xui xẻo, dễ tổn đinh, tuyệt tự.
4. - Nơi đặt huyệt mộ phải tránh chỗ trước đã có người chôn rồi; hoặc có xương thú như voi, trâu, bò, lợn... Phạm phải, con cháu bị bệnh nan y và chết trùng tang liên tục (nhiều người) trong vòng 3 năm.
5. - Nơi đặt mộ long mạch phải chảy, không bị cắt đứt, nếu phạm phải, con cháu sẽ ốm đau bệnh tật, chết bất đắc kỳ tử hay tuyệt tự, không có con trai nối dõi. Cũng không được đặt mộ gần cây lớn, phòng rễ cây đâm vào hài cốt người quá cố sẽ bị động mộ, con cháu sẽ gặp những điều xui xẻo, tổn phúc.
6. - Nơi đặt huyệt mộ phải tránh mặt đất bị lồi lõm, hình dáng kỳ dị, đất đá khô cứng hoặc đặt trên đồi núi đứng đơn độc.
7. - Nơi đặt huyệt mộ tối kỵ đặt trên hoặc cạnh nước ngầm (không phải là mạch nước ngầm); hoặc dưới đáy huyệt mộ có đất đá lổn nhổn sẽ khiến mộ dễ bị sụt, tổn hại đến phúc lộc của con cháu, dòng họ.
8. - Nếu đặt mộ ở nghĩa trang cần tránh bị các mộ xung quanh lấn chiếm, hoặc nằm án ngữ ngay trước, hoặc đâm xuyên vào 2 bên cạnh mộ. Phạm phải thì con cháu lụn bại, tổn hại nhân đinh, nhất là gia đình con trai trưởng của người quá cố.
9. - Khi đào đất (nơi sẽ đặt huyệt mộ) thấy đất phía dưới xốp, nhẹ, đỏ mịn như tròng đỏ hột gà, hoặc có màu ngũ sắc, màu hồng vàng, màu son đậm, màu hồng có vân là đất đẹp, rất tốt cho đặt huyệt mộ.
10 - Khi đào đất lên, đến độ sâu áng chứng sẽ là đáy huyệt phải có mạch nước ngầm (không phải là nước ngầm), nước trong xanh, có mùi thơm. Tối kỵ nước đục, bị ô nhiễm hoặc đáy huyệt không có mạch nước ngầm.
Tôi có ý định viết về biến cố ngày 30 tháng Tư -một ngày quá ư là trọng đại đối với riêng cá nhân tôi và toàn dân Việt Nam năm 1975- tự lâu rồi. Nghĩ đến sẽ viết? Chỉ nghĩ thôi à các bạn ơi, vì tôi rất lươi huyền, hì hì?, đối với tôi, làm thơ đỡ mất thì giờ hơn nhiều, còn ngồi gỏ lóc cóc kể chuyện, mấy ngón tay tôi rất mỏi, viết lại không được haỷ chả ai thèm đọc thì viết để làm gì cơ chứ? Cứ nghĩ như thế nên tôi lại thôi.
Nhưng hôm nay cơn? ghiền nổi lên, làm cho tôi chăm chỉ ngồi xuống, nhớ lại ngày hôm đó...
*****
Hôm đó là ngày 29 tháng Tư, năm 1975. Tôi đang nằm chán chường đọc truyện thì nghe tiếng thằng nhóc ở nhà bên cạnh la to thật là to, to đến độ ở bên nhà tôi còn nghe được:
..Sắp đi Myyyyyỹ....! Sắp đi Mỹ rồiiiiiiị.
Tôi nghe thế bèn chạy xuống nhà nói với mẹ tôi:
-Mẹ ơi, con thấy thằng Hòa con chú thím Bẩy vừa la lên là sắp đi Mỹ đó. Cả nhà bên ấy đang xôn xao. Mẹ qua nhà chú Bẩy hỏi thăm thử đi mẹ?. Mẹ tôi vội vàng chạy qua bên nhà hàng xóm. Chỉ khoảng vài phút sau, mẹ tôi hối hả về nhà, bảo cả nhà phải sửa soạn để lên đường ngay lập tức!
Biến cố tháng Tư xẩy ra quá nhanh. Trước đó hơn cả tháng, mẹ tôi đã tìm đủ mọi cách, dò hỏi tìm đường đi. Nhà tôi là dân Bắc kỳ mà, đã phải chạy trốn Cộng Sản từ năm 1954, bố mẹ tôi đã từng nhìn thấy tận mắt cảnh đấu tố ghê rợn như thế nào rồi nên rất hiểu, rất sợ ở lại Việt Nam nếu Việt Nam mình không còn tự do dân chủ. Ông bà nhất định phải ra đi bằng mọi giá, quyết chí sẽ đi thêm một lần nữa, tị nạn Cộng Sản thêm một lần nữa, cho dù kỳ này, chuyến đi này có nghĩa là phải rời bỏ, bỏ lại tất cả nhà cửa, tài sản, phải lìa xa quê hương, không biết đến chừng nào mới có dịp trở về? Thời điểm đó, may mắn có bà chị thứ Năm của tôi đang học ở bên Úc nên bố mẹ tôi yên trí lắm! Cùng lắm thì xin tị nạn ở Úc, nước Úc cũng là một đất nước tự do mà, ở bất cứ nơi nào cũng vẫn hơn là ở với tụi Việt Cộng gian manh.
