Số 217
Ngày 1 tháng 5 năm 2020
Nguyệt San Giao Mùa
P.O.Box
378
Merrifield, Virginia
22116
USA
I . Thơ _______________________________________________________________________
1. Cây Thiện Sẽ Ðơm Hoa | ______Thanh Hà | ||||||||||||||||||||||||||||
2. Tháng Năm Về Khuyên Em | ______ Lê Miên Khương | ||||||||||||||||||||||||||||
3. Nàng Côvi | ______ Vân Hà | ||||||||||||||||||||||||||||
4. Chiếc Lá Thu Phai | ______ Hồ Thụy Mỹ Hạnh | ||||||||||||||||||||||||||||
5. Bước Phù Vinh | ______ Hàn Thiên Lương | ||||||||||||||||||||||||||||
6. Gõ Cửa | ______Bạch Liên | ||||||||||||||||||||||||||||
7. 30 tháng 4 (45 năm) | ______Nguyệt Vân | ||||||||||||||||||||||||||||
8. Huế Ơi, Kỷ Niệm Ơi .. | ______ Nguyễn Thị Thanh Dương | ||||||||||||||||||||||||||||
9. Ðồng Bào Mình, Người Việt Nam Ruột Thịt |
______ Như Nguyệt 10. Gió Hú Chân Ðồi |
|
______ Sông Cửu | 11. Trách Hờn |
|
______ Dạ Lan | 12. Cơn Lốc Tột Cùng Kinh Khủng |
|
______ Tình Hoài Hương | 13. Sài Gòn - Hòn-Ngọc Viễn-Ðông |
|
______ ChinhNguyên/H.N.T. | 14. Tao Ngộ |
|
______ Phạm-Nhật-Quỳnh | 15. Nguyện Cầu Mẹ |
|
______ Phamphanlang | 16. Cứ Mỗi Tháng Tư |
|
______ Chương Hà | 17. Linh Tinh Chuyện Ðời |
|
______ Ðặng Xuân Xuyến | 18. Nếu Mai Tôi Chết |
|
______ Trần Thị Hiếu Thảo | |
II . Văn _______________________________________________________________________
1. Ði Buôn Thời Bao Cấp ___________ Nguyễn Thị Thanh Dương | 2. Huấn Luyện Phi Hành (truyện dài nhiều kỳ) ___________ Tình Hoài Hương |
3. Một Chỗ Về (Phần I) ___________ Phan Thái Yên |
4. Vẫn Mơ về Chàng Corona ___________ Thanh Hà |
5. Ngày Tận Thế ___________ ChinhNguyên/H.N.T |
6. Tôi Trở Thành Dịch Giả ___________ Ðoàn Mạnh Thế |
7. Nội Trú Gia Long Niên Học 48-49 ___________ Trần Thành Mỹ |
8.Thơ Về Rượu ___________ Nguyễn Bàng |
9.Mẹ ___________ Bạch Liên |
III . Trả Lời Bạn Ðọc__________________________________________________
1. Nhắn Tin/Trả Lời Bạn Ðọc _______ Ban Biên Tập |
I . Thơ __________________________________________________
II . Văn___________________________________________________________
Nguyễn Thị Thanh Dương
2. Huấn Luyện Phi Hành (truyện dài nhiều kỳ) Tình Hoài Hương
- Tình Hoài Hương
Phan Thái Yên
Thanh Hà Thanh Hà ChinhNguyên/H.N.T.
Tuỳ bút(Nhân nạn dịch CORONA 2020, nhớ lại nỗi sợ hãi của nhân loại vào thời gian từ 2000 đến 2009...) ChinhNguyên/H.N.T. Ðoàn Mạnh Thế Ðoàn Mạnh Thế 7. Nội Trú Gia Long Niên Học 48-49 Trần Thành Mỹ Trần Thành Mỹ Nguyễn Bàng Nguyễn Bàng Bạch Liên Bạch Liên IIỊ Hộp Thư Toà Soạn
___________________________________________________
Thể lệ để nhận Nguyệt San Giao Muà:
1) Ðể vào danh sách của NSGM (subscribe),
xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
Ðịa Chỉ Liên Lạc:
Nguyệt San Giao Muà
Copyright
2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors
Sau khi tổ hợp mì sợi ngưng hoạt động vì không còn bột mì và ông tổ trưởng tổ hợp trốn đi vượt biên chị Bông đã mất đi số vốn góp cổ phần trong tổ hợp và không có công ăn việc làm.
Nhà chị gần ngay mấy cơ quan nhà nước (mà họ gọi là nhà máy ) nhưng với lý lịch ?hắc ám? chồng đi ?học tập cải tạỏ, gia đình ?ngụy quân nguỵ quyền? cha làm cảnh sát viên, lại là cảnh sát viên trong phủ thủ tướng và có em đi vượt biên sống ở nước ngoài nên chuyện trở thành công nhân viên nhà nước có biên chế vững vàng chỉ là những giấc mơ xa vời chị không dám nghĩ đến.
Hàng ngày nhìn người ta đi làm ra vào nhà máy, rồi cuối tháng mang về tiêu chuẩn nửa ký thịt nửa ký đường chi Bông thèm lắm, càng thấy danh hiệu ?công nhân? của nhà nước to lớn béo bở biết bao..
Không thể đi làm công nhân. Chị Bông tính chuyện đi buôn.
Thời cuộc đã phát sinh ra nghề đi buôn đủ loại đủ kiểu, nói chung là đi buôn thời 1975.
Buôn đi bán lại ngay tại địa phương các mặt hàng nhu yếu phẩm của công nhân viên nhà nước, của người dân nhịn ăn nhịn dùng bán đi lấy tiền chi tiêu cho chuyện khác, ra xa cảng miền Tây mua lại gạo thịt của những người buôn chuyến từ các thành phố miền Tây về bỏ mối bán lại cho bạn hàng chợ búa, hay đi sang vùng biên giới Campuchia để buôn các mặt hàng Thái Lan tuồn sang Campuchia từ đường, đậu, gạo, cá khô, đến thuốc lá, xà bông, vảịvóc, đồng hồ.v..v? Thuốc lá Samit và xà bông Táo đã trở nên quen thuộc với người tiêu dùng thành phố một thời..
Xa hơn nữa là đi buôn Nam - Bắc bằng xe lửa.
Xóm chị Bông đã thường xuyên có các hàng hoá từ miền Bắc vào, mỡ nước, trà, dép nhựa, và các nông sản theo mùa như dưa lê, củ tỏi, hành tây, khoai tây với gía rẻ. Nhưng mua khoai tây thì được, mua miếng xương miếng thịt nấu khoai tây đâu có dễ vì tiêu chuẩn hạn chế và nhất là không phải ai cũng có tiền ăn thịt.
Cô Sa là gia đình buôn bán giỏi nhất xóm, gọi là ?cô Sả nhưng cô lớn tuổi ngang vai cha mẹ chị Bông, chẳng biết từ bao giờ hàng xóm đã gọi là ?cô Sảcó lẽ vì cô Sa có vóc dáng thanh lịch của người Hà Nội xưa, cô luôn tươi tắn dù tuổi đời vẫn chồng chất theo năm tháng.
Mẹ con cô đều khôn ngoan lanh lợi, cô là người tiên phong đi buôn tuyến xe lửa Nam- Bắc, rồi vài người khác cũng rủ nhau đi theo. Cô Sa ở cách nhà chị Bông chừng chục căn, hiểu rõ hoàn cảnh đã rủ chị Bông:
- Tổ hợp mì sợi không còn nữa cô Bông theo tôi đi buôn Nam Bắc thử một chuyến may ra kiếm tiền mà nuôi con trong lúc chồng còn đang tù tội cải tạo..
- Nhưng cô Sa ơi cháu chẳng biết buôn bán là gì?
- Không sao, cô cứ theo chúng tôi, buôn có bạn bán có phường mà, chúng tôi mua gì thì cô mua nấy, hàng từ Nam ra hay từ Bắc vào đều có chỗ bỏ mối cả.
Thế là chị Bông hào hứng đi buôn, mọi người sẽ chỉ dẫn và đùm bọc lẫn nhau, buôn Nam Bắc không sợ mất trắng như buôn hàng từ biên giới Campuchia vì kín đáo hơn với lại nhân thể ?du lịch? cho biết Hà Nội 36 phố phường như chị đã biết qua sách vở.
Tuy thế chị Bông vẫn không dám tự tin liền rủ Nghĩa, một cô bạn vai em vì Nghĩa là bạn học đại học với thằng em kế của chị Bông, nhưng Nghĩa bỏ học dở dang vì sức khỏe yếu, mắt bị mờ dần đi. Nghĩa ở nhà phụ mẹ buôn bán vặt.
Cô sinh viên nửa vời cũng giống chị Bông ở chỗ vừa kết hợp đi buôn Nam Bắc kiếm tiền vừa nôn nóng muốn nhìn thấy Hà Nội trong văn học xưa. Hai chị em sẽ chung vốn trong chuyến đi, mua gì cùng mua và lời lỗ cùng chịu. Cả hai đều hào hứng..
Cũng như mọi lần, chuyến Nam Bắc này cô Sa coi như ?lãnh đạỏ chị em hàng xóm gồm 7 người, họ mua gì thì chị Bông mua nấy, các mặt hàng mang ra Bắc là cau ăn trầu, cau tươi hay cau khô, nhưng cau tươi có gía hơn, là len để đan áo, cà phê, ziper, thuốc lá Hoa Mai, Ðà Lạt..v..v..Những thứ này sẽ bán trên mỗi chặng đường xe lửa đi qua.
Ðến ga Hoà Hưng vào buổi trưa thật đông vui kẻ mua người bán tấp nập, cau tươi bán ngay tại sân ga, các bà tranh nhau chọn lựa những buồng cau xanh trái to tròn và ngã giá, chị Bông và Nghĩa dù chậm chân cũng mua được hai buồng cau như người ta dù có thua kém không tươi ngon bằng.
Mang được buồng cau và túi hành lý lên tàu thật vất vả, chị Bông o bế giữ gìn buồng cau như báu vật chỉ sợ người ta đụng chạm vào làm rơi rụng qủa thì mất gía.
Buông mình ngồi xuống ghế vẫn chưa yên thân, chị phải liên tục né ngang né dọc như một người đang bị kẻ bạo hành dồn dập tấn công, hành khách vẫn chen lấn xô đẩy ngả nghiêng và nhồi nhét hành lý dưới gầm ghế, bên cạnh ghế và mấy khoang trên đầu, hết chỗ nhét thì họ treo hay móc lên khoang, lên thành ghế, chị Bông bị bao vây tứ bề bởi người và hàng hoá.
Không có chỗ để ruỗi chân hay tỳ tay đã đành mà dường như không có cả chút không gian để thở, chị ngồi co quắp trong ghế .?
Dù thế nào thì chuyến tàu Nam Bắc cũng hụ còi inh ỏi và phấn khởi lăn bánh rời ga Hoà Hưng mặc cho bên trong tàu bao nhiêu con người đang nhốn nháo chen vai thích cánh, đang chới với ngột ngạt vì mùi người, mùi hàng hóa đủ loại và ồn ào âm thanh nói cười trong bể khổ của cuộc đời.
Các bà trong nhóm cùng đi buôn dặn dò chị Bông và Nghĩa vì biết là mới đi xe lửa Nam Bắc lần đầu:
- Tôi dặn trước, hai cô ngồi ngay cửa sổ coi chừng khi qua mấy sân ga nhé, trẻ con ném đá lên tàu ai bị thương hay chết thì ráng chịu không có người bảo vệ cho mình đâu.
- Ôi, đi xe lửa mà nguy hiểm như ra chiến trường !
Một bà khác cũng dặn dò:
- Còn nữa, cẩn thận cả tiền bạc và hàng hóa đấy, hành khách cũng có khi là kẻ cắp trên tàu. Chúng ăn cắp hàng hoá và rạch túi nhanh như chớp, người chật như nêm thế này chúng càng dễ hành nghề.
Chị Bông lại kêu lên:
- Ôi, đi xe lửa mà như lạc vào chốn giang hồ.
Một bà kinh nghiệm kể:
- Cô Bông để ý sẽ thấy có những hành khách không cần ngồi ghế, họ bám cột đứng ở cuối khoang tàu, đến một địa điểm nào đó là họ nhanh chóng ra tay, thảy những bao hàng hóa xuống và phi mình ra khỏi khoang tàu tài tình như làm xiếc.
- Ôi, cứ như phim hành động, tàu đang chạy mà họ dám nhảy à?
- Ban đầu chúng tôi cũng thấy khiếp đảm như cô đấy, giờ thì quen rồi.
Và bà giải thích ra vẻ kinh nghiệm:
- Ðể giảm bớt sự chấn thương họ nhảy cùng chiều với con tàu đang chạy và ngã lăn ra bãi cỏ nên khá an toàn, địa điểm họ chọn trước thường vắng vẻ và có đồng bọn chờ sẵn. Thời buổi khó khăn chính quyền quản lý hàng hóa và ngăn sông cấm chợ nên người dân phải tìm mọi cách kiếm sống dù có nguy hiểm đến tính mạng như nhảy tàu, sai một ly đi một dặm chết người như chơi..
Chị Bông và Nghĩa cũng đã cẩn thận tiền bạc cất trong túi gài kim băng dấu kín sau lần áo trừ khi kẻ cắp thò tay vào chứ mắt nhìn không thể nào thấy được, còn mấy túi hàng hóa để ngay bên cạnh hai ngưòi sẽ thay phiên nhau ngủ để canh chừng.
Tàu qua ga Xóm Thơm Gò Vấp, ga Bình Triệu, Sóng Thần và hướng về bao nhiêu sân ga xa lạ, bao nhiêu đường dài chưa quen hun hút phía trước, càng lúc càng rời xa thành phố, càng xa nhà, chị Bông vừa háo hức vừa cảm thấy buồn vì lần đầu tiên chị đi xa đến thế.
Ðến chiều là cảnh bát nháo của hàng cơm di động, người ta bưng thúng mời chào mua cơm, người này ăn xong thì làm cho người khác sau khi đĩa thìa được lau chùi bằng giẻ ngay tại chỗ, ngay trước mắt khách hàng chứ nước ở đâu ra mà rửa ráy trên tàu.
Chị Bông kinh hãi lắm, cũng may là trước khi ra ga Hoà Hưng chị đã ăn một tô cơm rang nên quyết chí nhịn ăn trên tàu, đợi đến ga nào đó xuống sân ga may ra có món khác ăn cho đỡ đói lòng.
Hai buồng cau của chị Bông và Nghĩa treo ở sát cửa sổ cùng rung rinh, cùng đong đưa theo nhịp tàu chạy. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng ?bộp? nhỏ khô khan và ai đó trong nhóm hàng xóm chị Bông lại kêu lên:
- Cau của cô Bông rụng kìa.
- Chắc lựa buồng cau vừa gìa vừa héo chứ gì !
Cứ thế không buồng cau chị Bông thì là buồng cau của Nghĩa, qủa cau rụng xuống như nỗi lo buồn của hai kẻ đi buôn bất đắc dĩ đang rụng xuống cuộc đời. Chị Bông ngồi gần cố với tay ra nâng đỡ cho hai buồng cau bớt bị dao động mà không xong, đành mặc cho chuyến tàu đẩy đưa, chị nhặt mấy qủa cau rụng lên đếm được tổng cộng 9 qủa, và đoán chắc là hai buồng cau sẽ bán lỗ vốn thôi.
Tàu qua ga Mường Mán Bình Thuận và nhiều ga khác thì đến ga Tháp Chàm Phan Rang, người ta mang lên tàu những giỏ nho để mời khách mua, nhóm đi buôn mua nho hi vọng mang ra Bắc bán lại kiếm lời, chị Bông và Nghĩa không mua cái món mong manh dễ dập dễ hư ấy vì hai buồng cau đang đe dọa lỗ vốn rồi.
Thế mà may vì giỏ nho của bà nào đó mua vài giờ sau đã bắt đầủchảy nước, không biết vì người bán để nho hư dập dưới đáy giỏ hay vì không khí nóng ngột ngạt trên tàu làm nho chóng hư?
Bà nọ bảo bà kia:
- Thôi, chị mang giỏ nho ra ăn dần đi kẻo hư thối thêm mà bán chẳng ai mua.
Tàu qua đèo Hải Vân, uốn lượn theo con đường đèo gian nan nguy hiểm làm chị Bông lo sợ vẩn vơ con rắn khổng lồ nàỷtrượt chân, trượt đường ray rơi xuống biển thì chẳng còn kịp nhìn thấy chồng con.
Ðến Lăng Cô cảnh núi non và biển xanh nên thơ, người ta kể rằng sau biển xanh xinh đẹp kia có một làng cùi, những người cùi sống ẩn khuất xa lánh mọi người, biết đâu thiên nhiên hùng vĩ và tươi đẹp sẽ làm dịu đi những nỗi đau bất hạnh của họ.
Những sân ga những thành phố từ Sài Gòn vào miền Trung như Phú Sơn, Phù Cát, Bình Ðịnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Ðà Nẵng, Cam Ranh, Thừa Thiên, Huế?v..v?đã gợi lại trong lòng chị Bông bao nhiêu cảm xúc, chị nhớ một thời chinh chiến đã qua, những người lính miền Nam đã từng xông pha nơi những địa danh này họ còn sống hay đã chết? họ bị thương đang sống lây lất tấm thân tàn hay đang trong tù cải tạo nơi nào?
Ðến ga cần phải bán cau, vì mỗi ga có nhu cầu mua hàng hoá khác nhau, nếu để qua ga ấy thì món hàng đem bán hạ gía dần vì người mua bắt chẹt, họ biết người bán mang hàng từ Sài Gòn vào Hà Nội không thể mang trở ngược về Sài Gòn cho nặng hành trang, nên cuối cùng giá nào cũng bán.
.Không ngờ hôm nay cau được gía, hai buồng cau dở nhất, bị rụng nhiều nhất của chị Bông và Nghĩa bán vẫn có lời dù là lời ít. Còn 9 qủa cau lẻ chị Bông cho bà gìa bán nước trà ở sân ga, bà mừng rỡ như vừa nhận được món qùa qúy nên chị Bông cảm thấy vui lòng, nỗi buồn cau rụng đã bay mất, đã bỏ lại ở những sân ga đi qua..
Nghĩa vui mừng nói với chị Bông:
- Trời thương, hai buồng cau xấu của chị em mình cũng có lời..
Ðến ga khác thì cả nhóm xuống sân ga để mua xoài, kẻ mua người bán chớp nhoáng như ăn cướp vì thời gian có hạn, tàu ngừng không lâu, có nhiều vụ tàu chạy hành khách phải bỏ của phóng ngay lên tàu, 5 bà kia đã đi buôn Nam Bắc vài lần nên kinh nghiệm mua được ngay những chục xoài ngon, hai kẻ khờ chị Bông và Nghĩa chẳng còn gì mà mua, đang ngơ ngáo thì một chị bưng thúng xoài đến gần chắc chị ta trông mặt đặt tên nên mời chào:
- Hai cô mua nốt nửa thúng xoài này đi chị bán rẻ cho.
Ðó là nửa thúng xoài còn lại, toàn là qủa nhỏ, chắc những qủa lớn đã được người ta chọn mua rồi. Chị Bông và Nghĩa đang băn khoăn chưa biết tính sao thì chị bán xoài hối thúc:
- Mua đi, mua đỉ tàu sắp chạy rồi kìa.
Không còn thì giờ để bàn cãi hay suy nghĩ nữa chị Bông đồng ý và chị bán xoài nhanh chóng trút cả nửa thúng xoài lớn nhỏ thập cẩm vào một cái gỉo cói đã cũ và rách quai, vậy mà chị ta kể công:
- Xoài rẻ lại được tặng cái giỏ cói luôn nhé.
- Nhanh nhanh lên ?chị xoàỉ ơi, người ta đang kéo nhau lên tàu cả rồi.
- Nghĩa ơi đếm tiền trả ?chị xoàỉ đi để chị vác xoài lên tàu cho, xoài nhiều nặng lắm Nghĩa bê không nổi đâu.
Nghĩa níu tay chị Bông:
- Chị ơi, thà để em bê xoài, mắt chị sáng chị đếm tiền trả cho khỏi lộn..
Sân ga ồn ào càng ồn ào thêm vì tiếng hối thúc của 3 người là chị bán xoài, chị Bông và Nghĩả
Trong khi chị Bông đếm tiền trả thì Nghĩa khệ nệ ôm giỏ xoài to lên tàu, mấy bà lục đục lên sau thăm hỏi:
- Cô Bông mua xoài ngon không?
Chị Bông đã lên tàu, đáp dè dặt:
- Chắc cũng?như buồng cau ở ga Hòa Hưng nhưng được cái mua mão cả nửa thúng còn lại nên gía rẻ lắm.
Một bà giọng đầy thương cảm:
- À, loại hàng dạt ấy mà, qủa xấu, qủa nhỏ, quả chín, quả xanh, nên nó vừa bán vừa ?cho.
Xoài ở trong giỏ thì chẳng sợ rơi rụng như cau trên buồng mà chị Bông vẫn lo ngay ngáy lỡ xuống đến ga kế tiếp người ta chê không mua xoài nhỏ thì sao? chỉ có nước vừa bán rẻ vừa cho không..
Nhưng thêm một lần nữa trời thương cả mớ xoài ấy bán có lời, ở đời tiền nào của ấy, hàng nào cũng có người cần.
Thuốc lá Hoa Mai, Ðà Lạt đến ga cần bán là chị Bông bán ngay với gía huề vốn vì hôm nay thuốc lá Hoa Mai, Ðà Lạt rớt gía, chị Bông và Nghĩa cùng quan niệm đến ga nào là bán ngay món ấy, nhưng mấy bà kia chê gía rẻ để dành ga kế tiếp hi vọng được gía hơn, ai ngờ gía lại rẻ hơn các bà đành bán lỗ vốn vì đến thêm ga nữa coi như món hàng? ?vô gíả bao nhiêu cũng phải bán cho rảnh tay. Các bà khen hai cô khờ đi buôn mát tay.
Ðến ga Nam Ðịnh bán cà phê và len, không lời nhiều thì cũng lời ít.
Bây giờ hành trang đi buôn chỉ còn mớ ziper nhẹ tênh mang đến Hà Nội. Chị Bông và Nghĩa có thì giờ và tâm hồn thảnh thơi ngắm cảnh vật bên đường.
Cảnh nhà cửa, đường xá, xe cộ nói lên một miền Bắc nghèo nàn chậm tiến.
Tàu qua Phủ Lý làm chị Bông chợt nhớ quê hương nơi chị sinh ra nhưng chưa lần về thăm, giá bây giờ chị về quê chẳng biết tình họ hàng ruột thịt có mặn nồng không khi chị ở giới tuyến khác họ?
Các ga lần lượt hiện ra, ga Ðỗ Xá, ga Chợ Tìa, ga Thường Tín, Văn Ðiển, Giáp Bát và cuối cùng tàu đến ga Hàng Cỏ Hà Nội, thuộc cửa Nam quận Hoàn Kiếm sau hơn 1700 km đường dài, qua hàng trăm sân ga quen tên và không quen tên nghe xong một lần rồi đi vào quên lãng.
Cô Sa dẫn nhóm đến thuê một căn gác trọ mà nhóm cô vẫn trọ từ những lần trước, sau 3 ngày 2 đêm ăn ngủ thất thường, ngủ gà ngủ vịt trên ghế xe lửa, ăn uống lấy lệ, được ngả người ra chiếu ngủ sau khi tắm rửa sạch sẽ bụi đường thật không gì sung sướng bằng, cả nhóm 7 người cùng ngủ một giấc ngon lành đến chiều mới thức dậy để rủ nhau ra đường ngắm phố Hà Nội.
Mùa hè khí hậu Hà Nội đầy nắng nóng, ai cũng thấy khát hơn là thấy đói, cô Sa rủ ra cửa hàng mậu dịch mua kem. Cô dặn:
- Mỗi khi ra phố chợ mua bán nhớ nói ngôn từ miền Bắc giống họ cho họ dễ hiểu nhé, với lại có nhiều người còn kỳ thị người miền Nam chúng ta lắm.
Chị Bông nói:
- Cô Sa đừng ngại có cháu là Bắc kỳ 54 đây, cháu vẫn nói giọng Bắc mà.
- Nhưng Bắc 54 khác Bắc 75, cách dùng từ khác nhau. Thí dụ ?que kem? thay vì ?cây kem? hay ?cốc chè đỗ đen? thay vì ly chè đậu đen của miền Nam.
Cả nhóm đi bộ ra phố chị Bông thấy trước những cửa hàng nhỏ bên hè đường có tấm bảng nhỏ ghi hớn hở và nhiệt tình ? Có đá, có đá. Bán tại đâỷ chứng tỏ món đá cục trong mùa Hè là món hàng hiếm không phải nơi nào, lúc nào cũng có để bán cho khách hàng.
Ðến một cửa hàng mậu dịch bán kem, trời đang nắng khát chị Bông nghĩ đến món kem mát lạnh ngọt ngào mà nao nức, chị sẽ mua 2 cây ăn cho đỡ khát đỡ thèm, hàng vẫn mở cửa vài ba cô nhân viên bán hàng đang ngồi nhởn nhơ tán dóc, chị Bông cất cao giọng Bắc của mình lên:
- Chị ơi, bán cho chúng tôi mấy que kem.
Một cô nhân viên trả lời cộc lốc:
- Hết rồi !
- Chị nói hết rồi là hết cái gì? chưa hết giờ làm việc mà?
- Nhưng hết kem rồi. Hiểu chưa?
- Chưa hiểu, bây giờ chị nói thì mới hiểu.
Cô nhân viên chảnh chọe:
- Nếu còn kem thì nhà chị đã phải đứng xếp hàng chứ không phải bước ngay vào cửa như thế này.
Cả nhóm kéo đi lẩm bẩm bàn luận cùng nhau:
- Xã hội chủ nghĩa đào tạo ra những con người ăn nói bất lịch sự qúa nhỉ.
- Này cô Bông và cô Nghĩa ơi, hai cô mà ra chợ búa thì còn nghe ghê gớm hơn nữa, họ chửi khách như chửi con, có lần tôi là nạn nhân ở chơ Bắc Qua, trả giá thấy đắt qúa không mua liền bị cô bán hàng tuổi đáng em đáng cháu đứng phắt lên xắn áo xắn quần chửi bới không tiếc lời, gía mà cô mặc váy thì chắc sẽ tốc váy lên chửi chứ chẳng chơi, chua ngoa đanh đá lắm..
- Thà chị bị chửi mà không mất tiền, còn đỡ hơn em vào chợ Ðồng Xuân tốn tiến mua phải hàng gỉa, một ký hạt tiêu trộn lẫn với hột bột màu đen chẳng mùi vị gì cả.
- Hàng quán và chợ búa là một phần đời sống con người, là nét văn hoá dân tộc mà họ chẳng giữ thể diện gì cả..
- Thôi, hơi đâu mà bàn chuyện dài xã hội chủ nghĩa, mình đi tìm hàng chè đậu đen đá ăn cho đỡ khát đi, món qùa ngon của mùa hè Hà Nội đấy.
Ăn chè xong là dạo phố rồi ngày mai cô Sa dẫn đi mua hàng, đóng hàng hôm sau theo tàu về miền Nam.
Sau phút giây thăm cảnh phố lạ người dưng trời đã về chiều, nhìn người ta hối hả đạp xe đi xe trên đường chị Bông nghĩ họ đang trở về nhà sau một ngày làm việc mà chợt chạnh lòng nhớ hai đứa con nhỏ qúa, chị cũng muốn được về nhà như họ..
Bỗng phía đường xa xa trước mặt có một đám đông đang túm tụm lại khi cả nhóm tò mò đến gần mới biết một vụ đụng xe đã xảy ra vì những tiếng nói trong đám đông ồn ào:
- Ô tô đâm chết người đang chờ cảnh sát đến lập biên bản.
- Tiên nhân cha thằng nào đụng người mà bỏ chạỷ
- Quân vô lương tâm, ngữ này phải xử lý thật nặng?
Xác người chết được đắp chiếu nằm giữa đường, hình ảnh này càng làm tâm hồn chị Bông ớn lạnh bơ vơ, chỉ muốn có phép nhiệm màu nào đưa chị về ngay nơi mái nhà thân yêu của mình, ôm hai con vào lòng để biết đời vẫn còn ấm áp, niềm vui.
Ðêm ấy chị Bông ngủ giữa lòng Hà Nội mà mơ về Sài Gòn nơi chị bao nhiêu năm thân quen, nơi chị có những kỷ niệm buồn vui. Cũng là mảnh đất quê hương mà sao Hà Nội Sài Gòn vẫn lạ lùng xa cách nhau .
Sáng thức dây cô Sa dẫn nhóm đi ăn phở, một cửa hàng mậu dịch ở cửa Nam nổi tiếng là ngon, phở miền Bắc lại là phở xã hội chủ nghĩa khác hẳn phở miền Nam, không tương đỏ tương đen, không gía sống rau thơm, khách hàng ăn tại chỗ hay cầm gà mên mua mang về nhà, ngay từ lúc hàng mở cửa họ kiên nhẫn đứng xếp hàng dài, có lẽ cuộc đời họ đã quen với cảnh chầu chực và chờ đợi rồi, chị Bông thấy họ vẫn hớn hở vui tươi chờ đến lượt..
Cả nhóm đi mua trà, vào một căn nhà mọi người đang ăn cơm làm chị Bông và Nghĩa ngại ngùng nhưng cô Sa thản nhiên giải thích nhà này ở chung mấy hộ, người bán trà ở một phòng nhỏ trên gác. Trời ơi, một căn nhà sống chung đụng mấy gia đình và đi chung lối, chung nhà thì còn gì là riêng tư nữa?
Cô Sa bồi thêm vào những suy nghĩ của chị Bông:
- Chuồng xí tức là cầu tiêu thì ở nơi công cộng, ai muốn ?đỉ thì ra đó xếp hàng.
Lại xếp hàng và chờ đợi ngay cả chuyện vệ sinh cá nhân. Người Hà Nội nổi tiếng phong lưu thanh lịch mà phải sống thiếu thốn tiện nghi trần trụi đến thế sao.
Và Chị Bông càng ngạc nhiên khi đến một căn hộ khác để mua mỡ nước đã thắng và đong vào bình, là một diện tích chỉ đủ kê một cái phản, ban ngày ngồi bán hàng ở đây, ăn uống ở đây và tối cũng ngủ ở đây, chị Bông ngại ngùng không dám cất tiếng hỏi chủ nhân nơi nào nấu nướng, vệ sinh tắm rửa.
Nghe nói có hẻm trong phố cổ, hẻm chật hẹp tối tăm chỉ đủ một người đi. Người Hà Nội thật tài tình, kiểu nào họ cũng sống được.
Ra chợ Ðồng Xuân cả nhóm xà vào hàng vịt lộn, bà bán hàng đập qủa trứng vịt lộn ra bát và trao cho khách ăn với muối tiêu rau răm. Cũng là trứng vịt lộn mà kiểu ăn khác với trong Nam.
Món hàng dép nhựa mua tại chợ Ðồng Xuân, chủ hàng đóng gói cho khách, chốc nữa mua xong cả nhóm sẽ mang ra bưu điện gởi về nhà.
Chị Bông và Nghĩa đứng trên hè phố đối diện chợ Ðồng Xuân để chờ một vài bà còn đang mải mua thêm hàng trong chợ, chị Bông thấy một bà gìa nhà quê bưng thúng bán kẹo rong, là món kẹo bột dành cho trẻ con. Bà gìa vừa mở thúng lấy kẹo bán vừa trìu mến trò chuyện với thằng bé khách hàng khỏang chừng 4-5 tuổi ngay trước cửa nhà nó:
- Mai này lớn cháu sẽ làm gì?
Thằng bé trả lời không cần suy nghĩ:
- Cháu muốn đi bán kẹo giống bà.
Bà gìa bán kẹo mỉm cười trách yêu:
- Cháu đi làm việc chứ, cháu mua nhà to như nhà bố mẹ cháu chứ, bán kẹo như bà thì nghèo lắm.
Bà già nhà quê bán kẹo biết ăn nói làm đẹp lòng khách, dù chỉ là người khách bé bỏng trẻ con, bà hơn hẳn mấy cô nhân viên bán hàng ở cửa hàng mậu dịch bán kem ăn nói chảnh chọe kia.
Cả nhóm ôm những bao dép nhựa ra bưu điện gởi về Sài Gòn, thế là giải quyết xong một mối hàng, lại là mối hàng nặng ký cồng kềnh nên ai cũng cảm thấy thoải mái hẳn ra.
Hôm sau lên tàu về Nam, hành trang chỉ còn xà bông Ðông Âu, mấy bình mỡ nước, trà Bắc và đường cát trắng nên khá thảnh thơi vì sẽ mang về tới Sài Gòn chứ không bán hàng qua từng chặng ga như chuyến đi từ Nam ra Bắc.
Chị Bông đã kinh nghiệm nên cố tránh không ăn cơm trên tàu lửa, chị mua sẵn mấy ổ bánh mì không, mấy cái bánh giò mang lên tàu và tới các ga nào đó chị sẽ xuống tàu mua đồ ăn nước uống cho no thay vì ăn cơm trên tàu cho đến trạm cuối cùng là ga Hoà Hưng..
Hàng hóa mang về Sài Gòn chị Bông và Nghĩa đã giao phó hết cho một bà ?đại diện? mang đến chợ Tân Bình bỏ mối giùm, chỉ phải trả cho bà một ít tiền hoa hồng.
Chị Bông và Nghĩa mỗi người sụt đi cả kí lô vì mất ngủ và vì ăn uống ?đói khát? trên hai chuyến tàu đi và về giữa hai miền Nam Bắc.
Nhưng bù lại chị Bông và Nghĩa mỗi người lời được một món tiền tương đương một chỉ vàng. Một chỉ vàng thời điểm năm 1983 rất gía trị, một người bạn chị Bông làm công nhân viên nhà nước, tăng gia sản xuất nuôi một chuồng gà công nghiệp, chị ta đã cắt chỉ vàng ra từng phân vàng để mua cám nuôi gà.
Hai kẻ khờ đi buôn chuyến đầu tiên cũng là chuyến cuối cùng vì biết mình không thích hợp với cảnh bán buôn đường dài này.
Nhưng cô Sa và các bà kia cũng chỉ đi buôn thêm được một thời gian thì không ai cấm cũng tự động ở nhà vì sau này thêm nhiều người đi buôn và càng ngày giá vé xe lửa càng tăng, giá cước phí bưu điện cũng tăng.
Thì ra thời gian đầu nhà nước bao cấp nên gía vé xe lửa còn rẻ, gía cước bưu điện cũng rẻ, đi buôn với mấy thứ hàng hóa tầm thường mà vẫn có lời.
Ngày nay đọc thông tin trên net vé xe lửa Nam Bắc rất đắt, đã có bao công nhân viên miền Bắc làm việc trong Nam cuối năm chẳng đủ tiền mua vé tàu xe về thăm quê, thăm thân nhân.
Có người ngậm ngùi than rằng:
- Tôi 10 năm làm việc trong Nam, mỗi lần năm hết Tết đến chưa bao giờ mua được vé xe lửa gía chính thức về quê, chỉ toàn là mua vé chợ đen gía ?cắt cổ?.
Ðúng thế, cảnh biển người chờ đợi và chen lấn để mua vé xe lửa thật gian khổ hãi hùng.
Chị Bông bỗng thấy mình may mắn vì có thời đã đi trên chuyến tàu lửa ấy với gía vé rẻ mạt và còn kiếm được tiền lời, và nhất là đã thoả được ước mong nhìn thấy Hà Nội 36 phố phường, Hà Nội cũ kỹ thấp thoáng những hình ảnh trong các tác phẩm văn học xưa, một Hà Nội dường như dừng chân tại chỗ, bấy lâu nay chưa thay hình đổi dạng là bao.
-----------------
Vĩnh Biệt Chiếc F 5 tại hồ Xuân Hương Ðà Lạt
Một câu chuyện có thật đã xảy ra năm 1974
Tình Hoài Hương
*
Từng cuộn mây trắng bồng bềnh trôi trôi, mây như đoàn thuyền con nhấp nhô trên sóng nước đang quỳ gối in bóng xuống mặt hồ Xuân Hương phớt xanh. Sương phơi phới rải rác đó đây nhã từng cụm dày là đà bay bay, như cô thiếu nữ xuân-thì khoát tấm áo lụa mỏng manh. Ðôi khi mây chuyển thành màu ngà, trở qua màu hồng thắm pha trộn chút ngai ngái ươm vàng, rồi ánh bạc lấp lánh từng dãi dài. Ðứng trên lầu nhìn ra hồ, Hạnh ngẩn ngơ ngó từng cụm mây bay, giống như bà tiên xõa tóc huyễn hoặc đứng trên đồi tuyết vào cuối tháng hai năm 1974.
Bỗng nhiên có một tiếng nổ gầm rú to kinh khủng ngân rền như những nhịp sấm, làm rúng động, quằn quại cả bầu trời trong xanh và cao mênh mông. Giây lát sau kèm theo một tiếng nổ long trời lở đất vang đinh tai nhức óc. Hạnh tưởng chừng như núi Lâm Viên đã sụp, hay vũ trụ tận diệt. Ðúng lúc kinh hoàng ấy có những tiếng xì xì, xẹt xẹt vút vút bay trên đồi Cù (đối diện nhà cô), kèm theo tiếng nổ phụ khác to to rền rền không kém tiếng nổ ban đầu. Mấy cửa kính, cửa sổ, đồ đạc bằng thủy tinh trong nhà tự động nhảy xuống đất, bể loảng xoảng. Gió lùa vô mấy khung cửa bể, khiến mùng màn trong nhà lồng lộng bay phất phới.
Hạnh giật nẩy mình, hai tay đang bưng thau nước (để tắm cho bé Hoàng) đã rơi xuống đất, nước văng tung toé lênh láng trên nền gạch, văng ướt hết quần áo cô. Chú bé hai tháng tuổi ngủ vùi đã khóc thét lên. Hạnh vội chạy đến ôm chầm con trai. Mọi người trong thành phố trong khu Hạnh ở đều nhốn nháo, thất thanh, hốt hoảng, họ la hét tướng lên gọi nhau không dứt, họ hỏi thăm đã có chuyện gì xảy ra vậy, họ ơi ới kêu rống rõ to, giống như con heo, con bò, con dê trong ba toa bị chọc huyết.
Chỉ non mươi lăm phút sau, Hạnh nghe nhiều tiếng còi xe cứu thương hú inh ỏi, vang dội mấy góc phố. Phút chốc người nhà đi chợ về báo tin:
- Có một chiếc máy bay rớt ở ngoài hồ Xuân Hương. Mọi nẽo đường bị chận lại hết.
Thôi chết rồi, bây giờ là lúc tan trường, các con phải đi bộ về ngang qua cầu Ông Ðạo. Làm sao đây hở Trời? Vô cùng lo lắng, ruột gan nóng như lửa đốt, Hạnh quá sợ hãi, run lập cập, cô vội vàng trao con út cho mẹ chồng, nhờ me trông coi. Thay bộ đồ ướt, mặc thêm hai áo lạnh, Hạnh run rẩy lần từng bước thấp bước cao, khi chạy, khi đi, miệng không ngớt lâm râm đọc kinh cầu nguyện. Từ nhà Hạnh đi bộ đến bờ hồ, tới nhà hàng Thanh Thủy chỉ mất năm phút. Vừa vòng ra đầu ngỏ đường Cộng Hoà và Võ Tánh, gần khu toà tổng Giám-mục, thì Hạnh đã thấy hàng hàng lớp lớp người đông nghìn nghịt chạy lui chạy tới lố nhố. Kẽ la người hét ồn ào hơn vỡ chợ, đường ven hồ bị niêm phong bởi nhiều vòng kẽm gai.
Quân-cảnh, Cảnh-sát Dã-chiến, Biệt-đội phòng vệ thị trấn tay bồng súng, miệng luôn thổi còi báo động. Họ giải tán mọi người tò mò muốn đến gần ven hồ Xuân Hương, để nhìn cho tỏ tường. Hình như các biện pháp an ninh đề phòng, đều không thể ngăn chặn được làn sóng người hiếu kỳ mỗi lúc một kéo dồn về khu vực bị tai nạn hết sức đông. Tất cả xe đạp, xe gắn máy, xe lam, xe ngựa, xe hơi, đều bị cấm vô khu vực cầu ông Ðạo, người đi coi cứ đứng ù lì ra, không thể nhúc nhích cục cựa. Mặc kệ! Ai muốn la khàn cổ, cứ la. Ai muốn chưở?i cứ chưở?i. Người ta vẫn ùn ùn xô đẩy nhau đi xem càng lúc càng đông nghịt, dường như điếc không sợ súng, cứ chen lấn xô đẩy nhau mà coỉ "cho đã".