Mẹ lo cho bố tôi và tôi đi trước. Có bà bạn của mẹ sẽ đi Mỹ, mẹ hỏi tôi có chịu làm con nuôi của bạn mẹ, để qua Mỹ trước một mình không? Mặc dù sợ lắm, không biết tương lai sẽ ra sao nhưng tôi cũng chịu (đúng là điếc không sợ súng) vì tôi không muốn bị ở lại với tụi VC! Có nhiều tin đồn khủng khiếp là tụi VC sẽ bắt nhốt mấy cô nữ sinh lại, cô nào để móng tay dài, chúng sẽ rút móng tay! Rồi người ta còn đồn đãi là học trò, nữ sinh viên sẽ bị ép lấy mấy anh cán ngố... vân vân và vân vân? Tôi nghe mọi người xầm xì, mặc dù bán tín bán nghi, nghĩ rằng hầu hết những tin đó chỉ là tin đồn, tin vịt; nhưng nếu nhỡ đó là sự thật? Tụi Việt Cộng mà, ác độc lắm mà, chuyện gì mà chúng chả dám làm? Nên có nhiều người rất hoang mang! Lý do tôi chịu đi trước một mình vì tôi nghĩ đằng nào tôi cũng sẽ học đại học ở nước ngoài. Mẹ tôi đã dự định nếu tôi không xin được học bổng, cho dù bất cứ giá nào; mẹ cũng sẽ lo cho tôi đi du học? khi tôi học xong lớp 12 trong vài năm nữa. Tôi vốn được cưng chìu, chả phải làm việc nhà gì cả, nên tôi biết, cho dù mơ hồ, rằng nếu bị đẩy vào một đời sống hoàn toàn mới lạ, xa nhà, xa quê hương, xa bạn bè, thân quyến? không có sự bảo bọc, thương yêu của bố mẹ thì tôi không biết mình phải xoay sở ra sao? Cuộc sống mới của tôi nơi xứ người chắc chắn sẽ rất khó khăn và cực khổ!..... May quá! Chuyện đã không thành. Và mẹ tôi lại tiếp tục tháo vát, đảm đang; bà nhanh nhẹn đi tìm manh mối, tìm đủ mọi phương cách khác. Tôi thấy những người làm sở Mỹ trong xóm tôi, từ từ ra đi bằng máy bay, ngày nào cũng có người đi. Tôi nghe thấy tiếng đạn pháo kích ầm ỉ mỗi ngày!
Lúc đó, hai ông anh tôi từ chiến trường xa đã may mắn chạy được về nhà. Lúc đó, bạn trai của bà chị kế tôi, anh S. đang học năm chót Y khoa, gia đình anh ở Châu Ðốc, cũng đến tạm trú ở nhà tôi. Mọi người chả biết làm gì khác hơn là chờ đợi. Trước đó khoảng vài ngày, cả nhà tôi đã dắt díu nhau đến chỗ hẹn, nhà của một người bạn mẹ, để cùng nhau ra phi trường đi bằng lối máy bay, nhưng lúc đó phi trường Tân Sơn Nhất đã bị pháo kích nặng nề, tòa Ðại sứ Mỹ cũng chả hơn gì, chẳng có một chút xíu an ninh gì cả. Mọi sự, tất cả đều đã hổn loạn, chao đảo, dân Sài Gòn hoảng hốt! Ngồi chờ ở nhà bạn mẹ tôi lâu thật lâu! Rốt cuộc mọi người phải quay về.
Cho nên ngay buổi trưa hôm đó, ngày 29 tháng Tư năm 1975, nghe mẹ tôi nói như thế, mọi người đều mừng quá là mừng, vội vàng thay quần áo, vì đã có sẵn túi sách, vali từ mấy ngày hôm trước, nên chỉ trong vòng tích tắc là tất cả đã sẵn sàng để đi ngay. Khi tôi đi ngang qua nhà PK, bạn học Trưng Vương, nó thấy tôi và gia đình, người nào cũng tay xách nách mang, vội hỏi:
?Mày đi đâu, cả nhà mày đi đâu vậỷ?
Tôi bảo nó:
?Nghe nói có tầu ở bến tầu, nhà mày cũng đi luôn đi, đi mau, đi liền ngay đi ? nếu không tầu sẽ rời bến đó?.
Ðến bến tầu, có hàng rào kẽm gai ngăn chận lại; họ không cho vô. Ông anh cả tôi bèn lấy vòng vàng nhét vào tay mấy người lính để họ mở rào, nữ trang thì họ lấy nhưng rồi họ cũng nhất định không cho phép đi qua. May quá bố tôi làm quan thuế, công chức ở kho 11; có người nhận ra bố tôi nên họ mới nói với nhau để cho bố tôi và cả nhà đi qua khỏi cổng rào. Chị dâu tôi, vợ của người anh thứ ba, bế theo đứa con gái 1 tuổi, con bé cháu đầu tiên của gia đình, ra tận bến tầu để tiễn cả nhà. Chị đứng đó đến giờ phút cuối cùng nhưng không đi vì chị đã quyết định ở lại. Chị nói với mẹ tôi:
?Nếu anh Tiến còn sống, con chắn chắn sẽ đi theo bố mẹ, theo gia đình chồng nhưng anh Tiến đã mất rồi, mẹ cho con xin phép được ở lại với ba má, gia đình con?.
Chị dâu tôi đẹp lắm! Chị hát hay nên rất... hay hát, hihi... Tết đầu tiên sau khi lấy anh tôi, chị đã hát cho tôi và cô em út nghe nhiều bản nhạc Xuân, trong đó có bài Câu Chuyện Ðầu Năm: ?Trên đường đi lễ Xuân đầu năm, qua một năm ruột rối tơ tằm...?
Câu chuyện đầu năm
https://www.youtube.com/watch?v=utz8UC2_ygU
Lần đầu tiên có người hát riêng cho hai đứa tôi nghe, tụi tôi rất thích. Tôi thích và thương chị vì chị hay ăn hàng, ăn quà vặt, rất vui vẻ, hòa đồng với chúng tôi. Tên chị là Kim Thạnh, nhưng ở nhà gọi chị là chị Bé. Chị Bé chỉ tôi nấu chè, làm bánh, may quần áo. Chị là người Nam, tính tình thật thà, dễ chịu, dễ thương! Chị hay cười, nụ cười thật tươi có 1 cái răng khểnh rất xinh. Ðàn bà mà đẹp phần đông bị lận đận, long đong, khổ về đường tình ái. Chị dâu tôi trái lại, được chồng cưng yêu, mối tình của chị với anh tôi đẹp như mơ. Anh Tiến tôi và chị đang sống với nhau quá chừng hạnh phúc nhưng? cái số của chị đúng là số hồng nhan bạc phận mà! Khi chị đang mang thai khoảng 6,7 tháng thì anh tôi bị tử trận. Thấy chị vác cái bụng bầu thật lớn, lết về nhà báo tin chồng chết, thấy chị khóc sưng vù cả mắt, xỉu lên xỉu xuống, gào khóc khi đi theo sau quan tài, ai mà không xót xa, mũi lòng thương chị và rơi lệ chứ?!