Hạnh run như cầy sấy, lo sợ tột đỉnh vẫn hiếu kỳ cố chen vai thích cánh với những người đi bộ san sát nhau. Bên kia dốc đường Lê Ðại Hành đã bị xe cảnh sát chận ngang, họ không cho dân vô thành phố, và khu chợ hoặc đi lên phố. Nội bất xuất, ngoại bất nhập rồi. Hạnh khiếp đảm, kinh hoàng, rụng rời bãi hoãi thân thể, cô đứng chôn chân xuống đất nhìn mặt hồ Xuân Hương tù hãm. Nước mắt cứ trào ra, mặc dù không chủ định khóc.
Hạnh đứng thừ người nhìn xuống hồ Xuân Hương. Úi trời đất qủi thần ơi! Một cảnh tượng vô cùng hãi hùng đã phơi bày ra trước mắt: Mặt hồ thường ngày trong xanh dường bao, ta có thể soi rõ bóng mình dưới làn nước xanh biếc im sóng, vậy mà nay hồ trở thành một đầm lầy, bầy nhầy đất bùn sền sệt, sủi bọt lăn tăn to, nhỏ, đủ kiểu, vô số bong bóng cứ đứng yên một chỗ ?sụt sịt? không bể tan. Dầu nhớt, xăng máy bay lênh láng, khói đen là đà vần vũ trên mặt hồ, mặt nước bầy nhầy từng miếng thịt vụn, thịt mỡ, từng khúc ruột trắng lòng thòng, thịt tươi dính rong rêu, bùn đất, từng cánh tay, lóng chân, giày, dép, mũ, nón, đủ thứ, vân vân? loạn xà ngầu tròng trành lờ đờ trôi đi, trôi lại trên mặt hồ sùi sụt sủi tăm.
Ngay chính giữa hồ, nửa cánh bay của chiếc phi cơ F 5 lâm nạn chĩa thẳng lên trời, thân phi cơ nhấp nhô khỏi mặt nước đen ngòm, đuôi phi cơ chổng kềnh nhô cao lên khỏi mặt hồ, phi cơ đã cắm phập xuống đáy hồ, không hiểu sao phần đầu phi cơ lại bức thân mà bay vụt lên phía sân Cù, cắm phập xuống đất? Hạnh không thể nào hiểu nỗi tại sao? Ðó là nguyên nhân mà cô đã nghe có tiếng nổ phụ lần thứ nhì (liền sau khi nghe tiếng nổ to kinh khủng đầu tiên). Ngẫm nghĩ thì người dân ở trong phố hết sức may mắn! nếu nguyên cả chiếc phi cơ, hoặc chỉ một cái đầu của phi cơ thôi, mà vô phúc rơi đúng vô khu vực phố Hoà Bình, hay rơi vào khu chợ mới, thì coi như người dân sẽ chết vô số kể! Xin cám ơn Thượng Ðế vô ngần.
Xe cứu thương lo cấp cứu thương nhân vẫn hú còi inh ỏi, xe tới tấp chạy lên bệnh viện Ðà Lạt. Trong chớp nhoáng Ty Thông Tin Ðà Lạt làm loa phóng thanh dã chiến móc tạm trên mấy cột điện, tiếp tay với Cảnh-sát, Biệt-đội phòng-vệ Tỉnh/Thị-xã giữ gìn an ninh trật tự, họ luôn kêu gọi đồng bào hãy tản mác ra, ai về nhà nấy, hay có ai đã chứng kiến từ đầu các sự kiện xảy ra, hoặc muốn tìm thân nhân; lạc người thân, hãy đến ở sân bến xe đi các Tỉnh gần đầu hồi mấy dãy nhà ấp Ánh Sáng (có hai cái bàn làm trạm cứu nguy đặt tạm ở cây xăng Shell,) ngỏ hầu khai báo hoặc tường trình các sự kiện.
Trên trời, bây giờ có chiếc bà già L-19, luôn bay lượn vòng vòng. Một chiếc trực thăng đã hạ cánh xuống đồi Cù, khu vực nầy hoàn toàn bị cô lập. Mấy phi công Mỹ lúi húi tháo cục bạch kim. Hồi sáng, không hiểu sao có người nói tiếu lâm, chẳng biết họ đùa hay nói thiệt:
- Có lẽ cánh quạt của chiếc F 5 quay tít, đã chém chết một em bé chăn bò, một con bò, và làm bị thương mấy con bò gặm cỏ trên đồi Cù.
Liền có một thanh niên đốp ngay:
- Con bò chết là phải. Ðúng là? ngu như bò.
- Tại sao?
- A37 và phản lực F5 - thì không có cánh quạt.
- Vậy, F5 nó giống tàu bay giấy à?
- Ðừng "hỏi xỏ" như vậy! Nghe nè: Phản lực bay được, là nhờ có động cơ phản lực nó đẩy máy bay, nên bay lên được.
- Vậy mà tui tưởng đã gọi là máy bay, thì phải có "chong chóng" chớ.
- Ừ, thì cũng có loại máy bay như trực thăng, thì có cánh quạt trên lưng. Các loại khu trục AD6, quan sát L19... thì có cánh quạt trước mũi. Các loại khu trục AD6, quan sát L19, vận tải C47, v.v... đều xài động cơ nổ. Ðộng cơ nổ là nó dùng xy lanh (như xe hơi là động cơ nổ). Trực thăng UH1 cũng dùng động cơ phản lực, nhưng nó có cánh quạt trên lưng nữa, vì vậy có thể gọi nó là bán phản lực; nghiã là ½ phản lực.
- Ngộ quá hén! thiệt là tui... có "chong chóng mặt...? vì - do "tàu bay" mà con bò bị chết!
- Ừ... Thì con bò chết vì... ngu như bò!
Mình cũng hiểu thanh niên kia ngụ ý chưởi khéo người nọ là "ngu như bò" mà cũng bày đặt "lên lớp đôi co". Nhưng thôi, hơi đâu nghe chuyện người dưng kia, không biết mà cũng chẳng rành. Theo thiển ý của Hạnh thì có lẽ do những vật nào đó trong bộ phận của phi cơ rơi trúng, hoặc do tiếng nổ kinh hoàng gây ra tức ngực đứng tim "mà chết". May quá, hôm nay là ngày thường, nên không có những cặp tình nhân ngồi rù rì hú hí dưới gốc thông trên sân Cù. Cám ơn Trời!
Ba dãy nhà bên ấp Ánh Sáng có nhiều mái tôn bị lột sạch mái, bay đi tứ tung tá lả. Căn nhà nào còn thì mái tôn cũng cháy đen, bị cuốn cong lại. Ôi thật hãi hùng. Nặng nề nhất là dãy nhà thứ ba ở gần ven suối, đa số gia đình khu ấy còn làm nhà bằng gỗ, lợp mái tôn thiết, là bị cuốn sạch, sụp đổ hư hại nặng nề khá nhiều. Vì dãy nhà thứ ba nầy nằm ngay dưới sức ép, sức nóng của đường bay đã sà xuống thấp lúc phi cơ lướt vút qua trên mái. Có những mái nhà, vách ván, giống như miếng bánh tráng bị nướng cong phồng rộp lổm chổm, cháy đen. Những hàng cột cháy trụi, nhà bị sập, hay còn lại bức tường vách chông chênh. Trông thật ngao ngán. Chắc chắn là sẽ không ít người bị thảm nạn.
Hạnh, xem phi cơ rớt đã đời xong, cô mới sực nhớ tới chú con trai đầu lòng là bé Dzũng học giáo lý ở bên nhà thờ chính toà (cư dân địa phương thường gọi nhà thờ ?con gà?). Hạnh cố chen lấn, len lỏi, lùi ra xa, vất vã lắm cô mới tìm lối thoát ra khỏi vòng người ngoài cùng. Thế là Hạnh đâm đầu chạy một mạch về phía đường Cộng Hoà, Phan Bội Châu, phố Hòa Bình vắng như chùa bà Ðanh. Hạnh chạy ngược trên đường Thành Thái đến rạp ciné Ngọc Lan. Cô không nhớ là mình có tiền trong túi để nhảy lên xe lam, hay ngồi xe taxi đi đón con cho lẹ. Hạnh cứ cắm đầu, cắm cổ chạy một mạch xuống đường Cường Ðể, chạy lên dốc Bà Triệu, chạy trên đại lộ Yersin tới sân banh cuả Cảnh Sát, là tới nhà thờ. Hai chân bắt đầu run, cô ngồi phịch xuống trên lề cổng đá của nhà thờ, thở hổn hển. Khi bớt mệt, Hạnh vô trong nhà thờ vắng lặng chưa thấy các em học sinh, Hạnh lo lắng dáo dác nhìn quanh, thì cha phụ trách lớp giáo lý từ mái vòm hội quán đi ra báo tin lành:
- Bình yên cả. Lẽ ra, tôi cho các cháu về đúng giờ. Nhưng không hiểu sao hôm nay tôi cho học sinh về chậm mất một giờ, nên chúng thoát nạn. Những cháu nào cư ngụ ở ngoài phố, thì đi tắt về lối Lục Lộ, để qua cầu Bá Hộ Chúc, mà lên phố.
Hạnh cám ơn cha. Vô cùng tạ ơn Chúa! Lòng khấp khởi vui mừng, ngẩn ngơ. Cha phụ trách đã bỏ đi lúc nào không rõ. Hạnh vội chạy về nhà, lúc nầy cô mệt kinh khủng! Khắc khoải lo sợ mà chạy bộ cả buổi, do vừa sanh con mới non tháng, nên hai chân run rẩy, dường như cô choáng váng muốn nghẹt thở, hụt hơi, tim đập thình thịch, mệt sắp lả đi, buộc lòng cô phải đi từng bước ngắn, có khi Hạnh ngồi bừa lên lề đường, thở hổn hển nghỉ mệt thật lâu. Hạnh cố gắng lê từng bước rã rời về tới nhà. Ðồng thời, lúc đó ở ngoài sân Thiện chân thấp chân cao vô nhà, anh thở hổn hển hỏi dồn dập:
- Em ơi! Các con về nhà chưa?
Hạnh quá mệt không thể thốt nên lời,cô chỉ nhìn anh gật gật đầu.
Dzũng, con trai lớn (thay cho mẹ) nhanh nhẹn đáp lời ba:
- Dạ! Các con về nhà hết cả rồi. Ba yên tâm.
Ðông đủ cả nhà mừng rỡ vô cùng. Không ngờ các con biết tìm lối về, khôn ngoan đến thế! Vậy mà, Hạnh quá run sợ lo lắng cho các con sẽ có bề gì... Hay bị kẹp cứng giữa làn sóng người đông đúc. Các con dưới chín tuổi, nếu không bị kẹp cứng trong đám đông người hơn kiến, thì con sẽ bị nghẹt thở, bị người to lớn dềnh dàng xô đẩy, dẫm đạp lên đầu lên cổ, tất bẹp dúm ra! chết là cái chắc. Tạ ơn Chúa! Hạnh thấy bé Dzũng ngồi trên giường toe toét cười, con kể lại chuyện đi về nhà cho bà nội, và mấy đứa em nó nghe:
- Học và tập dợt xong. Ðáng lẽ là cháu về rồi. Nhưng cha phụ trách gọi các cháu ở lại, cho tụi cháu ăn bánh và uống nước ngọt. May quá! Nếu cha không kêu tụi cháu ở lại, thì đúng lúc đó là cháu đã đi về tới ngang cầu ông Ðạo rồi.
Hạnh mừng rỡ đến ứa nước mắt, dịu dàng hỏi con trai:
- Sao con về nhà an toàn được vậy?
- Dạ, tụi con đứng ngoài sân nhà thờ, thì thấy có ngọn lửa đỏ rực toả xịt từ trên trời bay ra, rồi khói mù mịt kéo dài từ hướng Cam Ly chạy tới hướng bờ hồ, cả tiếng động gầm rú, quái lạ từ trên trời nghe rất điếc tai. Cha biểu tụi con lủi chạy vô núp dưới căn hầm nhà thờ, nằm xuống nền nhà ngay. Nhưng tụi con chỉ kịp chạy vô tới ngang cửa căn hầm, là nghe mấy tiếng nổ to lắm. Nhà thờ rung rinh quá sá, cửa kính bể hết ráo. Tụi con nằm im một hồi lâu không nghe gì nữa, thì cha cho tụi con đi về nhà gấp. Con đi xuống khu Lục Lộ về phiá cầu Bá-hộ Chúc, vì bị cấm không cho đi qua cầu ông Ðạo. Con khóc rống lên vì sợ quá.
Bé Tuấn cũng góp chuyện:
- Con ngồi viết bài trong lớp (trường Ðoàn Thị Ðiểm). Nghe ầm ầm, tiếng động điếc tai, nổ to lắm. Trong lớp con rớt cái la phông và bảng đen, cửa kính bể hết. Bụi đất, gạch cát bay rào rào trên đầu tụi con. Thầy Tu nói tụi con chui vô gầm bàn, nằm úp mặt xuống đất, hai tay lấy cặp bưng đầu, tụi con nằm như vậy lâu lắm. Thầy đi đâu đó, rồi trở vô lớp, thầy nói ?bị rớt máy bay ở bờ hồ?. Cả lớp chạy ra đứng trên sân rạp ciné Ngọc Lan coi. Ðông lắm.
***
Xế chiều có tin ban đầu cho hay: Những người bị lâm nạn ở trên dọc hai bên bờ hồ, trên cầu Ông Ðạo là do bị sức gió của phi cơ F 5 thần tốc ào ào cuốn mạnh, hút họ và quăng họ xuống hồ mất tiêu, ba cặp trai gái ngồi tâm tình bên gốc cây bách tùng. Sáu người bán dạo: Cà rem, kẹo kéo, bánh bò, khô mực, hột vịt lộn, vé số Kiến-thiết Quốc-gia. Bốn người ngồi câu cá rải rác ven mé hồ, gần nhà hàng Thanh Thủy, hoặc mé góc cầu Ông Ðạo. Những người đi tản bộ, người ngồi xe lam, đi honda, xe đạp trên cầu Ông Ðạo, những ai đi chung quanh khu vực hồ. Vài nguồn tin không hiểu có chính xác chăng, thế nầy:
* Tin thứ nhứt: Anh phi công lái phi cơ F 5 từ Sài Gòn lên vùng Cao Nguyên làm nhiệm vụ xong, phi cơ bị trục trặc kỹ thuật, không thể quay về Sài Gòn, chẳng may phi cơ lao rất mau từ hướng phi trường Cam Ly, vụt đâm đầu xuống hồ Xuân Hương?!
* Tin thứ nhì: Một sĩ quan pilot Việt Nam tên Toàn, có hôn thê ở ngay ấp Ánh Sáng, độ tháng nữa là họ làm đám cưới. Anh ta đi làm nhiệm vụ trên vùng cao nguyên xong, anh bay lượn mấy vòng tại ?khu nhà em? dợt lẻ Chẳng may anh bay thấp, đà lướt quá trớn, nên phi cơ đâm đầu xuống đất?
Cô Minh có nhà ở dãy nhà thứ nhứt của ấp Ánh Sáng đã kể:
- Lúc đó, tôi phơi quần áo trước sân nhà, bỗng nghe những tiếng động vô cùng điếc tai, ào ào, gầm rú, gió cuồn cuộn bốc rác rưới bay thốc lên cao. Rồi một sức nóng kinh khủng, nóng tột độ từ trên trời phủ chụp xuống đầu rất mau. Kèm theo những khối lửa đỏ lòm, khói đen nghịt dài dài thành một đường từ hướng Cam Ly chạy về. Theo đà lướt rất sát của phi cơ, tôi bị xô chúi nhủi, nằm sấp, đập mặt xuống nền xi măng. Tôi cứ tưởng trời long đất lở. Tôi bị tức ngực, điếc tai, chảy máu đầu, đau đầu ghê lắm.
Bên kia lối Thuỷ Tạ có một chiếc trực thăng vừa đáp xuống bãi cỏ. Họ thả mấy người nhái ra, đồng thời xe GMC kéo mấy chiếc thuyền con tới. Cuộc tập trung mò kiếm chớp nhoáng bắt đầu. Hầu như tất cả người dân dự-kiến đều ngồi bất động xếp lớp chung quanh vòng bờ hồ đen nghịt. Mặt mày ai nấy đều tỏ lộ nét lo sợ buồn bã mà hiếu kỳ. Mấy ?ngư ông? bắt đầu lên thuyền bằng mái chèo gỗ đi thật nhẹ, chậm chạp. Hạnh nghĩ họ không dùng thuyền máy, vì sợ máy nổ sẽ khua động sóng to, không vớt được những miếng thịt rữa nát ra chăng? Bốn anh thợ lặn đồ nghề đeo đựng đầy người nhảy ùm xuống hồ nước lạnh giá và hôi thối đất bùn. ?Ngư thuyền? cầm cái vợt lưới to rộng vành có cây cán sắt khá dài. Một người khoan thai khua nhẹ mái chèo, một người khác cầm cây vợt lưới tìm vớt những miếng thịt vụn, những thứ vật lạ lềnh bềnh trôi, vân vân...
Ðứng trên bờ, người ta có thể nhìn thấy bèo, lục bình bồng bềnh trên mặt nước ao tù, năm bảy miếng thịt vụn dính mỡ có từng chùm cỏ trôi đi trôi về, trôi vòng vòng loanh quanh gần trong mé bờ. Lập tức, người đứng sát ven bờ hồ la hét chỉ chỏ cho người trên ghe xem, họ đồng loạt bụm hai tay vô miệng, làm loa kêu to, ngoắt, vẫy tay lia lịa, cho bác ?ngư thuyền? thấy, mà bơi đến ?vớt cái xác vụn? tẻo teo kia lên. Họ ?lượm được? thứ gì của ?cố nhân?, họ liền bỏ vô bọc ni lông đựng trong mấy chiếc thau nhôm to. Họ từ từ chèo ghe vô mé bờ hồ, (phía gần nhà hàng Thanh Thủy). Trong khi đó, những thân nhân của người lâm nạn, nằm vật vã trên các gốc bách tùng, các bãi cỏ, họ gào khóc thảm thiết vô cùng. Họ chẳng cần biết những cái bọc ni lông đó là thịt bầy nhầy của bà con thân nhân của họ, hoặc là của ai!? Cứ thế, họ ôm những bọc ny lông kia, mà vật vã gào khóc dữ dội rất buồn thảm.
Ngay tức khắc, xe thông tin bắt loa phóng thanh chạy cùng khắp đọc thông báo: ông Tỉnh Thị Trưởng Ðà Lạt ra lệnh cấm:
- Cư dân không được dùng nước máy ở khu vực hồ Xuân Hương. Nhà máy nầy đóng cửa. Nhà máy nước Suối Vàng, hồ Than Thở, sẽ cung cấp nước cho toàn dân thành phố Ðà Lạt.
Hạnh cúi đầu thầm thỉ:
- Thưa ông Tỉnh Thị Trưởng ơi! Thấy cảnh tang thương, rùng rợn kinh khủng kia, người dân Ðà Lạt hiền lành đã sợ mất hồn mất vía, kinh thiên động địa, hồn xiêu phách tán rồi. Họ không lăn đùng ra dãy đành đạch mà chết bất đắc kỳ tử, là may thì thôi. Có mô dám ăn uống cái thứ nước bùn sền sệt, hôi tanh pha lẫn thịt thà, máu huyết không thể chịu nỗi chớ!
* * *
Tai nạn thương tâm đó đã xảy ra hơn một tuần rồi. Ấy thế mà mặt hồ luôn luôn sôi bọt bong bóng. Bọt bong bóng cứ hết bể bụp cái nầy, lại nổi lên đợt bong bóng khác, sủi bóng sì sụt hoài. Lúc nầy người hiếu kỳ đến xem thưa thớt dần dần. Họ chỉ tập trung vào mỗi buổi chiều nhàn hạ, khi mặt trời chưa gác núi. Riêng Hạnh dạy học mỗi ngày đều dẫn hai con trai đi ngang qua bờ hồ để tới trường. Chung quanh khu vực nầy bắt đầu có mùi hôi tanh thoảng lại rất khó chịu. Mẹ con cô luôn chứng kiến những cảnh thật đau lòng, thương tâm vô cùng, không thể nào cầm lòng mà âm thầm rơi lệ. Hạnh thấy những thân nhân (của người bị nạn) cùng nhau tụ họp lại ở ngay góc bờ hồ, phía bên đầu cầu Ông Ðạo khu vô chợ Mới (mấy cây Tùng, gần quán Hạnh Tâm). Mở đàn cúng cầu siêu suốt tuần, họ đặt những hàng quách dài, mỗi quách độ bốn tấc để ở thảm cỏ sát ven đường, từ những quách nho nhỏ, họ đắp tạm nhiều bậc cấp bằng đất có trải tấm vải trắng dài thật dài (làm thành con đường từ ven bờ nước mà nối liền với những cái quách. ?Con đường vải lê thê tơ lụa khăn sô trắng? nầy tạo thành chiếc cầu giao cảm linh thiêng, ngỏ hầu chiêu hồn, kêu gọi những vong linh vô trong quách an nghỉ). Thầy cúng đến lập bàn thờ cúng vái suốt mười ngày đêm, khói hương nhang trầm nghi ngút. Thân nhân khóc than não nuột, tiếng khóc than rên siết không lúc nào ngưng bay lên trời cao. Thảm thiết lắm. Mủi lòng đau đớn vô cùng!