Tội nghiệp chị, lúc đó chị mới có hai chục tuổi đầu. Chị ở lại Việt Nam là một quyết định quá sai lầm vì chị là người Nam nên ngây thơ chưa biết, không hiểu rõ bọn Việt Cộng ác độc như thế nào; mẹ của chị lại là dân nằm vùng nữả nên chả trách được. Hơn một năm sau đó, chị giẫm mìn chết thảm khi đang đi lao động ở vùng kinh tế mới. Cháu gái của tôi thế là mồ côi cả cha lẫn mẹ, nó phải ở với ông bà ngoại nó. Bà ngoại cháu chắc về sau này ân hận ghê lắm! Ân hận vì đã từng là VC nằm vùng, ân hận vì đã không bỏ chạy, chạy khỏi, chạy trốn cái chính thể độc tài, tàn ác, tham lam, chỉ biết vơ vét của công làm của riêng. Bọn Cộng Sản Việt Nam đúng là một lũ cầm quyền ngu dốt, láo khoét, không hề biết thương dân, yêu nước. Sau khi lấy miền Nam, chúng đã đưa đất nước tôi trở lùi... đi ngược lại với thế giới văn minh, trở thành một quốc gia thấp kém, nghèo nàn, đói khổ. Các quân nhân, công chức bị bắt giết, tù đầy. Biết bao nhiêu người đã liều chết ra đi, vùi thây nơi biển cả...
Mẹ tôi thương đứa cháu nội của bà, cứ tiếc nuối mãi. Mẹ nói hoài:
?Biết thế cứ dằn lấy nó, bế nó theo nhỉ.... chắc mẹ nó cũng cho nó đi mà!?
Cho dù chính bà và chị em chúng tôi có gửi tiền về khá nhiều, rất đều cho cháu nhưng mẹ tôi vẫn khắc khoải hoài, chẳng thể nào yên tâm, cứ thương nhớ đứa cháu nội còn kẹt lại.
Cả nhà tôi may mắn, đúng là trời thương, đi được hết: bố mẹ tôi, vợ chồng ông anh cả, hai ông anh độc thân, chị kế tôi và bạn trai, tôi và nhỏ út. Tất cả mười người. Chúng tôi đi bằng một chiếc tầu lớn của tư nhân có tên là tầu Anh Tuấn. Trước đó vài ngày, chú của mẹ tôi (ông làm việc về hàng hải) có đến nhà trả lời cho mẹ tôi biết là họ không nhận thêm người nữa, cho dù mẹ tôi đã chịu trả 15 lạng vàng cho mỗi đầu người -theo ý họ- để được đi. Thất vọng quá nhưng mẹ tôi cũng cứ sang tên nhà lại cho ông. Không ngờ ngày 29 tây, ngày cuối cùng của cuộc nội chiến thảm khốc tương tàn; chiếc tầu mà gia đình chúng tôi cùng leo lên lại là tầu Anh Tuấn!
Người ta leo lên tầu nhiều chật nứt, đâu cũng thấy người, người nằm ngồi la liệt. Gia đình chúng tôi ngồi gần ngay bếp, chỗ có cầu thang đi xuống hầm tầu, tương đối rộng rãi, đêm nằm ngủ thoải mái, có thể dạng chân dạng tay chứ không phải nằm chật chội sát cạnh bên nhau như xếp cá hộp. Trên đường đi có tiếng súng bắn nổ đì đùng, nghe rất gần, veo véo bên tay, chát chúa làm cho mọi người khiếp đảm. Mọi người đều nghĩ họ bắn theo tầu của mình nên lo sợ lắm! Khi đi ngang qua Vũng Tầu, tôi thấy lòng mình bâng khuâng, nơi tôi sinh ra đây mà... (khi tôi gần 2 tuổi thì gia đình tôi dọn vào SàiGòn) ấy thế mà tôi chưa hề được trở về thăm, dù chỉ một lần (thỉnh thoảng mẹ tôi có đi VT, sao tôi không đòi mẹ cho tôi đi theo nhỉ?) Tôi chẳng thể nào hình dung nổi Vũng Tầu nhìn ra làm sao, bãi biển có đẹp không, tôi sinh ra ở bãi trước hay bãi sau (tôi không hỏi mẹ tôi) và đã thầm nghĩ trong đầu: ?Vĩnh biệt Vũng Tầu, vĩnh biệt Việt Nam, không biết bao giờ mới có dịp trở về? Không biết trong cuộc đời còn lại của mình, mình có sẽ được thấy, được về thăm nơi chôn nhau cắt rốn của mình không? Chào quê hương yêu dấu!?
Chỉ sau vài tiếng lên tầu thôi, thì tôi bị có tháng. Rầu ơi là rầu! Tôi chẳng phòng hờ, chả mang theo gì cả, thấy xấu hổ quá, sợ mọi người nhìn thấy nên tôi cứ ngồi lì, ngồi yên tại chỗ, chả dám đứng dậy, chả dám đi đâu. Thời gian trôi qua thật não nề, chậm chạp. Cũng may tôi không bị ra nhiều, sau đó còn xin xuống được dưới hầm tầu để tắm rửa và thay quần áo. Lúc đó nước ngọt rất quí nên tôi chỉ được tắm bằng nước biển, tắm xong, cả người tôi cứ dính dáp, rin rít thế nào ấy, rất là khó chịu. Làm đàn bà, con gái rất là khổ quí vị ơi, tôi ?công nương? quen rồi nên với tôi, ngay ngày đầu tiên rời khỏi quê hương, tôi đã thấy khổ, khổ quá rồi!
Các bạn biết sao không? Cho dù lương thực, nước uống họ dự trữ rất nhiều nhưng vì có nhiều người leo lên tầu quá nên chủ tầu và ban quản lý rất dè xẻn khi phát nước, phát cơm. Gia đình tôi may mắn lắm, vì ngồi ngay bếp nên khi được chia phần ăn, nhà tôi được chia trước hết, anh đầu bếp lại có cảm tình với gia đình tôi; anh luôn luôn đưa phần ăn nhiều nhất cho chúng tôi. Chưa bao giờ tôi thấy được ăn ngon như thế, cơm trắng và cá khô thôi nhưng sao mà thơm ngon đến thế. Tôi còn đòi anh cho ăn cơm cháy nữa, cơm cháy giòn rụm, thơm phức ăn với cá khô chiên mằn mặn giòn tan, ngon thì thôi! Còn có lạp xưởng và ruốc thay đổi cho mỗi buổi nữả Ðang đói bụng, nên cho dù ăn cơm khô khan, tôi vẫn thấy quá ngon!
Ðêm hôm đó, mọi người nghe radio thấy Trịnh Công Sơn hát bài ?Nối vòng tay lớn?. Mất! Mất rồi! Mất nước thật rồi! Hỡi ơỉ Tôi thấy buồn ơi là buồn! Buồn quá đỗi!
Mặc dù nhớ trường, nhớ bạn; mặc dù là thân phận người tị nạn long đong... đêm thứ hai trên tầu; tôi cũng vẫn... mơ mộng như thường. Ðêm tối mịt mùng nên trăng sao sáng tỏ, lung linh và lung linh! Nước biển nhấp nhô, lấp lánh ánh trăng vàng. Tôi ngồi ngắm trăng ngây ngất! Ngồi yên lặng một mình, tôi nghĩ đến quê hương, nghĩ đến bạn bè, nghĩ đến họ hàng thân thuộc còn kẹt lại và tôi rơi nước mắt. Nước mắt chẩy ra ràn rụa. Ôi, quê hương ơi, quê hương tôi sao quá lầm than! Những người còn ở lại rồi sẽ ra sao? Tôi cảm thấy thương tâm quá!
Trưa hôm sau, ngày thứ ba lênh đênh trên biển, tầu đang đi êm ru thì bỗng dưng có bão. Ðúng là giông tố bão bùng! Mưa ầm ầm, mưa to gió lớn; gió rú, rít lên bay phần phật mấy tấm phông che. Mấy người đàn ông phải hùa lại ôm, phải giữ lại phông che vì gió đã bật, tróc lên, làm bay mất đi một số. Tầu Anh Tuấn là một chiếc tầu khá lớn, thế mà nó như một chiếc lá bé nhó, bồng bềnh, chông chênh trên mặt biển. Ðại dương mênh mông, bao la quá! Trời bỗng tối xầm, đen kịt lại, âm u. Chiếc tầu bị nhào lên nhào xuống, lắc lư thật mạnh như sắp bị úp ngược lại. Thật hãi hùng! Mưa gió lạnh lùng, lạnh đến buốt xương! Lần đầu tiên tôi mới biết run lập cập là run như thế nào? Hai hàm răng đánh vào nhau nghe lập cà lập cập đó mà! Tất cả mọi người đều muốn chạy xuống hầm tầu cho đỡ ướt.
Tôi ngồi co ro, nhắm nghiền mắt lại vì sợ hãi; nhiều tiếng la hét hốt hoảng ở chung quanh, có nhiều người dẫm lên người tôi mà đi, họ dành nhau chạy xuống hầm tầu. Tôi nghe tiếng năn nỉ, tiếng khẩn khoản cầu Trời, khấn Phật, van xin Chúa... Tôi cũng nghe thấy mình nói thầm, tụng kinh cầu xin đức Phật cứu vớt chúng tôi, xin Phật Bà QuanThế Âm cứu khổ cứu nạn... giúp chúng tôi vượt qua khỏi cơn khổ nạn nầy. Con tầu quá bé nhỏ trong gió bão, sóng gầm lên, sóng nổi trận lôi đình, giận dữ, nhồi thật mạnh như muốn hất tất cả mọi người xuống lòng đại dương! Tiếng gào khóc chung quanh làm cho thần kinh tôi căng thẳng, nhức óc, mệt lã cả người....
Bây giờ nhớ đến cái cảnh tượng ngày hôm đó, tôi lại thấy buồn cười, bình thường thì không thấy ai nhớ đến Phật, đến Chúa cả, đến khi xẩy ra chuyện thì mọi người mới kêu xin, mới nhớ đến, mới van nài... có quá trễ lắm không?!
Rồi thì cũng có người đỡ tôi xuống dưới, không còn bị mưa ướt và gió lạnh nữa; nhưng khi ở hầm tầu, không khí không thoáng như ở phía trên, tầu lại lắc lư, nhồi rất mạnh, trồi lên rớt xuống kinh khiếp quá! Trong suốt cuộc đời tôi, chưa bao giờ tôi bị nôn mữa một cách dễ sợ, kinh hoàng như thế, đó là lần đầu tiên và mong rằng cũng là lần cuối cùng? vì cái cảm giác đó ghê rợn lắm các bạn ơi! Khi đó tôi mới hiểu ra khi người ta nói ói đến mật xanh, mật vàng là như thế nào!!! Có nghĩa là bao tử mình đã không còn gì để ói, đắng nghét những chất nước mầu vàng vàng, xanh xanh vẫn cứ ọe ra (xin lỗi đã tả chân, hổng được thanh tao cho lắm nhé, hichic..). Tôi thấy đau quặn bụng! Nước mắt nước mũi tràn ra, nhức đầu, chóng mặt quay cuồng đến độ gần ngất xỉu!
Cơn bão, dù có lớn cách mấy, rồi cũng qua đi. Người nào người nấy đều như cái mền rách, mặt trắng bệt, xanh xao... ngoại trừ một số rất ít người không bị say sóng và thật là khỏe mạnh, còn lại thì ngất ngư, mệt đờ người, nhừ tử! Cả người tôi ướt sũng, tôi phải lò dò lấy bộ quần áo khác để thay. Ngày hôm sau, tôi thấy người ta cột quần hoặc áo của họ vào 1 dây thừng bằng ny lông, xong thả xuống biển để...giặt. Tôi cũng bắt chước làm theo. Lúc đó tôi đã khá hơn, chai lì hơn nên không còn biết mắc cỡ là gì cả (nói vậy chứ cũng còn chút chút, hihị...). Tôi đã ráng làm mặt tỉnh, cột cái quần lót dính đầy vết dơ thả xuống dưới biển, may quá cũng chẳng có ai thèm để ý. Tầu chạy bong bong kéo theo sợi dây thừng, lần đầu tiên tôi cột không chặt nên bị mất toi cái quần xì líp! Sau đó, có kinh nghiệm hơn, tôi cột thật chặt! Nước biển quả thật là mầu nhiệm, giúp khử trùng và làm sạch sẽ một số quần áo của tôi.