Sau mười ngày tụng niệm, một buổi sáng tinh sương khi đi ngang qua mé hồ, Hạnh chứng kiến họ cuốn tròn tấm vải ở dưới nước lên ven bờ hồ, để đó, thầy tu cúng xong, hai chú tiểu nghiêm trang tiếp tục cuốn từng tấm vải chậm rãi dần dần cuốn tới cái quách. Cuốn tấm vải của cái quách nào xong, thì họ bỏ hẳn tấm khăn vải trắng ấy vô trong quách đó, chỉnh tề, ngay ngắn. Mỗi lần cuốn cổ quách nào, thì có hai thầy cúng đứng hai bên tụng kinh. Thân nhân bò lết dưới đất vật vã, khóc rống lên. Thảm thiết vô cùng. Sau hết, thầy cúng cho người đóng kín cổ quách lại. Chở đi. Mặc dù người ta đi xem cuộc chiêu hồn đông vô số kể, nhưng mọi người im lặng cúi đầu quệt nước mắt xót thương. Ðó là chút tình ?tứ hải giai huynh đệ. Máu chảy ruột mềm. Thương người như thể thương thân. Bầu ơi! Thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn?! Là vậy.
Mặt hồ Xuân Hương suốt mấy tháng qua vẫn sủi tăm, bồng bềnh những bèo bọt bong bóng nhớp nhúa. Bùn đất tráng lên mặt nước đen ngòm rờn rợn luôn thoảng mùi hôi thối, tanh rình, thúi kỳ lạ. Dầu, mỡ, xăng nhớt, cứ đọng lại từng khóm, ánh lên long lanh từng vệt loang dưới mặt trời đỏ chói trong lòng hồ. Không có cách gì tẩy uế hết. Thật ngao ngán quá chừng. Dù mỗi ngày, chuyên viên tháo gỡ phi cơ lặn xuống hồ tìm kiếm... đôi khi họ tha xương cốt thịt thúi lên từng ít một. Không ngày nào đi ngang qua khu vực cầu ông Ðạo, Hạnh không khỏi bùi ngùi cảm động, xót xả dù không muốn, cô vẫn vô tình nhỏ lệ, khóc sưng đỏ hai con mắt mà xót thương người dưng.
Cuối cùng trước mùa mưa, ông giám đốc nhà máy thủy điện phải mở những ngăn cửa đập ở dưới chân cầu ông Ðạo, xổ hết nước trong hồ Xuân Hương cho nước chảy qua cầu Bá hộ Chúc. Con suối nhỏ uốn lượn chảy men đường phố Cường Ðể, rồi chảy tới thác Cam Ly, lẫn khuất trong rừng sâu. Hồ Xuân Hương đã lồ lộ ra chiếc phi cơ méo mó nhăn nhúm như trái táo khô, cụt lủn, mất đầu mất cánh, chỉ còn giơ ra khung sườn, mấy bánh xe trông vô cùng dị hợm khó coi! vô duyên xấu xí hết chỗ nói. Lòng hồ Xuân Hương trơ trẽn hắc ám phơi ra giữa lộ thiên, giơ đầy sự bẩn thỉu lên trời. Ðáy hồ lổm chổm đụn rác rưởi ô tạp. Cỏ lác, cỏ năn, quyện chặt với xe đạp, vỏ xe hơi, xe honda. Rải rác xác xương súc vật. Tôm búng mình nhảy tưng tưng trên bùn sền sệt, ếch, nhái, cóc, lươn, cá lóc, cá trê, cá lớn cá bé phóng mình giãy giụa, đập đuôi bành bạch lủi thật mau trong sình lầy đặc quánh.
Dạo trước, ai ai cũng chỉ thấy bề mặt của hồ Xuân Hương duyên dáng, thơ mộng, tuyệt diễm, quyến rũ, tràn lan thi vị thơ mộng là thế. Nhưng không ai trông thấy bề sâu của lòng hồ. Nay, hồ Xuân Hương đã khác hẳn cách nhìn... và Hạnh nữa, cô thường tư lự ngước mắt lên không trung: để ươm mộng vàng, dõi mắt qua vạn sơn lâm tìm bóng chim bằng rong nghìn núi, hoặc toả rung ngàn nốt nhạc... mà mơ về dáng anh phi công nàỏ ở phương trời xa xôi lắm (!!!)
(Phần I)
Bãi biển Cửa Ðại nắng tràn lên nước xanh cát trắng, gió rạt rào qua hàng dừa ruồng lay tàng lá. Trên khu bãi biển công cọng rãi rác những thuyền đánh cá nằm sấp ngửa trên cát, mắt thuyền đỏ đen loang lổ vết sơn, đăm chiêu nhìn đám người vui nhộn nô đùa với sóng nước. Xa xa về phía cửa biển, dãy tàng dù lợp lá dừa sắp lô nhô dọc theo bãi tắm riêng của chuổi khách sạn sang trọng.
Dưới một quán lều cuối bãi, người đàn ông đứng tuổi ngồi nhâm nhi chai bia lạnh, dõi mắt về khúc đường tiếp giáp bãi biển, lố nhố đám chạy xe ôm đứng ngồi trên những chiếc xe gắn máy câu cơm cũ rích. Suốt buổi sáng, sau khi từ giã vợ được cô em đưa đi thăm Phố Cổ, ông tìm ra Ðế Võng thuê bao một ca-nô nhỏ bảo chạy theo tuyến sông ngày trước ông thường dẫn giang đĩnh đi tuần dọc nhánh sông Ô Lâu, Trường Giang. Trời nước vẫn xanh, rừng cây bên bờ vẫn trùng điệp một màu xưa thế mà lòng ông giục tràn kỷ niệm. Nỗi xúc động trở về, ấm áp vòng tay ôm thân tình, tròn kín hết trắc trở chia lìa của bao cảnh đời.
Chừng quá nửa đường sông từ Chợ Ðược về lại Thuận Tình, cô em vợ gọi cho hay có người vừa đến trường dạy Anh văn của nàng nhắn sẽ cùng vài người lính cũ trong giang đoàn muốn gặp thăm người sĩ quan chỉ huy của họ ở bãi biển Cửa Ðại.
Cảm giác hồi hộp xúc động lại tràn ngập lòng ông lúc ca-nô ôm vòng cù lao rẽ vào nhánh sông Ðế Võng. Cảnh xưa không còn. Bãi lưới cuối sông hoang sơ hàng dừa xanh lã ngọn năm nào giờ là một phần của khu du lịch ?sinh tháỉ Thuận Tình. Phía cù lao, cánh rừng dừa nước hoang dã đầy nguy hiểm rình rập của thời chiến tranh giờ đây là những mái nhà sàn bằng tre nhấp nhô ẩn hiện giữa lá dừa xanh đong đưa đón làn gió biển thổi về. Ca-nô chạy theo dòng sông uốn lượn như lòng anh cũng nhấp nhô con sóng kỷ niệm vỗ bờ.
Con bé gái bán hàng rong rụt rè đến đứng bên bàn khiến ông sực tỉnh dòng suy nghĩ. Ðứa bé kiên nhẩn sắp mấy gói đậu phụng rang trên bàn dù chưa hề được ông khách Việt kiều đụng tay tới.
- Ông Hai ăn giùm. Ðậu phụng rang Tam Kỳ ngon lắm. Cháu bảo đảm, ông Hai ăn mà bị đau bụng, cháu nuôi thuốc.
Người đàn ông bật cười nghe câu quảng cáo mời mọc của đứa bé có lẽ chưa quá mười hai tuổi. Con bé chợt ngưng nói, mắt nhìn vói qua vai ông khách.
- Hình như ông Hai có bạn tới kìa.
Ông ngoái nhìn nhóm bạn đi cùng Ðức, người lính cũ ông đã gặp hôm trước, đang đẩy một người ngồi trên xe lăn về phía quán. Anh trao cho con bé một nắm tiền.
- Cháu xem chừng này tiền mua được bao nhiêu thì bán.
Cô bé hối hả đếm rồi cuống quít trút hết đậu phụng rang lên bàn, miệng rối rít cảm ơn số tiền lời trên tay nhiều hơn cả tuần vất vã rao mời .
Nhóm lính cũ gặp nhau tay bắt mặt mừng. Người đàn ông ngăn lại lúc Ðức định mở lời giới thiệu ba người đàn ông khắc khổ phong trần vừa quây quần ngồi xuống.
- Khoan đã. Chú mày để tôi thử lại trí nhớ mình xem sao.
Người lính gầy còm ngồi trên xe lăn, ống quần màu xanh nước biển phơ phất rách bươm. Anh móm mém cười, đón chai bia từ tay người chỉ huy ngày trước.
- Ông thầy thế nào cũng nhớ ra mà. Thằng Ðức giỏi thiệt! Không hẹn mà hắn gom được cả bốn thằng em đều là thuyền trưởng chuyến tuần tiểu đầu tiên ngày Trung úy Dõng từ Ðồng Tháp Mười thuyên chuyển về giang đoàn.
Dõng sửng nhìn những luống hằn cơ cực trên khuôn mặt người còm cỏi. Dòng sông Ô Lâu lóe lên trong trí nhớ, hung hãn đoàn tàu phun sóng ầm ầm tiếng cuồng nộ chiến tranh. Làm sao mà quên được mối thân tình chiến hữu, những khuôn mặt đã một thời cùng nhau bước qua trận mạc điêu linh. Dõng thân mật gọi tên từng người lính cũ, ân cần vỗ vai anh bạn phế binh. Anh nhét vào túi áo mỗi người một bao thư đã chuẩn bị trước.
- Chút chuyện lẻ tẻ này mình làm lẹ cho xong rồi lai rai ngồi tán chuyện đời.
Ðức móc bao thư để trên bàn, từ chối.
- Thằng em đã có phần Ông Thầy cho hôm trước rồi.
Anh trãi tờ đô-la lên mặt bàn, cười nhìn mọi người.
- Nhưng ngu sao mà trả lạỉ Tờ này dư sức bao sân ba bốn chầu nữa. Hay là để thằng em lấy của làng làm ơn ông xã chuyến này. Còn lại mình chia đều, thay phiên làm chủ xị mấy bửa nhậu tới.
Mọi người cười vang, hào hứng cụng ly. Kỳ, người thuyền trưởng cụt chân, nốc cạn ly bia, sảng khoái kể lại kỷ niệm chẳng hề quên lần đi tuần đầu tiên với người sĩ quan tân đáo trẻ tuổi.
- Cả tuần trước đó, nghe ông Hoát quảng cáo giang đoàn sắp có một sĩ quan Tuần thám rất ngầu từ Ðồng Tháp Mười về, tụi này đứa nào cũng muốn biết ông chịu chơi tới cở nào. Hôm đó Ông Thầy dẫn tàu về phía Ô Lâu chớ không phải mé Trường Giang như tuyến tuần tiểu thường lệ của các sĩ quan khác làm bọn này lo thầm trong bụng vì nhánh sông này vắng vẻ, không tàu đò qua lại và rất nguy hiểm.
- Ngầu ngiếc gì! Bị thương lủng bụng, sau ba lần hăm chín ngày tái khám không được giải ngũ nên xin thuyên chuyển về gần nhà cưới vợ vậy thôi.
Kỳ nhìn hai bạn ngồi cạnh Ðức.
- Long, Hiệp, tụi mày còn nhớ không? Thằng Ðức chạy trước, Ông Thầy cầm ống dòm, ôm máy truyền tin ngồi trên mui chiếc tao, hai đứa bây đoạn hậu. Ðoàn tàu chạy giữ đúng đội hình, xạ thủ trong tư thế sẳn sàng tác chiến nhìn rất đẹp mắt làm tao thấy khoái quá. Thường thì chỉ ủi bãi, xét tàu đò riết cũng chán.
Hiệp gật đầu cười khoái trá.
- Nhớ lại lúc Ông Thầy xuống tàu lầm lì ra lệnh phải lên máy truyền tin một trăm phần trăm và áo giáp nón sắt sẳn sàng, báo hại phải mò xuống hầm tàu kiếm cả buổi mới ra.
- Ðoàn tàu chạy ngược sông Ô Lâu khá lâu, tre dọc bờ sông dày kín thăm thẳm làm tui dẩn đầu bắt đầu thấy ơn ớn. Vừa lúc đó Ông Thầy chợt cho lệnh chuẩn bị tác xạ. Bốn chiếc giang đĩnh theo lệnh cùng lúc bẻ lái 90 độ về phía bờ trái, xả hết tốc độ lao thẳng vào bờ sông, các họng súng thi nhau bắn xối xả vào mục tiêu là một bến tắm ẩn hiện dưới vòm tre.
Ngồi nghe câu chuyện kể Dõng chừng như sống lại buổi trưa hè năm đó.
- Lúc quan sát dọc theo bờ sông, trong ống dòm chợt hiện ra một người đàn ông nước da trắng bệu đang ngồi tắm dưới vòm tre rủ sa gần mặt nước. Tin vào trực giác mình, tôi gọi máy về phòng hành quân báo tọa độ, xin lệnh cho đoàn tàu khai hỏa tấn công ngay. Tàu anh Kỳ và Long ủi bãi, tìm kiếm chỉ thấy dấu máu và khẩu súng ngắn K54 quấn trong chiếc áo kaki Nam Ðịnh bên bờ nước.
Ðức nháy mắt cười, nhìn quanh thấp giọng.
- Nếu thằng chả còn sống biết đâu hiện giờ là bí thư, bí thiếc gì đó đâu đây.
Câu nói nửa đùa nửa thật như rơi vào nỗi im lặng buồn buồn. Dõng chép miệng.
- Thôi thì cái thời chinh chiến máu me đó đã qua rồi. Chuyện đời biết thế nào là vinh nhục, nhục vinh. Lang bạt, điêu linh, sống còn rồi gặp nhau như thế này là hạnh ngộ lớn lao chẳng dể gì có được.
Dõng rót bia cho Kỳ, bọt bia trào trắng ràn rụa lên bàn tay đen đủi gầy guộc của người phế binh.
- Tôi nghĩ hoài không ra. Cho đến cuối tháng Ba bảy lăm, tôi nhớ chú mày vẫn nguyên vẹn không thương tích gì. Tai nạn xảy ra lúc nào vậy?
Kỳ ngửa cổ uống cạn ly bia, anh thở dài mắt vẫn ngước nhìn trời không muốn để những người bạn lính thấy giọt nước mắt vừa ứa ra.
Ðức đở lời, kể chuyện đời bạn không may những năm sau bảy lăm.
- Kỳ là dân Ðà Nẳng. Cuối tháng Ba lúc đơn vị tan hàng, anh ở lại với vợ và gia đình không theo tàu di tản vào Vũng Tàu. Hạ sĩ quan không bị tập trung lao động, nhưng ở nhà cũng quá cha cải tạo. Kỳ bị tai nạn phải cưa chân vì đạp lựu đạn trong lúc bị tập trung đi gở mìn ở Hòa Cầm, gần phi trường Ðà Nẳng.
Người phế binh lắc đầu cay đắng.
- Ông Thầy nghĩ coi. Ai đời đi gở mìn mà mổi người chỉ được phát cho một que sắt và cái xẻng. Mỗi sáng bới gô cơm độn, bi-đông nước, đội chiếc nón cời lên đầu bước ra khỏi nhà. Riết rồi thành thói quen lúc nào không hay. Cái thói quen buồn bã ngoái nhìn căn nhà, vợ con vào mỗi buổi sáng để lở lần trở về vào buổi chiều không bao giờ đến. Vậy mà những ngày, những tháng rất lâu sau khi chân bị cưa cụt, nhiều lần thằng em đã tiếc rẻ sao mình không được chết đi vào lúc đó. Thân xác văng lên tan tành, biến vào đất bụi, không còn chi.
Kỳ rót tràn cho mình ly nước đắng. Anh mỉm cười.
- May nhờ có gia đình, vợ con đùm bọc thương yêu nhau. Ðời người rồi cũng qua khi mình không suy nghĩ gì thêm. Kỳ chỉ tay về phía hai người bạn ngồi đối diện? Trong đám chỉ có thằng Long, thằng Hiệp tử vi chấm ?thân cư thể nên sống nhàn.
- Nhàn theo nghĩa nào? Không có chi làm hay không làm được chi?
Hiệp vỗ vai Long.
- Theo kiểu chủ nghĩa ?xả hơỉ. Bó tay. Không làm chi được. Ông Thầy biết không? Hai thằng em, đứa Ðà Nẳng, đứa Vĩnh Ðiện, hơn hai chục năm ni đều làm chung một nghề là chở vợ đi buôn. Sáng chở vợ ra chợ, phụ dọn hàng, chiều dọn vô. Giữa ngày thì canh me mấy thằng công an kinh tế. Phải thấm nhuần triết lý ?bó taỷ thì mới an thân sống được qua ngày.
- Thằng Long mới đúng là thân-cư-thê thứ thiệt. Dân Mỹ Tho, sau bảy lăm ẩn cư quê vợ ở Ðà Nẳng không về Nam. Ðức châm bia cho Dõng? Ông Thầy có biết ông Khiết ? Hình như đã thuyên chuyển đi hạm đội tuần dương trước khi Ông Thầy về giang đoàn. Thằng Long là em họ của ông Khiết.
- Vậy sao!? Khiết, người hùng trận hải chiến Hoàng Sa với Trung Cọng đó mà. Tôi có gặp ở Sài Gòn lúc nằm chờ phương tiện ra Hội An. Anh chàng lúc đó đeo lon đặc cách mới toanh. Sau bảy lăm Khiết không đi Mỹ, cũng không đi HO, không biết bây giờ ở đâu.
- Ảnh về dưới quê, sống ở Bến Tre đã nhiều năm nay. Ðời người có những bước ngoặc, ngã rẻ thiệt khó mà ngờ.
Long trầm ngâm nhìn ly bia sóng sánh màu hổ phách, nghĩ tới người anh họ đã lâu rồi không gặp.
Binh nghiệp thăng tiến, Khiết cưới vợ đẹp, sống những ngày hạnh phúc mỗi khi chiến hạm về nghĩ bến Sài Gòn. Chưa bao lâu sau thì miền Nam sụp đổ. Khiết bị đi cải tạo tận ngoài Bắc. Thân phụ Khiết đã đùm gói tiền vàng ra Bắc, ông thành công trong việc hối lộ cho Khiết được nhanh
chóng chuyển vào trại ở miền Nam chờ ngày thả. Người vợ trẻ quen với nhàn hạ nuông chìu, sống một mình ở Sài Gòn giữa những ngày bao cấp đầy khó khăn, lung lạc. Cuộc sống trên trước dể thở, không phải đi công tác thủy lợi, lao động xã hội chủ nghĩa đã có cái giá riêng phải trả. Chuyện vợ Khiết đi lại luyến ái với người trưởng công an phường là một bí mật công khai mà chòm xóm chẳng ai muốn tìm hiểu. Sự dễ dàng trong cuộc sống đã phân bua giúp nàng cúi đầu đi tới. Vợ Khiết chưa hề tìm thăm chồng thời gian Khiết cải tạo ở miền Bắc, nhưng gã công an đã chu đáo thu xếp để nàng một lần thăm riêng chồng qua đêm ở trại cải tạo khi về Nam. Bảy tháng sau vợ Khiết sinh con gái đầu lòng. Một ngày cuối năm sau gần ba năm tù, Khiết được ra trại trở về. Tủi hổ, đắng cay anh rưng nước mắt xót xa nhìn đứa bé gái trên tay vợ. Nhà đó, vợ đó, con chính thức trên giấy tờ đó, thế mà chàng đã mất tất cả. Khiết bỏ nhà, bỏ Sài Gòn về dưới quê ở Mỹ Tho sống cuộc đời thầm lặng.
Nghe câu chuyện buồn, ai nấy đều lắc đầu thở dài. Ðức chép miệng.
- Ông thầy này đúng là đại đồ đệ của triết lý ?bó taỷ. Nghe rầu quá. Ông Thầy kể chuyện bên Mỹ nghe, chắc vui hơn. Ông trưởng, ông phó, ông Hoát, ông Ðức? mấy ông thầy đó bây giờ ra sao?
Mọi người chăm chú lắng nghe Dõng kể chuyện vui, chuyện buồn của những sĩ quan giang đoàn ngày trước.