Tôi gặp PK -nhỏ bạn Trưng Vương- trên tầu, thì ra là nhờ tôi mà gia đình nó cũng đi được. Gia đình của nó mang theo rất nhiều thức ăn. Lúc đi, mẹ tôi cũng quơ theo vài ổ bánh mì, giò chả... mang theo được cả cái nón lá nữa cơ đấy... nhưng thức ăn đã hết ngay trong ngày thứ hai; vả lại nếu còn, bão tố cũng làm bánh mì ướt nhẹp hết, không ăn được. Mẹ tôi muốn mua sữa cho bố tôi uống, mua mì gói cho mấy đứa con nên tôi nói lại với PK. Các bạn biết sao không? Mẹ của PK đòi bán $10, $15 đô cho mỗi thứ (đúng là cắt cổ!). Biết là đắt, nhưng vì cần thiết nên mẹ tôi cũng phải mua.
Hảo, em gái tôi, tình nguyện làm người đi phát nước. Nó và một anh nữa, người cầm thùng nước, người mang theo một cái ấm to và một cái ly nhỏ. Những người tị nạn có đồ chứa nước, Hảo đổ nước từ ấm to vào trong đó; người nào không có, Hảo rót nước vào cái ly nhỏ cho uống tạm. Nghe Hảo kể có một số người vì khát nước quá, đã phải uống cả nước tiểu của mình. Tầu Anh Tuấn lớn lắm quí vị à, Hảo nó đi phát nước hết một vòng cũng mất hơn cả tiếng rưởi đồng hồ. Lúc đó, khát nước, nắng lại chói chan đến hoa cả mắt, người đi phát nước chắc nhìn giống như một... nàng tiên tuyệt diệu, từ trên trời rơi xuống, ha các bạn? Bởi thế có nhiều người biết và nhớ mặt em tôi lắm. Khi ra đến trại tị nạn, có nhiều người đã nhận ra nó, tay bắt mặt mừng với nó.
Tầu đi lang thang trên biển khoảng 5 ngày thì gặp tầu hải quân của Mỹ. Mọi người từ từ leo thang lên tầu lớn. Lúc đó, vì họ không cần dùng đến nước nữa nên tôi được cho xuống tắm ở tầng dưới, được tắm hoàn toàn bằng nước ngọt, chứ không là nước biển như vài lần trước đó. Chưa bao giờ tôi thấy sung sướng như thế; thoải mái, dễ chịu, quá ư là dễ chịu, thoáng mát, sảng khoái quá chừng đi.
Khi qua bên tầu Mỹ, có một người đàn ông duy nhất trên tầu Anh Tuấn (thì ra ông lại là bố của một người bạn tôi, bạn học trên đại học sau này) đã từ trần và họ phải thủy táng ông.
Buổi tối đầu tiên ở trên tầu Mỹ, tôi ngồi nghe ông anh trai và ông anh rể tương lai nói chuyện với mấy người lính Mỹ, thấy thích lắm! Tuy hiểu hết nhưng tôi rất nhát, chỉ cười cười ngồi nghe ké chứ chả dám nói năng chi. Tối hôm đó, tôi nghe từ radio của một người lính Mỹ bản nhạc ?You are everything?. Tuy mới nghe lần đầu, tôi đã thấy thích ngay.
You are everything
https://www.youtube.com/watch?v=ZR4Gg4Gf_3A
Nẩy giờ N ngồi gỏ keyboard lóc cóc mà cũng đã hơn hai tiếng đồng hồ rồi đó. Ðói bụng rồi, N đi kiếm cái gì ăn nha... Chuyện đời tị nạn của N còn dài lắm nhưng tạm thời N chỉ kể đến đây thôi... từ từ, nếu chăm và có hứng, N sẽ kể tiếp nhả
Mỗi lần tháng Tư về, nhất là gần cuối tháng Tư; chúng ta đều cảm thấy buồn, thấy nhớ quê hương, thấy bâng khuâng, phải không các bạn? Những người Việt tị nạn Cộng Sản không bao giờ quên một cuộc đổi đời to lớn của dân Việt Nam mình, ảnh hưởng đến biết bao nhiêu là thế hệ.
BẠN QUAN
Bạn cũ lâu ngày gặp lại
Chén rượu quê đưa đẩy tẩy trần
Tao ruột ngựa hỏi câu ngớ ngẩn
Mày làm quan chắc kiếm bộn tiền
Chức ấy rẻ mà sinh lắm lãi
Mày học ngu nhưng thủ đoạn tài
Tao học giỏi nhưng mù thủ đoạn
Mãi long đong chức phó dân quèn
Mày nhăn mặt chửi tao thằng đểu
Quá nửa đời mãi chửa hết ngu...
.
Rượu tới tầm
Mày ghé tai tao
Nói thật nhỏ
Căng tai mới rõ
Làm người khó
Làm quan càng khó
Chốn quan trường chó vịt giống nhau
Mày than đời chỉ rặt những thau
Quan càng lớn chữ nhân càng nhỏ
Ví miệng quan giống trôn trẻ nhỏ
La liếm quen rồi nào biết bẩn nhơ.
.
Tao gật gù giả bộ ngớ ngơ
Khen các quan vì dân vì nước
Nghe nửa câu mắt mày trợn ngược
Chửi tao khùng hệt ?lũ dân ngủ
Mày chửi thề đặc giọng quân khu
Ðời đã chó
Quan trường càng chó
Rồi nhăn nhó
Than đời mày nhọ
Mấy tháng trời bổng lộc hụt xơi...
.
Rượu mày mời
Tao uống khó trôi
Thịt mày gắp
Tao nhai khó nuốt
Trời nhiều gió
Hay lòng tao nổi gió
Rượu đầy vò
Tao ngất ngưởng vờ say.
*.
Hà Nội, trưa 18 tháng 03.2016
ÐẶNG XUÂN XUYẾN
LỜI BÌNH:
Tôi quen Ðặng Xuân Xuyến đã lâu, từ thuở anh mới dựng nghiệp, mở cửa hàng ?phát hành sách?. Là một nhà thơ, làm bạn hàng gửi sách nhờ anh bán hộ thường xuyên. So với những nơi khác bao giờ cửa hàng của Xuyến cũng giúp tôi bán được số bản cao gấp bội. Nhìn dáng vẻ bên ngoài tươi tắn, đẹp trai, hoạt bát và cái phong thái ?dứt khoát? mỗi khi bàn việc?, ở Xuyến tôi thầm nghĩ con đường lập nghiệp gắn với sách vở văn chương sẽ tiến xa hơn! Bẵng đi một thời gian nền văn chương với những ước vọng thanh cao bị cuốn vào vòng xoáy kinh tế thị trường không còn phân biệt được đục trong lẫn lộn. Thơ thành sản phẩm của xã hội hóa cấp thấp, không còn biết viết để làm gì, viết để vì ai. Tôi cũng nản, ngồi nhìn bút giấy và cũng đã lâu không gặp Xuyến. Một hôm, bất ngờ tôi nhận được tin nhắn của Ðặng Xuân Xuyến mời cộng tác với trang mạng của anh? và tôi được đọc bài thơ rất tâm sự ?Bạn quan? (xem: Bạn Quan.l) anh in trên trang mạng. Tôi thật ngưỡng mộ vì nội dung, giọng điệu, câu chữ già dặn, từng trải, vừa tiếp thu cách nhìn đời, nhìn người của các lớp nhà thơ cha anh mỗi khi bĩ cực, nhưng hơn hẳn lớp nhà thơ ăn theo xã hội bây giờ, khi vui thì vỗ tay vào, hết lộc thì thở ra những lời ai oán vụn vặt làm người đời chán đọc thơ vì vậy. Thơ Xuyến cũng mượn hơi men ?giả tỉnh giả saỷ như để có cớ lôi tuột những mưu mô giả trá của một xã hội đang thịnh hành, đang phân hóa, làm đảo lộn hết đạo đức, nhân cách, làm người dù chỉ giới hạn bằng những lời bộc bạch, tâm sự của hai người bạn lâu ngày gặp lại, có nhu cầu phơi trải lòng mình thật đến nỗi chỉ thiếu cái tát bằng những ngón tay in lên mặt nhau, dù làm quan có chức tước giàu sang hay là dân ngu ngơ, nghèo túng, khi nhìn lại đời mình đều nhục, chưa thấy xứng kiếp người, tự mình thấy mình như súc vật, kiếp ngan, kiếp chó....
Bài thơ như một bầu tâm sự dốc thẳng sang nhau không cần niêm luật, kỹ thuật câu chữ. Ðoạn đầu còn tỉnh, lời lẽ thăm dò giao đãi:
Bạn cũ lâu ngày gặp lại
Chén rượu quê đưa đẩy tẩy trần
Tao ruột ngựa hỏi câu ngớ ngẩn
Mày làm quan chắc kiếm bộn tiền?
Tình bạn xa lâu gặp lại nhau, người ta thường ôn lại kỷ niệm trong lành một thuở, rồi mới có nhu cầu hỏi han công việc hiện tại gia cảnh của nhau. Ðằng này có tình bạn ngày xưa của họ chỉ phụ họa thêm cho nỗi ấm ức về những rối ren, bất công xã hội. Thằng học giỏi không sống thủ đoạn thì làm dân quèn, thiếu cơm rách áo. Thằng học ngu, biết nịnh nọt cúi luồn vẫn có thể mua được chức tước lên quan để kiếm bổng lộc bạc vàng, thành ra cuộc gặp gỡ nơi chôn nhau cắt rốn lại là cái cớ để nổ ra cuộc vạch mặt chỉ tên những bất công xã hội đang ấm ức nơi lòng mỗi kẻ. Những tưởng chỉ kẻ thua thiệt mới buồn, mới đau, mượn rượu để nói ra lòng mình cho thỏa:
Tao học giỏi nhưng mù thủ đoạn
Mãi long đong chức phó dân quèn!
Nào ngờ kẻ được mũ cao áo dài cũng thở than phận kiếp:
?Làm người khó
Làm quan càng khó
Chỗ quan trường chó, vịt giống nhaủ?
?Quan càng lớn, chữ nhân càng nhỏ??
?La liếm quen rồi nào biết bẩn nhơ!?
Những lời bộc trực, thật lòng này nghe thật tội, thì ra kẻ làm quan đứng trước bàn dân thiên hạ, qua những cầu truyền hình đi khắp thế gian, nhìn oai phong lẫm liệt, có ai ngờ nơi tận sâu con tim, khối óc họ cũng bị dày vò, có khi lại gấp bội những buồn đau túng nghèo cơm áo, cũng thấy được nhục vinh cuộc thế:
Ðời đã chó
Quan trường càng chó
Thì ra đã là con người dù giả trá gian manh đến đâu, dù có ngập sâu vào đống bùn nhơ tội lỗi thì thẳm sâu nơi nào đấy trong linh hồn của họ vẫn nhận ra vị bùn nhơ nơi đầu lưỡi họ đã ngậm phải. Khác nhau chăng kẻ ngày tháng quen dần với những gì nhơ bẩn, còn có kẻ còn biết cố trườn ra khỏi những đám bùn nhơ để thở chút khí trời trong lành trước khi xuôi tay, nhắm mắt. Bởi quyền tước bạc vàng có thể xây được nấm mộ cao chứ không để lại trong không gian, thời gian được chút tiếng thơm. Huống chi lúc sống đã bị người đời nguyền rủa.
Cái đau của thân phận dân đen cũng là đau nhưng có thể mượn phút giây gặp gỡ, nói vung mạng, tung tán tàn cho hả. Còn kẻ chức tước, giàu có gian manh phải đợi lúc:
Rượu tới tầm
Mày ghé tai tao
Nói thật nhỏ
Căng tai mới rõ
Bởi đã khoác vào tấm áo quan trường phải biết học phép mưu ma chước quỷ. Nhiều việc giả danh gian trá phải giấu kín cả cha mẹ vợ con, đem xuống dưới mồ mới mong hoạn lộ, an toàn? chỉ giây phút ngồi trước người bạn thuở trong sáng ngây thơ, sau biền biệt mỗi đứa một phương, thắng thua nếm đủ quay về, men rượu ngấm vào ấm ức, nói ra cùng nhau cũng chẳng phương hại nữa rồi mới dám ?ghé taỉ, ?nói nhỏ??