- Cuộc sống bên Mỹ có thể nói là an cư nên chuyện bất trắc ít xảy đến hơn. Ít ra là không phải lo toan nhiều về đời sống vật chất. Nhưng hạnh phúc, khổ đau thì ở đâu cũng vậy khi nói về cuộc đời, phần số nơi mỗi con người. Hai ông xếp lớn, đời tình duyên cũng lận đận không thua gì Khiết.
Long gỏ muỗng lên ly bia cạn, xuống xề cải lương câu hát của Lam Phương ?Anh đã lầm đưa em sang đâỷ?
- Hoát hi sinh đời cha lấy đời con, cưới cô vợ Mỹ cao ráo. Vợ chồng sống hạnh phúc, có cô con gái rượu dáng dấp giống bố như khuôn đúc.
- Có phải ý Ông Thầy là nòng dài ngắn không tính, đã là đạn mã tử thì không thể nào cao hơn đạn thường được.
Hiệp châm câu nói đùa khiến cả bàn thấm ý cười ầm.
- Ðó là ý của chú mày chớ không phải của tôi. Hoát mà nghe được nó xách vợt tennis rượt cho mà chạy có cờ. Còn ông Ðức thì nếu dùng sự ghen tương của vợ để làm thước đo tình yêu thì Ðức là người rất khổ sở vì ?bị? yêu. Bạn bè thỉnh thoảng gặp nhau, kể chuyện đời xưa như bây giờ tụi mình ngồi lại với nhau, tri kỷ thấm thía.
Năm thầy trò say sưa trò chuyện quên cả buổi chiều sắp hết cho tới khi Kỳ và Long sực nghĩ tới chuyến xe đò mấy chục cây số về lại Ðà Nẳng. Ðức trả tiền xong trở về bàn, anh ngồi xuống thấp giọng.
- Bà chủ quán vừa lén cho hay tụi công an mặc thường phục ngồi trong quán nảy giờ. Một đứa còn ngồi ở góc quán bên kia, thằng kia chắc đi gọi công an áo vàng tới để hỏi giấy tụi mình.
Kỳ nhìn về phía bãi biển tiếp giáp với đường lớn, gật đầu xác nhận. Dõng vội gọi di động cho Nữ, cô em vợ, báo qua tình hình và dặn hai chị em cứ ra thẳng Phước Trạch nếu anh về trễ. Nhìn nét mặt lo lắng của nhóm bạn lính cũ, anh mỉm cười trấn an họ.
- Bửa nay mình gặp nhau vui quá. Tôi về chuyến này gấp gáp chuyện mồ mả không có thì giờ nhiều. Hi vọng lần tới, mình thu xếp được ngày giờ cùng nhau đi chơi đâu đó thì hay lắm.
Năm công an nón cối, áo vàng bước nhanh vào quán. Bốn người tản ra canh chừng, trong lúc người công an đeo quân hàm sĩ quan tiến gần đến bàn của Dõng.
- Chúng tôi được báo cáo lính ngụy các anh tụ họp kháo chuyện phản động ở đây suốt mấy giờ qua.
- Báo cáo ông nhận được như vậy là không chính xác. Tôi có thông hành, hộ chiếu về Việt Nam để lo việc cải táng mẹ. Công việc xong, có chút thì giờ rãnh nên muốn thăm lại bạn bè cũ đã nhiều năm không gặp. Ðây là bãi biển, quán ăn đang mở cửa, tôi muốn ngồi bao lâu thì tùy tôi.
Viên công an gằn giọng.
- Anh không được lý luận ngoan cố. Chúng tôi đưa anh về trụ sở, lãnh đạo sẽ xử lý anh sau.
Họ nhẩn nha xem xét giấy tờ, chứng minh nhân dân của bốn người bạn lính. Dõng thở phào nhẹ lòng lúc thấy họ trả lại giấy tờ cho mỗi người sau khi dọa nạt phải giải tán về nhà. Anh luôn miệng trấn an mỗi người lúc lần lượt bắt tay chào từ giã.
Cả nhóm đứng quanh chiếc xe lăn. Kỳ ốm o, nấn ná với bạn chờ phía ngoài quán cho tới khi gã công an ra chỉa súng xua đuổi mấy lần mới chịu dắt díu nhau đi. Dõng nhìn theo bóng dáng lầm lủi, tội nghiệp của những người lính. Phút giây ngắn ngủi phiền hà anh đang trãi qua, họ đã sống như thế cả nửa đời người, canh cánh thường trực.
Còn tiếp 1 kỳ
1/-
Tôi nói ngừng viết về Vũ Hán coronavirus để giảm stress, mà không thể !
Bởi chàng đã chiếm lĩnh tâm hồn tôi , trái tim tôi , trí óc tôi cả ngày lẫn đêm từ hơn hai tháng nay. Sao mà tôi có thể bứt rời chàng trong tích tắc ?
Lúc khởi đầu thì chỉ thoáng chợt phút giây bóng mây y như lời bài hát Speak softly Love do Williams Andy trình bày, được nhạc sĩ Trường Kỳ dịch lời Việt mà vào những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ 20 chúng tôi thường nỉ non tha thiết hát, nhất là vào những đêm thức trắng để gạo bài thi mệt mỏi :
Tình như thoáng mây tình đến cùng ta âm thầm không ngờ
Tình như cánh hoa tình chiếm hồn ta đâu ngờ là tình
Tình như mưa gió thoảng vào trong tim
Tình như cánh chim bay đến trong ta sao nghe bồi hồỉ
( Thú Ðau Thương )
*Tôi mạn phép gia đình cố nhạc sĩ Trường Kỳ đã mượn lời phổ nhạc cho câu chuyện bi hài này.
Bồi hồi thật . Một coup de foudre thật sự !
Niềm vui sống tôi được tung tăng bơi lội, được lang thang dạo ngắm cây cỏ lá hoa trở mình đâm chồi nẩy lộc, được leo lên những con đường dốc ngắm dãy Alpes ngọn phủ tuyết băng vạn niên hùng vĩ, được gặp gỡ tán dóc ăn uống với bạn bè ? cũng vì chàng mà dừng lại.
Vì tôi sợ. Lỡ những lúc ấy, vô tình chàng đi ngang qua chạm khẽ vào đời tôi trong hành trình săn mồi thì trái tim tôi sẽ tan nát , đầu óc tôi sẽ quay cuồng điên đảo, buồng phổi tôi sẽ đau đớn đến không còn thở nổi.
Mà chàng thì đâu đếm xỉa gì đến tôi. Chàng chỉ muốn ?mồi chài , quyến rũ?với hàng hàng lớp lớp triệu sinh linh , để cho họ thẩn thờ choáng váng vì chàng rồi tiếp tục bay đi tìm ?con mồỉ khác trong lạnh lùng, hờ hững chớ chàng có để mắt đến một ai.
Lúc đầu tôi biết chàng là qua vài dòng tin trên báo, tôi không để ý lắm vì đầu óc còn bận việc khác, chẳng hạn chuẩn bị sắm sửa cho chuyến du hành xuyên lục địa lẫn đại dương, thu xếp gởi gắm nhà cửa nhờ bạn chăm sóc nhận thư từ giùm trong thời gian vắng mặt ?v..v? Gặp gia đình người thân mới quan trọng hơn các ảo-hình khác.
Nhưng rồi báo chí, truyền hình, radio, cộng đồng mạng xã hội nhắc đến chàng mỗi ngày mỗi tăng. Tôi và nhiều người bắt đầu ?để ý? tới chàng. Bàn tán. Vẫn chưa nhiều, vì chàng chỉ mới xuất hiện ở quốc gia láng giềng, quê của chàng, còn xa xôi quá.
Tết cận kề. Nhà nhà, người người rộn ràng chuẩn bị đón thời khắc thiêng liêng tống cựu nghinh tân ấy.
Tuy giờ đây ít thấy cảnh mỗi nhà mỗi ngồi canh nồi bánh tét giữa đêm sương lành lạnh. Ít thấy cảnh người ông hoặc cha đem bộ lư xuống từ bàn thờ chùi bóng choang bóng lộn. Ít thấy cảnh người bà hoặc mẹ cặm cụi cắt kiệu hành làm dưa chua, cắt bí đao làm mứt hay may quần áo mới cho đàn con đông đúc. Ít còn gia đình nào dán hai bên cột nhà hai câu liễn bằng tiếng Tàu trên hai tờ giấy màu đỏ chói ( mà tôi đồ rằng ít ai hiểu nghĩa ).?Bởi giờ nhà nào cũng xây theo lối mới, đâu còn mái lá cột gỗ nữa, chỗ đâu mà treỏ.
Dẫu những phong tục trên dần mai một với thời đại, nhưng mọi người vẫn trân trọng giao điểm tiễn năm cũ mừng năm mới, bày bình trà dĩa bánh mứt, thắp nén nhang lên bàn thờ tiên tổ. Con cháu tề tựu cùng cầu nguyện vái lạy để rước ông bà cùng chứng kiến cảnh đoàn tụ đề huề hạnh phúc.
Ngày theo ngày qua đi, tên chàng được nhắc đến thường xuyên trên truyền thông , miệng truyền miệng, tai truyền tai . Không chịu chỉ ở yên một quốc gia nguồn cội, giờ chàng đã tự nhân lên thành nhiều cá thể giống hệt chàng , vượt biên giới bay đi khắp các phương trời, vạn nẻo đường để giao tiếp nhiều người hơn. Chắc với ý định xem hiệu ứng nhân gian đối với sức hấp dẫn của chàng ra sao sau khi đã hội kiến chứ gì ?
Chàng tinh quái lựa vào đúng thời gian mọi người chuẩn bị mừng xuân mới để bành trướng thế lực của mình ra bốn phương tám hướng. Bắt nguồn từ quê hương Wuhan của mình , lan dần cả tỉnh Hồ Bắc, rồi lần lượt các thành phố lân cận mà tôi không nhớ chính xác nữa.
Tiếng đồn về quyền lực vô song của chàng đã ầm ỉ lắm. Chàng tiếp tục vung sức mạnh sang Ðại Hàn, Singapore, Nhật, Thái Lan?nói chung hầu như toàn thể các quốc gia Ðông Nam Á . Ngay cả chiếc du thuyền Diamond Princess lênh đênh ngoài khơi đại dương Nhật cũng được chàng chiếu cố tận tình.
2/-
Ngày 23.01.2020
Rồi chàng bay đến thăm đất nước VN tôi , nương theo bóng hai cha con đồng hương Trung Hoa mà người cha đi từ Vũ Hán đến Hà Nội, hẹn ra Nha Trang để gặp người con trai đang làm việc tại Saigon. Sau đó hai cha con cùng nhau bay vào Saigon. Và từ đây ,chàng thật sự nổi tiếng trên đất nước tôi.
Chàng có tài biến hoá, nhân bản lên thành vài tỷ tỷ , hằng hà sa số đơn vị không ai biết chính xác bao nhiêu.
Kế đến, những người Vietnam quê Vĩnh Phúc, làm việc từ Vũ Hán trở về thăm quê. Chàng thì cố tình mà họ thì vô tình mang chàng theo cùng với hành trang. Thế là chàng đã thành công làm cho dân chúng tôi nghĩ về, nói về , bị khuất phục bởi chàng từ hôm đó không ngớt.
Chừng như ảnh hưởng của mình chỉ mới hạn hẹp giữa các quốc gia châu Á chưa đủ, chàng bắt đầu thong dong dạo chơi khắp năm châu bốn bể, tức khắp địa cầu mới thoả mãn khát vọng chinh phục và đốn ngã trái tim lẫn buồng phổi chúng sinh.
Tôi không nhắc lại ? con đường tình? chàng đã , đang và sẽ đi qua để gieo rắc thú- đau- thương cho nhân loại , vì ai ai cũng đều tỏ tường hết rồi.
Tình như đớn đau tình xé lòng nhau muôn đời không lành
Tình như ngất ngây tình đến cùng nhau mang nhiều tuyệt vời
Tình như giông bão dập vùi yêu thương
Tình như tiếng ca theo gió phương xa cho nhau lời chàỏ
3/-
Ðầu tháng 03. 2020
Giai đoạn lúc còn họp đoàn với gia đình, bạn hữu ở Vietnam, tôi chỉ ?mơ tưởng? đến chàng một cách tương đối . Vì nghĩ rằng chúng ta khó mà gặp nhau một khi tôi quay về quê hương thứ hai của mình, vậy tưởng nhớ làm gì vô ích.
Xứ sở hiện nay của tôi là một trong những quốc gia được xếp vào best of nhờ môi trường trong sạch, mức độ ô nhiễm gần bằng zero, nên tôi chủ quan nghĩ rằng chàng với ý đồ mờ ám không thể luồn lách tới nơi có bầu không khí trong lành được nên yên tâm tự nhủ là chỉ còn dăm hôm mình sẽ rời xa V N, về với khung trời bình an tĩnh lặng thân thiết. Ai có con đường nấy, không thể nào giao nhau được.
Thế rồi một buổi sáng ,có hai bạn gọi điện cho hay là chàng đã tới xứ tôi rồi.
Tôi thật sự bàng hoàng, chưa tin hẳn.
Chờ cho người từ Th.Sĩ gọi về xác nhận thì mới thật sự tin.
Thế là từ đó hình ảnh chàng chiếm lĩnh tôi thường trực, ngày đêm, thậm chí len vào giữa hai lần tỉnh, thức trong đêm không rời. 7/7.
Bất luận đi đâu, làm gì, ăn uống, trước khi ngủ? hình ảnh chàng đều hiển hiện tâm trí tôi.
Tôi cầu nguyện cho đừng phải gặp chàng. Vì lỡ chàng ?cảm tình? với tôi rồi lôi kéo hoá kiếp tôi cho giống chàng, tức là từ ?sống chuyển sang từ trần? , từ ?hữu hình chuyển sang vô bóng? mà tôi thì còn ham đời trần gian vì chưa đi thăm hết những phong cảnh tuyệt vời mà thiên nhiên ban tặng.
4/-
23.03.2020
Hơn chục ngày nay, cứ cách vài hôm chính phủ ban hành thêm lệnh mới , càng lúc càng nghiêm trọng hơn , để làm chậm lại nguy cơ bị chàng "dòm-ngó" vào chúng tôi, bảo vệ chúng tôi không để lọt vào tay sát thủ Don Juan Corona bạo chúa.
Toàn quốc sống trong cảnh giới nghiêm thời chiến. Thành phố buồn tênh. Ðường phố vắng lặng.
Kiểm soát gắt gao biên giới, không còn lưu thông tự do nữa.
Trường học, restaurant, các cửa hàng đồ gia dụng, các quán cà phê , quán ăn nhỏ, viện uốn tóc, săn sóc sắc đẹp, hồ bơi, trung tâm thể thaỏđóng cửa.
Chính phủ khuyên mọi người nên ở trong nhà, nhất là người cao niên, người có tiền sử bệnh khác.
Siêu thị bán thực phẩm, pharmacie, bưu điện mở nhưng giới hạn người . Có nơi mỗi lần chỉ một người vào, còn lại phải chờ bên ngoài. Ngoài đường phải giữ khoảng cách ít nhất 2 m. Không được tập trung nhóm quá 5 người. Không được đi dạo bờ hồ, rừng, công viên. Nếu không tuân luật sẽ bị phạt từ 100 đến nhiều trăm franc.
Cabinet bác sĩ mở, chỉ tiếp bệnh nhân thật sự có vấn đề, văn phòng hành chính , bảo hiểm mở nhưng không tiếp khách chỉ qua điện thoại hoặc e-mail.
Tôi xem trên truyền hình chiếu cảnh một ban nhạc giao hưởng mà buổi trình diễn hi hữu có một không hai. Concert gồm đủ các nhạc trưởng điều khiển múa đũa, nhạc công nam nữ với mọi loại nhạc cụ violon, violoncelle, trompette ?nhưng họ xuất hiện ở mỗi khung cảnh riêng biệt?tức là tại gia của mỗi người chứ không cùng nhau trên cùng một sân khấủ cảm xúc tôi dâng trào đến ứa lệ khi xem màn trình diễn ấy. Âm nhạc là phương pháp trị liệu thần kỳ nhất.
Trong hoàn cảnh bi đát , âm nhạc sẽ giúp chúng ta vượt lên mọi ý nghĩ yếm thế hãi hùng.
Dân châu Âu có cách biểu lộ tình cảm rất ?thơ mộng dù trong bất cứ hoàn cảnh tuyệt vọng nào. Ðầu tiên từ những người dân Ý bị cách ly tại gia. Không ra ngoài được thì họ mở cửa sổ và vỗ tay hát lên những lời tri ân ? các chiến sĩ áo trắng thầm lặng?bác sĩ , y tá đã ngày đêm bất chấp nguy hiểm ở tuyến đầu chăm sóc bịnh nhân bị chàng ?sờ soạng? nhiều đến nỗi lâm vào tình trạng thập tử nhất sinh. Nhiều bác sĩ y tá đã bị lây nhiễm và chết cùng với bịnh nhân của họ. Chàng thấy hết tội ác mình gây ra chưa hỡi Corona tên đồ tể ?
Bắt nguồn từ Ý , hình thức tạ ơn ấy lan ra nhiều quốc gia khác trong đó có Thuỵ Sĩ của tôi. Giờ mỗi đêm cứ đến hẹn lại lên, dân chúng mở cửa sổ cùng vỗ tay và hét to lên lời cảm ơn nồng nhiệt nhất dành cho giới y sĩ vô cùng xúc động.
5/-
Tôi ghét chàng .
Không biết chàng là con cái nhà ai ? Có nhiều tin đồn về chàng mà chưa được kiểm chứng. Người nói chàng được nuôi nấng từ phòng thí nghiệm , người nói chàng được ấp ủ bởi loài dơi. Một ngày không xa sự thật sẽ được phơi bày.
Tình đôi ta thật buồn
Như đoá hoa nở muộn
Tình yêu không trọn vẹn
Buồn mỗi ngày buồn hơn
( Buồn, Nhạc sĩ Y Vân theo ý thơ Tạ Ký )
Thôi chia ly nhé chàng.
Văn ôn võ luyện. Như Tái Ông Thất Mã, cũng vì chàng mà tôi biết thế nào là Thú Ðau Thương. Nhưng cũng nhờ chàng mà tôi có nhiều thời gian bị chôn chân ngồi nhà để viết nầy viết nọ
Rồi nghiền ngẫm triết lý vụn về ý nghĩa cuộc đời.
Mỗi lần mở robinet rửa tay, được khuyên phải dùng savon và thời gian rửa kéo dài ít nhất 20 giây , tôi lại nghĩ đến lục địa châu Phi.
Giờ thì không phải lúc nào tôi cũng nghĩ đến chàng đâu nhé.
Hình ảnh những bé gầy gò như những xác chết, gương mặt như đầu lâu hai hốc mắt hõm sâu , thân hình trơ xương sườn nằm bất động, ruồi nhặng bám đầy không đủ sức để xua đuổi. Chung quanh đất đá cằn khô , cỏ cây cũng không buồn mọc. Nước là tài sản quí hiếm ngần nào.
Trong khi chúng ta được khuyến cáo nên rửa tay thường xuyên, mỗi lần 20 giây. Thử làm một phép tính, lượng nước cho 1 người dùng trong 1 ngày ( chỉ mỗi rửa tay thôi ) là bao nhiêu lít. Dân số thế giới năm 2018 tính khoảng 7,7 tỷ. Tổng số dân lục địa châu Phi 1,2 tỷ. Thôi thì ta cứ lấy con số 5 tỷ người xử dụng nước để rửa tay hàng ngày vì không chỉ lục địa châu Phi mới khan hiếm nước. Ðồng bằng sông Cửu Long tôi đã bắt đầu bị ngập mặn từ vài năm nay rồi và tình hình càng ngày càng thêm trầm trọng.
Ra tổng số bao nhiêu lít nước ? Có ai đó giùm ơn giải đáp, tôi thật sự không tính nổi.
Dân Phi châu thậm chí không có nước để uống, nấu ăn. Còn chúng ta thì tha hồ vung vãi nước để rửa tay ngày nhiều lần, mỗi lần ít nhất 20 giây !
Sao Thượng Ðế sinh ra loài người mà không ban phát ơn điển công bình vậy !!!
Một lần nữa tôi xin cụ Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ xá tội tôi dựa theo thơ của Ngài để viết vài câu sau :
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm chim hoàng, phượng tung trời mà bay
Bay lên tận chín tầng mây
Mang mưa tưới đất nuôi cây cho đời ( Th.H )
Mỗi sáng , mỗi tối tôi chắp tay nguyện cầu cho các nhà vi trùng học, các khoa học gia, bác sĩ?nhanh chóng tìm ra phương thuốc hữu hiệu chống lại đội quân ma quái Corona Wuhan nầy , trả lại không gian trong sạch cho nhân loại vốn đã chịu quá nhiều tai ương .