Bài thơ thành bữa tiệc giữa hai người bạn thết nhau vị ngọt bùi, cay đắng tình thân, vừa là của riêng, lại vừa dọn mời người đọc nhâm nhi, cụng chén ở những năm tháng đời người thật ít điều vui, ít tình thân thiện và gần như không còn thứ tình cảm tri kỉ mà ông cha ta đã ngìn năm trồng cây cho gỗ nên trầm. Giờ rừng bỗng dưng bị đốn trụi. Tình người rồi sẽ sao đây! Ðặng Xuân Xuyến đã gửi tâm sự lòng mình vào thơ cho vơi ấm ức! Có lẽ chỉ còn thơ có thể an ủi anh chăng!
Bài thơ ?BẠN QUAN? đã ghi lại sống động cuộc sống hôm nay, của người Việt Nam mình./.
*.
Hà Nội, ngày 22 tháng 05.2016
Nhà thơ CHỬ VĂN LONG
Ðịa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Ðọc Bài Thơ Tôn Vinh Hai Bà của cụ Hoàng Thúc Hội
Ðề Vịnh Hai Bà Trưng
Ngựa Gióng đã lên không,
Rừng Thanh voi chửa lồng .
Một chồi hai nhụy Lạc,
Muôn dặm nước non Hồng .
Trăng soi gương hồ Bạc,
Mây tan dấu cột đồng .
Nén hương lòng cố quốc,
Xin khấn một lời chung .
Hoàng thúc Hội
Thơ văn tôn vinh công đức của Hai Bà được các thi, văn sĩ viết rất nhiều .
Về thơ có cuốn Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca (Lịch sử nước Ðại Nam bằng thơ) do hai cụ Lê ngô Cát và Phạm đình Toái tu sửa vào thời nhà Nguyễn kể rõ thân thế của Hai Bà và chiến công đánh đuổi thái thú Tô Ðịnh, thu hồi độc lập cho đất nước, dựng nên triều đại nhà Trưng năm 40 - 43 sau Tây Lịch .
Các thi, văn sĩ khi đề cao công đức của hai vị nữ anh hùng dân tộc phần lớn cũng viết theo lối viết sử của Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca :
Bà Trưng quê ở Châu Phong,
Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên .
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân .
Trước đó mấy trăm năm, tập thơ Hồng Ðức Quốc Âm đời vua Lê thánh Tông có hai câu kể chiến công của Nữ Trưng Vương :
Tô Ðịnh bay hồn vang một trận,
Lĩnh Nam mở cõi vững trăm thành .
Những bài thơ kể trên giới hạn sự kiện lịch sử của Hai Bà trong 4 năm- từ năm 40 đến năm 43, không nhắc đến công ơn to lớn của hai vị trong suốt dòng lịch sử của dân tộc cho đến ngày nay và mãi mãi .
Cuộc khởi nghĩa lấy lại độc lập của Hai Bà là ngọn lửa, là tấm gương sáng chói hun đúc ý chí quật cường, tinh thần độc lập của dòng giống Việt nên mới có các cuộc khởi nghĩa của bà Triệu chống quân Ngô năm 248, Lý Nam Ðề đánh đuổi Lương năm 541 lên làm vua . . . cho đến vua Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Ðằng năm 939 - Ðằng giang tự cổ huyết do hồng (*) - đặt nền móng độc lập vững vàng cho muôn đời về sau :
Voi Triệu đem đường tiến,
Cờ Ðinh mở lối ra,
Cõi Nam nền độc lập,
Muôn thuở tiếng Hai Bà .
(Dương bá Trạc ? Vịnh Hai Bà Trưng)
Bài thơ ca tụng công đức Hai Bà của cụ Hoàng thúc Hội cho người ta nhớ về toàn bộ lịch sử dân tộc . Khi đọc sáu câu thơ đầu, chúng ta có ngay cảm nhận lịch sử của dân tộc là một dòng lịch sử trải dài và liên tục từ thời vua Hùng với thánh Gióng đuổi giặc Ân, Bà Trưng đánh đuổi Tô Ðịnh, bà Triệu khởi nghĩa ở Thanh Hoá đánh quân Ngô để rồi cuối cùng ông cha chúng ta dựng được nền độc lập, xóa tan tàn tích ngoại xâm và mở mang bờ cõi vinh quang ở trời Nam :
Ngựa Gióng đã lên không,
Rừng Thanh voi chửa lồng .
Một chồi hai nhụy Lạc,
Muôn dặm nước non Hồng .
Trăng soi gương hồ Bạc,
Mây tan dấu cột đồng .
Hồ Lãng Bạc là hồ lớn, phong cảnh rất đẹp ở kinh đô Thăng Long qua các triều đại huy hoàng của đời Lý, đời Trần, đời Lê đại hùng cường, bắc phạt Tống, diệt Nguyên; nam bình Chiêm mở cõi . ?Gương Hồ Bạc? trong thơ của cụ Hoàng thúc Hội biểu tượng cho kinh đô Thăng Long và kinh đô Thăng Long biểu tượng cho đất nước Việt Nam bao đời rạng rỡ .
Hai câu kết :
Nén hương lòng cố quốc,
Xin khấn một lời chung .
?Nén hương lòng? của ai hướng về hướng về ?cố quốc? ? Sao lại là ?cố quốc? khi cụ Hoàng thúc Hội đang sống trên đất nước Việt Nam ?
Ðể hiểu hai câu thơ trên chúng ta tìm về thân thế của tác giả . Cụ Hoàng thúc Hội (1870-1938) sinh năm 1870 tại làng Hạ Yên Quyết, phủ Hoài Ðức, tỉnh Hà Ðông, nay là phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội . Năm 1906 cụ đậu cử nhân Hán học nhưng giữ khí tiết, không ra làm quan cho Pháp .
Tưởng cũng nên nhớ lại năm 1884 Pháp chiến toàn bộ Việt Nam từ Nam ra Bắc, triều đình Huế chỉ là bù nhìn và chữ ?cố quốc? cụ hạ bút trong bài thơ nguyên do là nước đã mất .
Nhân Vịnh Hai Bà Trưng, cụ kêu gọi mọi người hãy chung lòng góp sức đánh đuổi quân Pháp ra khỏi bờ cõi Việt Nam .
Chú Thích : (*) Theo lời truyền lại, sau khi Mã Viện được vua nhà Hán sai sang chiếm lại nước Việt thì dựng một cột đồng ghi mấy chữ đe doạ ? Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt?, nghĩa là nếu cột đồng gãy thì nước Việt (Giao Chỉ) bị tiêu diệt .