Ngày 13.04.2020
*Tôi không dám đưa ra con số người nhiễm bệnh và tử vong tăng lên mỗi giờ nữa. Chỉ kể rằng hôm nay nó đã lây sang 210 quốc gia rồi.
****
(tặng các cháu độc giả thân thương)
Sáng nay trở dậy,kéo tấm màn che cửa sổ,qua lớp kính mờ,nhìn bàu trời trắng đục và cây anh đào xơ xác lá đang ngả nghiêng trước gió lạnh đầu Ðông...,tôi liên tưởng đến những tin về Ngày Tận Thế. Từ khá lâu,khi biết được tin này,tôi không suy nghĩ gì nhiều,vì nhân loại đã trải qua kinh nghiệm Ngày Tận Thế năm 2000 không hề xảy đến.Bây giờ sắp trôi qua 12 năm,đang dần dần bước sâu vào năm 2012 với sự nhắc nhở trở lại trên báo chí về lời tiên đoán đã một thời gây kinh hoàng cho nhân loại,tôi vẫn chẳng lo sợ gì thêm (khác với những nhân vật như P.Geryl,như D.McClung hay T.Lehman vv...), ngoài một chút suy tư vụn vặt.
Vũ trụ có Sinh thì phải có Diệt; vòng Sinh Tử Luân Hồi có Hiện thì phải có Biến,Thành Trụ Hoại Không,Thương Hải Biến Vi Tang Ðiền...không thể nào tránh được.Cho nên Trời,_hay nói theo khoa học :Bà Mẹ Thời Tiết hay Thiên Nhiên_sắp đặt cho ta hưởng cuộc sống,với hạnh phúc hay đau khổ,được ngày nào thì ta cũng đều an phận(ngoại trừ những ý chí và nỗ lực làm thăng tiến cuộc sống thường được gọi là biến cải Ðịnh Mệnh). Tuy nhiên cái tâm trạng an phận không giản dị được như thế; nó khắc khoải trong tôi khi tôi chợt nghĩ đến đám con cháu thân yêu còn non trẻ của chúng ta.
Những con người còn non trẻ còn phải được thưởng thức ánh mặt trời rọi sáng trong bàu trời trong xanh,phải được thả hồn bay bay trong vũ trụ bao la,phải chứng kiển cảnh huy hoàng hay u ám của 4 mùa Xuân Hạ Thu Ðông.Họ còn phải được hưởng những thú vui trần thế hay trải nghiệm những khổ ải trong kiếp sống con ngườịHọ còn phải chiến đấu để vươn lên hay cảm nhận một cách thấm thía những thất bại chua cay của nỗi buồn nhân thế...
Vậy những sinh linh non trẻ của chúng ta còn cần phải được hiện diện trên thế gian này. Ôi HUYỀN-DIỆU,Ôi MẸ-THIÊN-NHIÊN! Người hãy để cho loài người chúng con được tiếp tục tồn sinh.Không thể trừng phạt bằng cách huỷ diệt đám nhân loại đã được sinh ra và chém giết nhau như bày dã thú.Không, bên cạnh những kể xấu vẫn còn biết bao người sống có lương tri,biết đùm bọc yêu thương đồng loại,biết mở rộng tình nhân loại bao la. Không!...Xin NGƯỜI nếu có ý muốn ra tay cảnh cáo loài người thì hãy đặc biệt duy trì cuộc sống cho lớp người non trẻ thân thương của chúng con.
GA,11/09 - 12/01/2012
****
*
Năm 1992, tôi cùng ông bạn ?cố trỉ, thời học phổ thông đến hiệu sách Ngoại Văn (Tràng Tiền, Hà Nội) tìm mua cuốn Ðại Từ Ðiển Từ Hải (Biển từ) do Trung Quốc xuất bản. Loay hoay ở quầy sách Hán Ngữ, tôi tìm được 4 hộp sách ?Kho Tàng Tri Thức Khoa Học? gồm 20 cuốn, do Nhà xuất bản Thiếu Niên Nhi Ðồng Giang Tô (Trung Quốc) xuất bản. Thấy tôi cứ tần ngần, xem kỹ từng cuốn sách, ông bạn bảo tôi: - ?Tao tặng mày bộ sách đó. Mang về Hải Phòng, đọc để ôn lại tiếng Trung, nâng cao trình độ Hán Ngữ, giúp cho việc dạy Trung Văn của màỵ!?
Vài ngày sau, hết kỳ nghỉ hè, tôi trở về Hải Phòng với một đống sách tiếng Trung, vừa đọc để giải trí, để nâng cao trình độ Hán Ngữ, vừa làm tài liệu tham khảo thêm cho việc giảng dạy ở Trung tâm ngoại ngữ tiếng Trung.
Thời gian dạy tiếng Trung của tôi rất ít. Một tuần chỉ có 3 buổi nên thời gian rảnh của tôi cũng khá nhiều. Tôi dành toàn bộ thời gian rảnh rỗi để đọc những cuốn sách mới mua. Cuốn đầu tiên tôi đọc là cuốn Khám Phá Bí Mật Trái Ðất, đã cuốn hút tôi, tạo nhiều cảm hứng để tôi đọc tiếp Ðộng Vật Hoang Dã Diệu Kỳ, Thế Giới Vật Lý, Vòng Quanh Thế Giới Diệu Kỳ... Càng đọc, càng thấy hay, tôi càng biết thêm nhiều chữ mới. Tôi bèn ghi chép lại thật cẩn thận những điều tôi đã đọc, hy vọng vợ con mình sẽ đọc để biết thêm những điều mới lạ. Nhưng thật đáng tiếc, con ở xa, còn vợ thì không bao giờ mó đến sách.
Suốt 4 năm ròng, số bản thảo tôi viết cứ tăng dần lên tới vạn trang, bụi bám đầy.
Vào thời điểm ấy, việc sửa chữa tàu ở Xưởng của vợ tôi sa sút. Mỗi ngày đi làm chỉ nửa buổi nên lương của vợ tôi cũng giảm xuống một nửa. Công việc ở Trung Tâm Ngoại Ngữ cũng gặp trục trặc, tôi thành kẻ thất nghiệp.
Sau một tháng thất nghiệp, còn vợ tôi thì bán thất nghiệp, cô ấy nói với tôi: - ?Ông thất nghiệp tháng nay rồi. Còn tôi cũng bán thất nghiệp tháng nay. Bây giờ lương của tôi chỉ còn một nửa, không nuôi thêm được ông đâu. Ông về Hà Nội với các con ông đi. Chúng nó phải có trách nhiệm nuôi ông. Giờ tôi lo cho cái thân tôi cũng đủ mệt rồị?. Tôi giật mình ngơ ngác, nhưng cũng trấn tĩnh rất nhanh: - ?Ừ. Mai tôi về Hà Nội, cố tìm việc gì làm chứ ở đây thì khổ bà. Con cái tôi cũng không trông đợi gì chúng nó cả. Bà cố giữ sức khỏe đấỵ?
Cả đêm đó tôi không tài nào chợp mắt được vì lo lên Hà Nội sẽ sống thế nào vì vợ tôi nhắc đi nhắc lại tiền cho thuê nhà trên Hà Nội (nhà của bố mẹ tôi để lại) tôi không được đụng đến, phải gửi đủ về Hải Phòng để cô ấy giữ, phòng khi vợ chồng về già không được con cái hiếu thảo.
Bốn giờ sáng hôm sau, tôi ra ga đi tàu về Hà Nội, không quên mang theo đống bản thảo, với hy vọng sẽ gặp được anh Ðoàn Mạnh Phương, Trưởng Ban Biên tập Nhà xuất bản Thanh Niên mà có lần tôi xem ti vi thấy chương trình giới thiệu anh là nhà thơ trẻ, rất tài hoa và tốt tính, để nhờ anh ấy đỡ đầu mấy đầu sách, lấy nhuận bút mà sống.
Sáng sớm thứ 2, đầu giờ làm việc, tôi đến Ban Biên tập Nhà xuất bản Thanh Niên ở phố Bà Triệu, tìm gặp anh Ðoàn Mạnh Phương và đề đạt ý kiến của mình. Anh Ðoàn Mạnh Phương rất vui vẻ, hồ hởi nhận lời sẽ xem bản thảo, rồi hẹn tôi tuần sau đến nhận kết quả.
Thứ 2 tuần sau, tôi lại đến Nhà xuất bản Thanh Niên để nhận kết quả. Gặp cháu Thủy, biên tập viên, cháu nói: - ?Sách bác viết hay lắm. Cháu chưa thấy tác giả nào đưa 4 bản thảo lại được duyệt in cả 4 bản thảo như trường hợp của bác. Anh Phương dặn cháu nói với bác tuần sau đến xem trang bìa, nếu bác thấy hợp, anh Phương sẽ cho in ngaỵ?.
Tôi mừng quá, cám ơn cháu Thủy rồi ra về.
Tuần sau, tôi đến xem bìa sách: Khám Phá Bí Mật Trái Ðất, Ðộng Vật Hoang Dã Diệu Kỳ, Thế Giới Vật Lý, Vòng Quanh Thế Giới Diệu Kỳ... Bìa sách trình bày đẹp, phù hợp với nội dung cơ bản của cuốn sách. Tôi hỏi Ðoàn Mạnh Phương: - ?Thời gian in ấn có lâu không? Khoảng bao lâu thì ra sách??. Ðoàn Mạnh Phương trả lời: - ?Làm các thủ tục xét duyệt thì lâu, còn in ấn bây giờ hiện đại nên nhanh lắm. Khi nào sách nhập kho hoặc ra cửa hàng, em sẽ báo anh đến nhận sách biếu và tiền nhuận bút.?. Anh Phương còn động viên tôi: - ?4 cuốn này, nhuận bút cũng khá đấy! Gặp em là anh may lắm đấy. Sau này anh thành người nổi tiếng, đừng có quên công thằng em đã đỡ đầu cho mấy tác phẩm đầu tay đấỵ?. Tôi cám ơn rồi chào Ðoàn Mạnh Phương ra về, lòng vui mừng khôn xiết, khấp khởi mừng thầm, chờ đợi những ?đứa con tinh thần ra đờỉ.
Hơn tháng sau, Ðoàn Mạnh Phương điện, bảo tôi đem thêm bản thảo đến để anh giới thiệu cho đối tác. Tôi đem 2 bản thảo Khí Công Bách Nhật Thông và Hóa Học Thần Kỳ đến Nhà xuất bản Thanh Niên giao cho Ðoàn Mạnh Phương. Anh hẹn tôi khi nào có kết quả sẽ thông báo. Tôi hỏi Phương về tiến độ của 4 bản thảo trước, anh bảo tôi vài tháng nữa sẽ ra sách. Tôi cám ơn Phương ra về với niềm tin sẽ sớm có nguồn sống.
Thời gian trôi đi, từ tâm trạng phấn chấn sẽ có nhuận bút để sống đến tâm trạng chờ đợi, chán nản, vì đã hết năm 1996, rồi qua cả năm 1997 mà 4 bản thảo vẫn chưa ra được sách. Tôi hết hy vọng sống bằng dịch sách. Lại tiếp tục lo kiếm công việc để tồn tại. Sống bằng sự nhờ vả, cưu mang của bạn bè mấy năm qua, tôi cũng ngại lắm nên nghĩ, vay tiền bạn bè mua chiếc xe máy chạy xe ôm nhì nhằng kiếm sống vậy.
Giữa lúc chán nản nhất thì tôi nhận được điện thoại của nhà thơ Ðoàn Mạnh Phương, anh báo tin: - ?Sách đã về đến cửa hàng rồi. Anh đến Nhà sách Bảo Thắng, ở 276 phố Huế, gặp anh Ðặng Xuân Xuyến để nhận sách biếu, rồi đến nhà xuất bản để nhận tiền nhuận bút.? Anh Phương còn dặn đi dặn lại: - ?Anh đến nhận sách biếu, ký nhận rồi đến em nhận nhuận bút, không chuyện a chuyện b gì với Ðặng Xuân Xuyến đấỵ?. Tôi mừng quá, cám ơn Ðoàn Mạnh Phương rồi vội đạp xe đạp đến gặp anh Ðặng Xuân Xuyến.
Ðó là vào giữa năm 1999, lần đầu tiên tôi gặp Ðặng Xuân Xuyến tại Nhà sách Bảo Thắng ở 276 phố Huế, Hà Nội.
Cảm giác ban đầu, đập ngay vào mắt tôi: Cửa hàng bày biện rất khang trang, rất nhiều sách, nhiều chủng loại... Và ông chủ Nhà sách là một chàng trai trẻ, điển trai, chỉ trạc tuổi con trai lớn của tôi, tiếp tôi rất niềm nở. Qua trò chuyện, tôi cảm nhận được sự trung thực, tử tế ở con người Ðặng Xuân Xuyến.
Hơn một tiếng đồng hồ, ngồi đợi Ðặng Xuân Xuyến tiếp khách: Nhà thơ Ðoàn Thị Lam Luyến, nhà thơ Ý Lan, Ðạo diễn Doãn Hoàng Giang, họa sỹ Trần Ðại Thắng... tôi mới biết anh còn là tác giả của gần chục đầu sách nên tôi hy vọng anh có thể giúp đỡ tôi trong lĩnh vực xuất bản sách. Ðối với tôi, đây là lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ và bỡ ngỡ. Tôi giở hết kinh nghiệm học được từ những bản dịch về tướng thuật mà tôi đã dịch cho khách, lặng lẽ ngồi ?xem tướng? Ðặng Xuân Xuyến. Và căn cứ vào những nét tướng của anh thì anh là người trọng tình trọng nghĩa, sống trung thực và tử tế. Tôi tin tôi đã tìm được người thực sự sẽ giúp đỡ mình. Quả nhiên, tôi dự đoán chính xác. Sau này, nhờ sự giúp đỡ của Ðặng Xuân Xuyến, tôi đã ra khá nhiều đầu sách (27 đầu sách) và tiền nhuận bút trở thành nguồn sống khá sung túc của tôi ở đất Hà Thành.
Hôm đó, gặp được nhà thơ Ðoàn Thị Lam Luyến, tôi rất vui, nhất là khi biết chị cũng đang công tác ở nhà xuất bản Thanh Niên nên tôi mạnh dạn đến làm quen và nhờ chị giúp đỡ. Chị bảo tôi: - ?Bên em chỉ cấp giấy phép, còn ra sách, phát hành sách... là bên đối tác nên bản thảo, anh chuyển đến nhờ cậu Xuyến ra sách là hợp lẽ nhất. Xuyến ít tuổi nhưng sống đàng hoàng với bạn bè lắm. Khi đã nhận lời giúp ai việc gì, cậu ấy sẽ tận tâm tận lực nên anh nhờ cậu ấy là đủ rồị? Tôi thầm cám ơn cơ duyên trời đất đã cho tôi gặp Ðặng Xuân Xuyến.
Ngồi nói chuyện với Ðặng Xuân Xuyến, tôi càng cảm nhận được sự thẳng thắn ở con người anh. Không rào trước đón sau, Xuyến bảo: - ?Cách đây ba tháng, anh Ðoàn Mạnh Phương chuyển đến 4 bản thảo nhờ em ra sách nhưng em từ chối vì mảng đề tài này bên em ra nhiều rồi, e sách sẽ khó bán, nhưng anh Phương nói anh là người bà con của anh ấy nên em đành nhận lời. Nhuận bút em đã chuyển đủ 10 triệu theo đề nghị của anh Phương. Còn sách tác giả thì theo thỏa thuận, mỗi tác phẩm em gửi anh 10 cuốn nhưng đây là 4 tác phẩm đầu tay của anh nên em biếu thêm mỗi tác phẩm 15 cuốn để anh tặng bạn bè cho thoải mái. Nếu anh em mình có duyên cộng tác tiếp thì nhuận bút sẽ thỏa thuận cụ thể theo từng bản thảọ?. Tôi cám ơn Ðặng Xuân Xuyến rồi đạp xe đến nhà xuất bản Thanh Niên để nhận nhuận bút. Số tiền nhuận bút (10 triệu), tuy không lớn nhưng theo mệnh giá tiền lúc bấy giờ thì 10 triệu đó đủ cho tôi trang trải cuộc sống trong vòng 4 hoặc 5 tháng nên tôi rất phấn chấn.
Gặp nhà thơ Ðoàn Mạnh Phương ở cổng nhà xuất bản, tôi mừng lắm, chưa kịp rủ anh đi ăn trưa để cám ơn thì nhà thơ đã nói: - ?Giờ em có việc đột xuất nên không lên phòng làm việc với anh được. Anh ký xác nhận đã nhận đủ tiền nhuận bút vào tờ giấy biên nhận này. Khi khác rảnh, mời anh đến phòng em nói chuyện nhé.?. Cầm 5 triệu Ðoàn Mạnh Phương đưa, tôi thắc mắc: - ?Anh thấy cậu Xuyến bảo đã chuyển cho Phương đủ 10 triệu nhuận bút rồi, sao Phương chỉ đưa anh có 5 triệủ?. Ðoàn Mạnh Phương cười cười rồi vỗ vai tôi: - ?Ðúng là cậu ấy có đưa cho em 10 triệu nhưng tiền nhuận bút của anh chỉ có 5 triệu thôi. Còn 5 triệu, em chi cho biên tập viên đọc bài, sửa bài, nhiều khoản phải chi lắm...?. Cầm 5 triệu Ðoàn Mạnh Phương đưa, tôi buồn vì niềm vui của mình bị giảm mất một nửa.
Mấy hôm sau, tôi mang tập bản thảo Thiên Nhiên Những Ðiều Kỳ Bí, số trang tương đương như các bản thảo trước, đến gặp Ðặng Xuân Xuyến. Cầm bản thảo, anh cặm cụi đọc khoảng nửa tiếng rồi nhận lời sẽ ra sách giúp tôi. Anh hỏi tôi có cần ứng nhuận bút không? Hay đợi sách ra rồi nhận nhuận bút cả thể. Tôi thật thà hỏi: - ?Cuốn này chú cũng lấy giấy phép xuất bản bên chỗ nhà thơ Ðoàn Mạnh Phương à??. Xuyến bảo: -?Vâng!?. Tôi mạnh dạn hỏi: - ?Nhuận bút cuốn này anh được bao nhiêủ?. Xuyến cầm tập bản thảo, ngó số trang, bấm máy tính rồi trả lời: - ?Cuốn này có thể em để giá bìa 30.000đ. Anh nhân 10% của 1.000 cuốn với giá bìa 30.000, là 3 triệu tiền nhuận bút. Ngoài tiền nhuận bút, anh nhận thêm 15 cuốn sách tác giả.?. Tôi vội hỏi: - ?Mấy cuốn trước Xuyến trả nhuận bút cho anh bao nhiêủ?. Xuyến trả lời: - ?Em đã chuyển đủ 10 triệu nhuận bút cho anh Ðoàn Mạnh Phương khi nhận bản thảo. Anh chưa đến nhận nhuận bút chỗ anh Ðoàn Mạnh Phương à??. Tôi liền hỏi: - ?Thế còn tiền chi cho biên tập viên đọc bài, sửa bài và các chi phí khác thì thế nàỏ?. Xuyến bảo: - ?Ðọc bài, sửa bài là công việc của biên tập viên, đã có nhà xuất bản trả lương. Còn chế bản, in ấn, nộp quản lý phí xuất bản, nộp lưu chiểu và phát hành là việc của bên em.?. Ðể chắc chắn, tôi hỏi lại Xuyến tiền nhuận bút 4 cuốn trước của tôi có đúng là 10 triệu không? Xuyến cười, bảo: - ?Anh cứ đến gặp anh Ðoàn Mạnh Phương. Anh ấy sẽ giao đủ cho anh 10 triệụ?. Cảm giác lúc bấy giờ của tôi thật hẫng hụt, chua xót. Tôi không ngờ Ðoàn Mạnh Phương lại cư xử với tôi như thế. Tôi đã thật lòng kể gia cảnh của tôi và nhờ người anh em cùng họ giúp đỡ. Tôi cũng đã rất tin tưởng và cảm thấy mình thật may mắn khi gặp được người anh em cùng họ, sống tình cảm, chân thật và rất thương người như Ðoàn Mạnh Phương đã nói, vậy mà sự thật lại bẽ bàng thế này... Thấy thái độ của tôi khác lạ, Xuyến ái ngại: - ?Anh bị sao thế? Em thấy thần sắc anh lạ lắm, hình như là anh đang buồn phiền, bực tức một chuyện gì đó??. Tôi đành kể lại chuyện nhận nhuận bút chỗ nhà thơ Ðoàn Mạnh Phương. Xuyến lặng người một lúc rồi hỏi: - ?Em thấy anh Phương nói anh với anh ấy là anh em bà con mà??. Tôi kể cho Xuyến nghe gia cảnh của tôi và mối quan hệ của tôi với Ðoàn Mạnh Phương chỉ là người chung họ chứ không có họ hàng. Xuyến không nói gì. Một lúc sau, Xuyến bảo tôi: - ?Theo em, chuyện của anh với anh Ðoàn Mạnh Phương cũng không nên nhắc lại nữa. Bản thảo này và các bản thảo sau của anh, em sẽ đăng ký ở nhà xuất bản khác cho tiện.?.
Khoảng tháng sau, tôi mang đống bản thảo đã dịch từ dưới Hải Phòng đến nhờ Xuyến ra sách. Nhìn đống bản thảo (15 cuốn), anh lắc đầu, nói mảng đề tài này bên anh ra sách đã nhiều nên giới thiệu tôi đến các nhà sách khác để chào bản thảo. Anh ghi rất cẩn thận địa chỉ, điện thoại từng nhà sách và mong tôi sẽ được những nhà sách đó cộng tác. Lần theo địa chỉ, tôi đến cô Mão ở Ðinh Lễ, cô Miên ở Hàn Thuyên, anh Dũng ở Lý Thường Kiệt, anh Dương Tất Thắng ở Hàng Chuối, cô Chung ở Bà Triệu... ai xem bản thảo cũng khen hay nhưng đều lắc đầu vì không hợp với mảng sách nhà sách nên không giúp tôi được. Chán chường, tôi quay lại gặp Xuyến, nói thật sự việc để mong anh giúp ít nhiều. Có lẽ thấy bộ mặt tôi thiểu não quá nên Xuyến nhận lời giúp tôi 5 bản thảo. Anh khuyên tôi nên tóm tắt nội dung cuốn sách sẽ dịch đến chào các nhà sách, khi có khách hàng rồi thì hãy dịch để đỡ tốn công sức, vật chất. Tôi làm theo lời khuyên của anh, và đã dịch cho nhà xuất bản Giáo Dục được 5 bản thảo, dịch cho anh Dương Tất Thắng ở Hàng Chuối 6 bản thảo...
Sau nhiều năm làm việc với Ðặng Xuân Xuyến, chúng tôi trở nên thân thiết như anh em. Tôi rất cám ơn Ðặng Xuân Xuyến đã giúp tôi xuất bản nhiều (27) đầu sách: Có loại sách phổ biến kiến thức khoa học, sách tham khảo, sách chính trị, sách thâm cung bí sử... có loại sách về văn hóa tâm linh như phong thủy, tướng số... Càng làm việc với Xuyến, tôi càng khâm phục Xuyến. Anh thật sự là một người có vốn kiến thức sâu rộng. Có lần đọc bản thảo về phong thủy tôi soạn, anh góp ý: - ?Chỉ vì hướng cửa phòng vệ sinh ở buồng ngủ không tốt cho cung Tử Tức mà anh tư vấn đập bỏ phòng vệ sinh là không ổn. Thứ nhất sẽ ảnh hưởng tới kết cấu ngôi nhà, thứ 2 sẽ gây lãng phí về vật chất, thứ ba sẽ bất tiện cho sinh hoạt hàng ngày. Trường hợp này, anh nên tư vấn treo một bức tranh phong cảnh, che kín phòng vệ sinh là được.? Hay như khi đọc bản thảo về tướng thuật, anh góp ý: - ?Theo năm tháng, con người sẽ thay đổi, già đi và khuôn mặt cũng khác đi nhiều nhưng ánh mắt, nụ cười, nhất là ánh mắt thì thay đổi rất ít, cực ít. Ðể nhận ra người lâu năm mới gặp lại thì phải căn cứ vào ánh mắt, nụ cười chứ không thể căn cứ vào khuôn mặt, giọng nói. Xem bàn tay cũng vậy. Dù có những điểm chung nhưng vẫn có sự khác biệt giữa tay con trai và tay con gái nên khi soạn, anh phải chỉ ra những khác biệt đó, cứ chung chung như thế này thì không được vì sẽ sai, sẽ không chính xác.?
Ðáng tiếc, sau này công nghệ thông tin phát triển mạnh, điện thoại thông minh, Aipel, máy tính xách tay... ra đời. Văn hóa đọc bị lấn át, nhiều nhà sách, nhà xuất bản phải đóng cửa. Ðể bảo toàn đồng vốn, năm 2011, Xuyến quyết định sẽ giã từ nghề sách, từ đó, tôi mất đi nguồn thu ?ngân sách? cho tuổi già.
Từ khi từ bỏ công việc phiên dịch, hướng dẫn du lịch (1996) để bước chân vào công việc biên dịch, tôi đã học được nhiều bài học bổ ích. Tôi cứ tưởng đây là công việc đơn giản, quan hệ chỉ cần có giữa tác giả với nhà xuất bản nhưng tôi đã nhầm. Người tạo điều kiện nâng đỡ các tác giả thực ra là các nhà sách, các đối tác quan trọng của các nhà xuất bản chứ không phải là các nhà xuất bản. Cho đến giờ phút này, 2 bản thảo Khí Công Bách Nhật Thông và Hóa Học Thần Kỳ vẫn chưa ra được sách vì nhà thơ Ðoàn Mạnh Phương không làm ở nhà xuất bản Thanh Niên nữa, và theo lời anh Phương thì ?2 bản thảo đã bị ai đó lấy trộm.?.
Ngay nhà xuất bản Giáo Dục cũng vậy. Cuốn sách Những Chuyện Lý Thú Về Ðịa Lý Tự Nhiên đã được giám đốc nhà xuất bản ký duyệt giao cho chi nhánh ở Ðà Nẵng in, nhưng từ năm 2002 đến nay (2015) cũng không thấy hồi âm, mặc dù tôi đã nhiều lần gọi điện hỏi về bản thảo Những Chuyện Lý Thú Về Ðịa Lý Tự Nhiên nhưng đều không nhận được câu trả lời thỏa đáng. Trong khi sách đã ra năm 2005 (căn cứ vào cuốn TÁC GIẢ SÁCH NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC 1957 - 2007 - xem ảnh minh họa) nhưng tiền nhuận bút thì tác giả vẫn chưa nhận được.
Ngẫm lại quãng thời gian làm dịch giả, tôi cám ơn anh Ðặng Xuân Xuyến, anh Dương Tất Thắng, anh Ðoàn Mạnh Phương và các Nhà xuất bản: Giáo Dục, Văn Hóa Thông Tin, Văn Hóa Dân Tộc... đã giúp đỡ tôi có được những tác phẩm ra đời, để có được nguồn thu nhập cho cuộc sống của tôi những năm qua.
Tôi vô cùng cảm tạ bạn đọc đã chịu khó đọc bài viết này.
Tôi cũng hy vọng văn hóa đọc sẽ sớm trở lại như ngày xưa để những trang sách sẽ đem lại những niềm vui và kiến thức cho mọi người!
Kỷ niệm một thời nội trú ở trường Nữ Trung học xưa nhất miền Nam Việt nam
Kết quả cuộc thi tuyển vào lớp một Trung học đệ nhất cấp vừa được niêm yết là phụ huynh học sinh ở 21 tỉnh miền Nam bấy giờ vội vã nộp đơn xin cho con vào nội trú. Thời kỳ nầy, quan niệm ?nam nữ thụ thụ bất thân?, tên còn nam Văn, nữ Thị, huống hồ trường đào tạo những mầm non trí thức khoa bảng tất phải phân định rõ ràng theo truyền thống nước nhà. Trường Việt dành riêng cho nữ sinh miền Nam nổi tiếng nhất dưới thời kỳ Pháp thuộc nầy là ?Collège Gialong? dạy từ năm thứ nhất đến năm thứ tư, trước kia còn gọi nôm na là trường Áo tím.
Nhớ lại những năm củi quế gạo châu, thời Nhật chiếm đóng, Nhật thiếu chất đốt dùng lúa thay dầu, than đước, cưởng bức dân ta trồng bông vải thay bắp khoai. Miền Bắc trên một triệu người chết đói, ngay cả ở ??vựa lúả?miền Nam, dân nghèo phải dùng bao bố tời che thân.
Niên học nầy, có lẻ ảnh hưởng sâu đậm của hậu thế chiến thứ hai thắt lưng buộc bụng, đồng phục học sinh không là áo dài mà áo ngắn, áo bà ba trắng, quần dài có thể trắng hoặc đen.
Cô Émilie Võ Thành dạy Ðịa niên khóa 1948-49
Hiệu trưởng là bà Dubois, vị Hiệu trưởng Pháp cuối cùng của trường. Giám thị hầu hết là Việt như cô ba Trí, cô ba Liểu, cô tư Hạnh, cô năm Hoằng, v;v, và độc nhất một cô Pháp chính cống hiền hậu mà học sinh gọi là ?cô ba Chệt?nói tiếng Việt trôi chảy. Ðây là trường công lập, trúng tuyển vào học miển phí hoăc được cấp học bổng nên cuộc thi tuyển thật khó khăn.
Các tỉnh miền Nam thời trước đâu có nhiều trung học như ngày nay, ngay cả trường dành riêng cho nam sinh cũng ít, huống hồ cho các cô gái. Ông bà ta quan niệm phái yếu ?khuê môn bất xuất?, không thích cho con gái học cao, có lẻ vì phải đi xa, bất trắc khó lường, không kiểm soát bảo vệ được nên thường lập luận ??con gái biết chút ít chữ nghỉa là đủ rồi, học nhiều mà làm chi,...chỉ để viết thư cho trai cho mèo, nguy hiểm lắm??. Óc ?tang bồng hồ thỉ? xuôi ngược dọc ngang, đi học ??dài lưng tốn vải ăn no lại nằm?? thường dành riêng cho nam nhi chi chí. Thời điểm nầy, dù có cởi mở chút ít rồi, nhưng vẫn còn hạn chế, không phải thành phần xã hội nào cũng đủ tài chánh để lo cho con cái đuợc.
Mừng là còn được tiếp tục học nhưng nghĩ phải xa nhà, tôi cảm thấy vừa lo âu, nôn nả, luyến tiếc vì lần đầu tiên rời gia đình, bạn bè quen thuộc. Nhìn mẹ bận rộn sắm sửa theo chỉ dẫn qui định của trường, năm bộ đồng phục, mền mùng chiếu gối, giày guốc,... tất cả đều mang số (tôi 36, Vỏ thị Mầu 35, Nguyễn thị Hạnh 34), tôi lửng thửng ra hành lang nằm chèo queo trên vỏng chẳng buồn đưa. Nhìn ra vườn, cây sơ ri đơm bông tím nhỏ lốm đốm vài chùm trái đỏ vàng xanh, cây táo sum suê, mỗi lần gió thổi lá vàng bay rơi rơi cùng bao quả rụng. Trước đây, không bao giờ tôi bỏ lỡ cơ hội nầy đâu, thế nào cũng vội chạy ra lượm nhanh trái táo chua chua dòn rụm, chùi sơ sơ vào áo, rồi nhanh như cắt chạy tìm đĩa mắm tôm chà mẹ phơi nắng trên nắp lu nước mưa ngoài trời, quệt lén một chút, ngon ơi là ngon !
Trường Nữ Trung học Gia long
Ðêm đầu tiên nhập nội trú, tôi nhớ nhà quá khóc rưng rức làm cô tư Hạnh giám thị đến hỏi thăm :
?? Bịnh hả ? Có chuyện gì vậy ???.
Sợ quá mếu máo trả lời :
??Em nhớ má em quá cô ơị??
Cả ?dortoir D? cười rộ và từ đó tôi nổi danh??mít ướt?.
Phòng ngủ nội trú ? Dortoir
Về y phục, má tôi cẫn thận chuẩn bị trước thời kỳ ?trổ mả? của con gái nên mẹ tôi may ba bộ thật vừa vặn, hai bộ phòng hờ. Ðến đây quả là ??mưu sự tại nhân thành sự tạỉ?... nhân viên. Vì sau khi giặt ủi xong, phân phối lại, có khi cũng bộ đồ nhưng quần nầy áo nọ. Có lần tôi mặc phải áo ?tương laỉ của tôi rộng thùng thình, dài gần tới đầu gối, tay dài như ?trò lể? xăng lên hai cuộn vẫn còn dài cùng với chiếc quần cao khõi mắt cá. Ngược lại, đôi khi quần quá dài, may là bấy giờ còn dùng giây lưng vải nên lắm lúc không tài nào xắn ống cao được nữa, đành phải kéo lên đến nách buột thắt nút dễ dàng.
Trên 50 năm , tôi vẫn còn nhớ hai chị nằm cạnh, chị Bùi thi Tuyết Mai, em gái Bùi thị Tuyết Hồng (Cần thơ) cùng lớp và Huỳnh thị Ngà (Bến tre), Ngoài ra còn có các chị Trần thị Kim Tiếng, Nguyễn thị Chính (Vĩnh long). Trần Mỹ Dung (Gò dầu hạ, Tây ninh), Nguyễn thị Bạch Hồng (Cần giuộc), chị Ðông Ba ( Huế ), chị Khương (Vĩnh long)... Niên khóa nầy còn có Quách Thanh Tâm (Tây ninh), Nguyễn thị Hạnh (Gò công), Phạm ngọc Diệp (Vĩnh long), Khưu thị Ngọc Sang (Bạc Liêu), Nguyễn thị Yến (Bình Chánh), Vỏ thị Mầu(Gò công), Ðoàn Nguyệt Thu (Mỹ Tho )...
Kỷ luật lúc bấy giờ khá khắt khe, học sinh thường cho là độc đoán, bất công. Sợ trực tiếp là các giám thị, đại diện quyền uy, phạt nhiều thưởng ít, nhất là phê hạnh kiểm, ?consignẻ, chúa nhật không cho phép giám hộ rước ra. Tuyệt đối cấm không được mở cửa sổ lầu quay ra phía đường Legrand De La Liraye, người đi rước không thể là cậu trai trẻ đại diện. Mỗi chiều, 17giờ có bán bánh mì ?baguettẻ, ai mua trước thì còn, chậm chân thì hết, nhịn chờ cơm tối. Sau đó là phát thơ. Tin nhà thì nhận được, chứ tin khác thì khó qua lọt sự kiểm duyệt gắt gao của văn phòng.
Có sống chung nhau, cá tính mới dễ lộ rõ, tốt có xấu có. Câu ??nhất quỉ nhì ma thứ ba học trò??được thể hiện qua hỗn danh gán ghép ?vô tội vạ? vào khuyết tật của cô nào ít được lòng học sinh như cô ba Lép, cô ba Chệt?. Thật sự, trên đời, không ai hoàn toàn cả, thế mà phê phán chê bai, dù biết rằng vô căn cứ đi chăng nữa, vẫn có người thích nghe, phổ biến.
Niên học nầy còn đánh dấu nhiều biến chuyển quan trọng. Lần đầu tiên, nữ sinh nội trú đã làm reo, tuyệt thực, khóa phòng ngủ, nhốt giám thị, đả đảo Ban Giám đốc, mặc tình cho bà Dubois Hiệu trưởng đến từng nơi kêu gọi mở cửa, vô hiệu. Cũng năm nầy, leo rào cổng chính đi biểu tình đến tận dinh Phó Thủ tướng Trần văn Hữu đường Gia long, bị giải tán bằng ma-trắc dùi cui, lựu đạn cay chạy rã hàng đến chợ Saigon. Hậu quả trường bị đóng cửa, học sinh nghỉ học.Tiếp đến là Phong trào Sinh viên, Học sinh vùng lên, rồi cái chết của anh Trần văn Ơn với đám táng đông đảo nhất qui tụ mọi thành phần dân chúng làm chính quyền lung lay. Từ đấy, mấy năm liên tiếp, không còn nội trú vì đãy là nơi tập trung lực lượng trẻ trí thức miền Nam dễ gây bạo động chống chính phủ, chế độ.
Dinh Gia long
?Ðèn nhà ai nấy sáng?, trường ai nấy bảo vệ uy danh. Thế nên, trong những lần rảnh rang tán gẫu, nhiều ý kiến bàn về tên trường Gialong. Ðây là Nữ Trung học, hơn thế nữa, trong quá trình lịch sử ta đâu thiếu anh thư, mẫu nghi, thi sĩ, thế mà miền Nam có Gialong, miền Trung có Ðồng Khánh ! ! !
Nhớ thời kỳ ??tù có số?? thích nhìn những cây mít trong sân, thèm thuồng mong đợỉ?dái mít?? lố nhố đầy cành, rồi đến quả tòn teng bám thân cành nồng thơm nặng trĩu.
Cây mít ở trường Gia long
Làm sao quên được hàng cây cao rợp lá dọc hai bên đường chính như hàng rào danh dự. Ngày chúa nhật, vào trưa vắng học sinh, chờ chị phụ bếp đi về đội một vừng cơm cháy chảo vàng khếu, thoa muối mở hành như chiếc nón bài thơ trở ngược, nữ sinh bao quanh ?xin? miếng ngon dòn. Ai mua được, chia bạn bè người một tí, ??của ít lòng nhiềủ?, bầu bạn xẻ chia. Có lần mẹ gởi mạch nha lên, dù không có bánh phồng, tay thắm nước, rao ?kẹo kéo đây ?vừa mềm vừa ngọt. ??Sống lâu hơn ở sạch??, mút tay cho thật kỹ, nước miếng cũng là thứ sát trùng thôi.
Lưu bút phai màu, album sờn bìa được lần giở lại, gương mặt ngày xưa sao mà lạ hoắc, dễ thương. Có những bức ảnh buồn cười mình từng chê dấu kỷ, nay nhìn lại sao mà nhắc gợi mình bao kỷ niệm khó quên. Chữ viết gò nắn nót lồng trong khung trang trí trình bày bằng nét vẽ tim hoa cành lá, mỗi người mỗi vẻ diễn tả ý tình riêng. Sâu đậm nhất là thời kỳ nội trú, sống cạnh nhau, chia xẻ lo sợ vui buồn, rèn luyện như thép được tôi ròng.
Bây giờ, con đàn cháu đống, tóc bạc da nhăn hay còn son giá, dù ở hoàn cảnh nào đi chăng nữa, lâu lâu, phim kỷ niệm bất chợt chớp hình phóng ảnh bồng bềnh, chuỗi ngày nội trú vẫn là khoảng thời gian trui luyện, tập tành công hiệu nhất của một thời hoa tươi trẻ hồn nhiên.
THƠ VỀ RƯỢU
HAY NỖI BUỒN RIÊNG MÌNH
VÀ NỖI BUỒN NHÂN THẾ
CỦA NHÀ THƠ ÐẶNG XUÂN XUYẾN?
*
Tuần trước, nhà thơ Ðặng Xuân Xuyến gửi cho tôi chùm thơ về rượu của anh và bảo để tôi đọc cho vui. Nhưng vui sao được khi mà cả chùm 10 bài thơ đều thấm đẫm một nỗi buồn: Nỗi buồn riêng mình của thi nhân và nỗi buồn vì nhân tình thế thái.
Người ta thường nói ?Trà tam tửu tứ", nghĩa đại chúng nhất là ?Uống trà không nên quá 3 người, mới thưởng thức hết cái thú vị của nó. Còn uống rượu phải từ 4 người trở lên mới vui, mới náo nhiệt?. Nhưng trong 10 cuộc rượu của Ðặng Xuân Xuyến khồng hề thấy có một cuộc rượu bốn người nào mà chỉ thấy toàn những cuộc rượu một mình nhà thơ hay những cuộc rượu có thêm một người nữa là hai. Và cả chùm 10 bài Thơ Về Rượu thì có tới quá nửa số bài là độc ẩm.
Trước hết là bài Một tôi với lời đề tặng cháu Ðặng Hải. Bài thơ chỉ có 6 câu nhưng cả 6 câu đều bắt đầu bằng từ ?Một?:
Một chai
Một chén
Một tôi thôi
Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi
Một bàn tay lạnh quờ vai lạnh
Một tiếng thở dài tôi với tôi!
Chai rượu chỉ có một, chén rượu cũng chỉ có môt. Chai rượu có một thì không nói làm gì vì có thể không là chai bé mà là chai vừa hay chai to đong đầy rượu để uống. Nhưng chén rượu chỉ có một thì lại khác. Bởi lẽ bộ chén uống rượu thường với 4 chiếc, 8 chiếc hay 12 chiếc hoặc nhiều hơn, nhưng đều là số chẵn vì người Á Ðông vốn kỵ số lẻ, không đủ đôi đủ cặp. Câu thơ ?Một chén? vì người uống rượu không có ai khác ngoài ?Một tôi thôỉ. Ðộc ẩm, uống rượu một mình. Ðã cô đơn như thế, bối cảnh không gian và thời gian lại là:
Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi
Một đêm, một làn gió cứ mãi chuyển quanh một điểm, một phạm vi hẹp là cái chỗ tôi ngồi nhỏ bé.