Về sau, theo giai thoại, khi sứ thần Việt Nam sang Tàu, người Tàu ra câu đối rất ngạo mạn :
-Ðồng trụ chí kim đài dĩ lục ? ( Cột đồng đến nay đã mọc rêu xanh chưa ?)
-Ðằng giang tự cổ huyết do hồng ! ( Sông Bạch Ðằng từ xưa đã nhộm đỏ máu rồi ), sứ thần Việt đối lại, có ý nhắc đến quân Tàu mấy lần bị đánh tan tác bởi vua Ngô Quyền và Hưng đạo Vương tại sông Bạch Ðằng .
Tháng năm mở cửa hừng đông sớm
Cùng nắng vàng lóm đóm trải đường
Ðậu trên năm cánh hồng thương
Vân vê phiến mỏng má hường hây hây
*
Tháng năm lững thững quay vào ngõ
Tìm nhà em bày tỏ nhớ nhung
Loanh quanh rồi cũng tương phùng
Chưa quên lối cũ ngại ngùng tay trao
*
Cơn mưa hạ hanh hao buồn bã
Ðể chiều rơi, bóng ngả vệt dài
Vẽ trên tà áo trắng bay
Mắt em xanh biếc luyến say vào đời
*
Nhìn mưa hạ xứ người buồn vắng
Lác đác bay, sợi nắng đi hoang
Tìm đâu dáng nhỏ diệu đàng
Má hồng xoa dịu khẽ khàng tim côi
Tò lịch tình tang lững thững rơi hoài. Không một bàn tay thế nhân nào có đủ uy quyền để ngăn chận và bắt buộc tờ lịch phải ngừng bay. Hai tháng cuối năm, các siêu thị Việt Nam thường tặng quà cho những người khách mua hàng với số tiền tới mức là bao nhiêu thì sẽ được biếu lịch. Ðây là món quà đầu năm cho những ông bà thích có quyển lịch với nhiều hình ảnh muôn sắc rực rỡ, phong cảnh trong sáng treo lủng lẳng trên tường.
Tuổi trẻ thì khác hơn một chút, vì xài phone cầm tay mỗi ngày nên ít khi xin lịch và cũng không muốn treo lung tung trong phòng thêm bề bộn. Dù tờ lịch in bằng giấy hay tờ lịch vô hình trong cái phone, tất cả đều có cùng tác động vô ưu, lạnh lùng đến vô tình. Ðó là luôn chực chờ bào mòn cái quỹ dự trữ tuổi thọ của mỗi con người.
Tháng năm xa xưa ở Sài Gòn nắng vàng ẻo lả buông lơi trên cây phượng vỹ trước các dãy lớp. Những cánh hoa đỏ cam chói lòa một góc trường Gia Long. Nàng Phượng Vỹ đẹp xinh, dễ thương chi lạ! Nhưng càng nhìn thì nỗi buồn lại càng thấm thía, trỗi lên chuỗi ngày chia tay bạn hữu trong ba tháng hè. Hai cánh cổng sắt to lớn trên con đường Phan Thanh Giản sẽ im ỉm đóng khép. Bốn dãy lớp chạy dọc ngang theo hành lang thẫn thờ ngủ vùi trong khung trời êm đềm. Ba tháng hè trống vắng vì không ai được phép đi lảng vảng trong khuôn viên sân trường. Và nhất là không có bất cứ tiếng cười thủy tinh nào của các cô học trò hồn nhiên.
Tháng năm thường mang về vài cơn mưa hạ. Trời chợt nắng, rồi chợt mưa nũng nịu. Hạt nước mềm quấn quyện đổ đầy sân. Hàng ghế đá ướt mèm nằm run rẩy, đợi chân ai, ngồi xuống cùng chuyện trò. Ai đã về thăm lại trường xưa cũ vào tháng năm cũng chỉ nhìn len lén. Tìm quanh quẩn dáng ngoan hiền dạo ấy, vào giờ chơi tà áo khẽ lao xao.
Tháng năm bay qua đã mấy mươi mùa thu lá úa. Mỗi cô nàng đều chuyển hướng xây đời. Khi dòng lịch sử nghẹn ngào gẫy khúc. Kẻ ở, người đi tản mác mọi phương trời. Mấy mươi năm làm người tha hương xa xứ, sau tháng tư đen đau thương biển động. Làn sóng vượt biển nóng hổi như cơn sốt rủ nhau. Tháng năm cứ ầu ơ lần lượt quay về cùng bao nỗi nhớ xa xăm thời cắp sách
Giờ trôi giạt sống đời lưu lạc. Tôi đang ngóng chờ cơn mưa hồng tuổi ngọc của năm tháng làm cô học trò mơ mộng. Hay đang ngắm nhìn cơn mưa hạ mật ong đang yểu điệu ở góc trời California nắng ấm ngọt ngàọ
Nguyệt San Giao Muà xin cám ơn những thân hữu đã dóng góp bài vở cho Nguyệt San Giao Muà số 205 . Một số bài khác sẽ được đăng dần vào số tớị Mong mỏi sẽ nhận được những sáng tác của các bạn bốn phương để cho Nguyệt San Giao Muà thêm phần hương sắc trong tương laị
2) Ðể rút ra danh sách của NSGM (unsubscribe),
xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
3. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về:
GiaoMua@hotmail.com
4. Mọi bài vở, đóng góp, xin gửi về:
GiaoMua@hotmail.com
Nguyệt San Giao Muà
Homepage: http://www.GiaoMua.com
Thể lệ gửi bài cho Nguyệt San Giao Muà:
Mong bạn gửi Bài cho GM theo cách này là tốt nhất :
1. Dùng mẫu chữ Vietnet (VIQR) hay Unicode
2. Viết Hoa chữ đầu của bài và bút hiệụ Ví dụ: Giọt Mưa Trên Lácủa NS Phạm Duy
3. Gửi bài ngay trong email (không kèm file), để cho BBT khỏi mất công download xuống để đọc
4. Gửi tất cả các bài trong 1 tháng 1 lần trong1 email, nếu tiện.
5. Bài vở xin gửi đến trước ngày 25 mỗi tháng
6. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com
Cám ơn bạn rất nhiều, vì nhân sự có hạn, BBT không thể ngồi đánh máy lại từng đề bài hay bút hiệụ
P.O . Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA
Trang Nhà