Thi nhân đã cô đơn lại thêm làn gió cũng cô đơn và cái chỗ ngồi cũng lẻ loi nên không khí bao quanh lạnh lùng là không thể khác.
Vì vậy, nhà thơ muốn tìm một ai đó để uống cùng nhưng buồn thay lại chỉ là:
Một bàn tay lạnh quờ vai lạnh
Bàn tay của mình quờ tìm lên vai của mình bởi có ai đâu ngoài một chai, một chén, một mình tôi. Bàn tay lạnh và bờ vai cũng lạnh làm bật lên:
Một tiếng thở dài tôi với tôi!
Tôi với tôi, không có ai chia sẻ.
Bài thơ ngắn mà giàu cảm xúc. Ngoài lối điệp liên tiếp tiếng một ở đầu câu toàn bài thơ, tác giả còn khéo dùng các câu thơ dài dần từ 2 tiếng đến 3 tiếng trong ba câu đầu diễn tả sự cô đơn rồi chuyển sang 3 câu 7 tiếng để kết thúc bằng một hơi thở dài buồn bã. Nhà thơ không nói thêm gì ngoài 6 câu thơ nhưng người đọc đều hiểu, còn hai câu nữa, bẽ bàng, xót xa cho thân phận của mình nhưng Ðặng Xuân Xuyến không viết ra bởi thi hào dân tộc Nguyễn Du đã nói hộ nàng Kiều từ 200 năm trước:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Rượu say là cuộc độc ẩm của nhà thơ dưới ánh trăng nên không lạnh lẽo lắm, vì vậy mà tinh thần có phần phấn khích:
Ừ này thì rượu. Ừ thì say
Ừ rượu tri âm ủ lâu ngày
Ta uống đêm nay cho thỏa thích
Cho trời cùng đất ngất ngưởng say.
Thế rồi say trong men tình chiu chắt, say trong rượu ngọt đào thơm và say trong lời hứa với bạn nào đấy, nhà thơ không cần đoái hoài tới chú Cuội từ nơi cung Quế xuống khẩn khoản mời lên chơi:
Ta chẳng ghé đâu. Ta ở đây
Sóng sánh mềm môi chén rượu đầy.
Thôi Cuội về đi ta chỉ muốn
Ðêm nay thỏa thích ta được say.
Bài thơ là một tưởng tượng đẹp, phóng túng và táo bạo nhưng xét cho cùng cũng vì cô đơn quá nên tưởng tượng hão huyền thế thôi, giống như thi bá Tản Ðà thế kỷ trước cũng vì buồn nơi trần thế nên ngẩng đầu tâm sự với chị Hằng vào một đêm thu rồi thể hiện rõ nguyện vọng của mình:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi
Một mộng tưởng lên cung trăng bầu bạn với chị Hằng của Tản Ðà hay mộng tưởng chú Cuội trên cung Quảng xuống mời mình lên chơi của Ðặng Xuân Xuyến, xét cho cùng đều là muốn thoát ly cõi trần quá buồn chán.
Tiệc Rượu Trong Mơ cũng là một cuộc độc ẩm diễn tả tâm trạng muốn thoát cái ?Một tôỉ đơn côi bằng cách để trí tưởng tượng hiện lên một thằng bạn đối tửu trong mơ. Cuộc đối tửu đã đến hồi kết:
Dốc ngược chai
Chắt thêm vài giọt rượu
Cạn ly này
Mai mỗi đứa một nơi
Cả hai đều đã say nên cứ mày rót, tao rót, khề khà nhấp môi rồi kể lể tình cảnh ngày mai chia ly mỗi thằng mỗi ngả, mày tao đều chung kiếp không nhà nhưng rồi sẽ:
Tao xa lạ
Cõi trần đày đọa
Mày xa hoa
Tiên cảnh phiêu bồng...
Và họ cứ cạn nhé, cạn nhé chưa biết cuộc rượu tàn khi nào. Bài thơ tưởng như mình đã có bạn cùng uống rượu. Nhưng than ôi, đó chỉ là một cái bóng người trong mơ.
Men Ðắng cũng là bữa rượu một mình không buồn nhưng lại đầy cay đắng vì một nghĩa vợ tình chồng đã tan vỡ, từ mười lăm năm trước về trong hơi men hôm nay, cũng là men rượu năm đó, cái men mà:
Chót nhấp môi ta trượt bước xuống bùn
Cho nên tay nâng chén mà trong lòng vẫn cảm thấy:
Thon thót sợ vô tình gặp lại.
Tự gật đầu với mình ?Ừ ly nữả, thêm rượu để cố quên đi nhưng:
Cạn ly này có quên được chuyện xưa?
Ðau thương đấy đến ngày nào lành sẹo?
Và rồi chuyện xưa cứ hiện về rõ mồn một:
Ừ thì cứ trách ta bạc bẽo
Cứ rêu rao ta ân ái hững hờ
Nhưng đâu phải thế, mà chỉ vì:
Quá thật thà ta ra kẻ ngu ngơ
Ngớ ngẩn cược đời mình nơi kẻ chợ.
Người đã như yêu tinh, như hồ ly mà lại thêm trời cũng ăn ở bất công:
Trời cao xa dung dưỡng lũ yêu hồ
Nên ta đành phải:
Cố vẫy vùng thoát xa khỏi chốn nhơ
Ta chết lặng nửa đời không phân tỏ.
Men Ðắng đầy bi phẫn vì không biết phân tỏ cùng ai, tưởng như sẽ đẩy nhà thơ vào miền bế tắc. Nhưng may thay vẫn có một chút ánh sáng là khi cuối cuộc độc ẩm, nhà thơ đã nhận ra chân tướng không tốt đẹp gì của người đã đi qua đời mình nên tự gật đầu thêm cho mình ly nữa, ly nữa để quên đi cái bóng tà xưa và hướng tới một bình minh đang đợi:
Quên bóng tà lẩn khuất phía song thưa
Ta cạn chén đón bình minh trước cửa.
Bữa rượu một mình cuối cùng trong chùm Thơ Về Rượu là bài thơ Chết. Bài thơ chỉ có 4 câu nghe như tiếng nghẹn nấc khi nhà thơ nhấp chén rượu buồn cay đắng tiễn người mình yêu đi lấy chồng và thấy trái tim mình đang dần chết:
Kể từ trăng tàn ấy
Ta chết dần ai hay.
Bài thơ khiến nhiều người nhớ tới Chuyện tình buồn của nhà thơ Phạm Văn Bình đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc:
Ngày nhà em pháo nổ
Tâm hồn anh nhuốm máu
Ôi nhát chém hư vô
Ôi nhát chém hư vô.
Chuyện Tình Buồn chứ không phải Chết nhưng cũng nhuốm máu đau thương bởi những nhát chém hư vô!
Thế Gian Say gọi là cuộc rượu một người cũng được hay cuộc rượu hai người cũng được. Một người vì bài thơ là lời của Ðặng Xuân Xuyến nói về thế gian say. Hai người vì bài thơ có đề tặng nhà thơ Hoàng Xuân Hoạ khiến ta có thể hiểu là hai thi nhân đã đối ẩm với nhau rồi phiếm đàm về thế gian say và sau cuộc rượu thì nhà thơ họ Ðặng ghi lại gửi tặng nhà thơ họ Hoàng. Dù hiểu cách nào thì Thế Gian Say cũng là một phiếm đàm về cái say rượu của người đời:
Thế gian say đòi đập chén trở cờ
Thế gian cười.
Thế gian khóc.
Thế gian mơ
Người đời say đòi ?đập chén trở cờ? rồi cười, rồi khóc, rồi mơ, rồi thêm nữa:
Ngật ngưỡng bước.
Khành khạch cười.
Chửi cha thiên hạ dở!
Tôi từng nghe, cũng chính người đời đã phân ra ba loại say lớn trong thế gian: Loại thứ nhất, say như khỉ, hết "nhảy múa rồi đến ca hát hay chửi bớỉ, loại thứ hai, say như lợn, "nặng nề, trì trệ và muốn ngủ", loại thứ ba, say như dê, "không có đầu óc, nhưng dâm đãng".
Thế gian say trong thơ Ðặng Xuân Xuyến thuộc loại thứ nhất, say rồi chửi cha thiên hạ. Thế thì có sao, thưa hai nhà thơ Ðặng xuân Xuyến và Hoàng Xuân Hoạ? Chí Phèo kia, khi say hắn đã chửi tuốt luốt đấy thôi: ?Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Ðạị..?
Nhưng Chí Phèo chửi cả làng Vũ Ðại đã thấm gì so với Trương Tửu và bạn ông khi say:
Chửi Ðông, chửi Tây chửi tất cả
Hình như hai nhà thơ họ Ðặng và họ Hoàng rất tương đắc khi chê ?Thế gian say đòi đập chén trở cờ?. Tôi tra từ điển ?trở cờ? nhưng không thấy mà chỉ có ?trở? được định nghĩa ?Ðảo ngược vị trí đầu thành đuôi, trên thành dưới, trái thành phải hoặc quay ngược lại đi hướng khác?. Dù thế nào trở cờ cũng là xấu. Cái chén nó vừa đựng rượu cho mình uống giờ say đòi đập nó, không xấu thì là gì?
Nhưng ở đời thiếu gì người không say mà đã trở cờ trong những việc trọng đại, như ông Tổng Bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam đã phát biểu: ?Có người công khai bày tỏ ý kiến trái với Cương lĩnh, Ðiều lệ Ðảng, làm trái nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, thậm chí có người "sám hối", "trở cờ"; tình trạng tham nhũng, quan liêu, xa dân, tổ chức không chặt chẽ, nhiều nguyên tắc của Ðảng bị vi phạm?
Trên thế giới, từ lâu ông nhà thơ Aragon người Pháp khi theo đảng Cộng Sản Pháp đã viết:
Ðảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng
Ðể ca ngợi cái tổ chức mà mình có mặt, còn câu thơ nào hay hơn câu ấy?
Nhưng rồi, như rất nhiều người cùng chí hướng của mình trong thế kỷ XX, sau đó, niềm tin của ông đã thay đổi. Và ông bị gọi là trở cờ.
Những người như ông Tổng bí thư nói hay như ông Aragon, trở cờ chứ không phải hối hận. Nhưng họ vẫn đáng trọng hơn những kẻ không trở cờ mà trung thành, nhất quán một cách mù quáng.
Bài thơ Thế Gian Say hay nhất ở câu cuối:
Rượu ba xu. Thế gian hóa thằng rồ!
Ngày xưa, tiền chi tiêu trong dân chúng là tiền gián, với một quan là 360 đồng, dưới đồng là hào, dưới hào là xu rồi đến chinh và kẽm. Ca dao Việt Nam có nhắc đến người nội trợ đi chợ:
Một quan tiền tốt mang đi
Nàng mua những gì mà tính chẳng ra
Thoạt tiên mua ba tiền gà...
Ngày nay, đồng tiền Việt Nam được lưu hành trong dân chúng, thấp nhất là tờ giấy bạc một nghìn đồng. Nhà thơ Nguyễn Khôi có kể về vợ mình đi chợ:
Nửa triệu tiền tốt mang đi
Em mua những gì?- máy tính thẩm tra
Xem vậy, rượu ba xu thời nào cũng là thứ rượu rẻ tiền nhất.
Nên cái đáng cười người đời là đã phải uống cái thứ rượu mạt hạng ấy mà không biết mình là ai lại đòi đập chén trở cờ rồi cười, rồi khóc, rồi mơ và chửi thiên hạ để chính thế gian gọi là thằng rồ. Nhưng trong cái đáng chê cười ấy cũng nên có chút lòng thương xót vì họ toàn là dân nghèo khốn khó. Những kẻ giàu sang chơi những loại rượu Sake, Shochu, Whisky, Chivas? dẫu có say điên đảo vẫn có kẻ hầu người hạ và có ai dám bảo chúng hoá thằng rồ đâu. Bởi ở đời này, ?ông? nào nói to, ?ông? nào nhiều tiền thì ?ông? ấy đúng!
Vả lại:
Thế gian còn dại chưa khôn
Sống mặc áo rách chết chôn áo lành
Vậy phiếm đàm về thế gian say thì cứ phiếm nhưng đừng quá chê trách họ.
Những cuộc rượu hai người trong chùm thơ về rượu của Ðặng Xuân Xuân Xuyến hầu hết thấm đẫm nỗi buồn vì nhân tình thế thái.
Hai bài thơ Quan Trường và Bạn Quan đều diễn đạt tâm trạng nhà thơ khi uống rượu với hai người bạn làm quan. Thói thường khi có bạn làm quan người ta thường hãnh diện và coi đó là một may mắn và một diễm phúc. Nếu bạn là quan lãnh đạo cấp cao, người ta còn cố chụp chung một bức ảnh bắt quàng làm họ rồi treo giữa sảnh khách để loè khoe thiên hạ. Ðặng Xuân Xuyến, ít nhất có hai bạn quan nhưng anh không có cái ý khoe khoang đó .
Thằng bạn trong Quan Trường là một quan chức to vừa ?ngã ngựả vì bị bọn đồng liêu ganh ghét không cùng dòng chảy với chúng:
Ðục kín dòng mày lại cố gượng trong
Chúng nó đập bởi mày không chịu hỏng
Vì thế, nhà thơ an ủi bạn:
Nào, cứ uống, đếch gì mày phải ngại
Làm ?quan tỏ ngã ngựa cũng chả hèn
Thiên hạ cười. Thây kệ thiên hạ soi
Mày giả xỉn để đời thôi khốn nạn.
Rồi chân tình khuyên bạn:
Ừ. Thế nhé. Lấy gia đình làm trọng
Cứ vui đi, mặc thiên hạ vào tròng
Tiếc làm gì mấy thứ của phù du
Thiên trả Ðịa, đếch gì mày cay cú.
Bài thơ cho ta thấy, tuy không làm quan nhưng Ðặng Xuân Xuyến biết rất rõ chốn quan trường. Nơi mê cung bí hiểm ấy luôn có những đám mây đen âm mưu vần vũ, sóng gió lật đổ thanh toán nhau bất kì nổi lên gây ra không biết bao nhiêu thảm kịch. Ở đấy đầy dẫy những kẻ mặt dày vô sỉ, đầy quyền mưu quyền biến, đổi trắng thay đen, gian hùng, giả nhân giả nghĩảVì thế nhà thơ gọi chốn quan trường là nơi thiên hạ đú, thiên hạ cù và văng thẳng câu chửi vào cái thiên hạ ấy:
Nào. Uống nhé! Kệ cha thiên hạ đú
Nào. Cứ say! Mặc mẹ thiên hạ cù
Rồi mời rượu bạn để:
Tao với mày trận nữa ngoắc cần câu
Cho trôi tuột trò nhố nhăng thế sự.
Thái độ của nhà thơ là rất thẳng thắn coi khinh chốn quan trường và cảm thông sâu sắc với bạn mình, tuy làm quan nhưng vẫn còn chút thanh sạch và chưa bị tha hoá nên đã bị cả một lũ quan trường, chúng nó đập.
Người bạn quan thứ hai của nhà thơ trong bài Bạn Quan là một quan chức đang tại vị, về quê mở tiệc tẩy trần, khách mời là nhà thơ bạn cũ. Thằng bạn quan này thì khác thằng bạn quan bị ngã ngựa, bởi thế nhà thơ đã mượn rượu giả say để có cớ vạch trần bộ mặt thật của thằng bạn cũ lâu ngày gặp lại:
Mày làm quan chắc kiếm bộn tiền
Chức ấy rẻ mà sinh lắm lãi
Mày là thằng đã bỏ tiền ra để chạy chức, xong rồi thì phải thu hồi vốn, thu hồi xong phải làm lãi bằng cách vơ vét, ăn không từ thứ gì của dân.
Thêm nữa, cái tài học và tâm địa của mày, hai ta đâu có lạ gì nhau:
Mày học ngu nhưng thủ đoạn tài
Tao học giỏi nhưng mù thủ đoạn
Tưởng rằng nói trắng phớ ra như thế thì mình sẽ hả lòng hả dạ, bớt đi bao đau buồn thua thiệt trong cõi đời đen bạc. Còn nó, thằng bạn quan sẽ mất mặt vì nhục nhã.
Nhưng cái hay ở bài thơ là thằng bạn lại không thấy như thế. Mà y đợi:
Rượu tới tầm
Mày ghé tai tao
Nói thật nhỏ
Căng tai mới rõ
Ơ hay, sao chỉ có hai người bạn uống rượu tẩy trần mà y lại phải ?ghé taỉ, ?nói thật nhỏ? đến nỗi bạn phải ?căng tai mới rõ?. Phải chăng quen sống ở chốn quan trường, nơi mê cung bí hiểm đã thành động hình trong y, lúc nào cũng phải giấu giấu diếm diếm những cái gọi là sự thực. Nay chỉ có y và thằng bạn mà y vẫn chửi là ?Quá nửa đời mãi chửa hết ngủ? thì nỗi sợ ấy không còn nữa nên y mới có đủ dũng khí để nói ra cái sự thực ấy:
?Làm người khó
Làm quan càng khó
Chốn quan trường chó, vịt giống nhaủ?
?Quan càng lớn, chữ nhân càng nhỏ??
?La liếm quen rồi nào biết bẩn nhơ!?
Ðúng là y nói rất thật nhưng cũng đúng y là một thằng học ngu vì y chưa đọc hết câu: ?Làm người là khó, làm người xã hội chủ nghĩa còn khó hơn nhiềủ
Vẫn đang đà giả tỉnh giả say, nhà thơ làm ra bộ ngớ ngơ:
Khen các quan vì dân vì nước
Ai ngờ thằng bạn quan cũng đang đà được nói thật nên đáp lại cũng rất thật:
Ðời đã chó
Quan trường càng chó
Tuy y nói thật thế nhưng y vẫn đang làm quan. Bữa tiệc tẩy trần hôm nay là tiệc của nhà quan được mua sắm bởi những đồng tiền y đã ?Ăn của dân không từ cái gì?, đã ?La liếm quen rồi nào biết bẩn nhở. Vì vậy, nhà thơ cần phải nói thẳng nốt với y:
Rượu mày mời
Tao uống khó trôi
Thịt mày gắp
Tao nhai khó nuốt
Bạn Quan là một bài thơ hay, một cuộc rượu hai người đầy kịch tính, cả hai đều mượn hơi men để nói thật lòng mình, rất đúng với câu ?Lời say sưa mới là câu chân tình? (Trần Huyền Trân) cho ta thấy bộ mặt thật xấu xa bỉ ổi của bọn quan trường trong xã hội hiện nay.
Ðời Khát với lời đề tặng nghệ sĩ Võ Hoài Nam là cuộc rượu của đôi bạn, một nhà thơ và một nghệ sĩ. Hiển nhiên là rượu phải ngon và quý:
Rượu tình đời men ủ nhiều năm
Họ khát gặp nhau và khát cả rượu nên cuộc đối tửu là một trận càn khôn túy lúy:
Này thì khát!
Uống cho đời đỡ khát
Rượu tình đời men ủ nhiều năm
Khát chất chồng
dồn nén
tháng năm
Ta đốt cạn cái đong đời cay đắng
Họ liên tiếp chuốc rượu mời giục nhau trong ba khổ thơ liên tiếp khổ nào cũng mở đầu bằng hai câu:
Uống!
Thì uống!...
Uống để cho hết u buồn, cho Nhật Nguyệt hửng nắng, cho lòng ta và lòng bạn không hổ thẹn giữa một thế gian ?sấp ngửa trắng đen?, và để:
Rượu tri âm thêm vững mạnh bước đường!
Ðúng là thi nhân, nghệ sĩ say thì chữ nghĩa tràn chiếu rượu
Thân phận nhà thơ Ðặng Xuân Xuyến thì bạn đọc đều đã biết, chỉ xin vài nét về tài tử Võ Hoài Nam để mọi người hiểu thêm về kèo rượu của đôi bạn.
Bố mẹ Võ Hoài Nam ly hôn khi anh mới lên hai, kể từ đó, Võ Hoài Nam sống mà như một đứa trẻ không có gia đình. "Ðầu đường, xó chợ đã dạy tôi nên ngườỉ. Ðấy là lời dũng cảm anh tự nói ra. Trở thành diễn viên chính trong series phim "Cảnh sát hình sự", Võ Hoài Nam được coi là một trong những tài tử hàng đầu của điện ảnh phía Bắc. Khi đang ở đỉnh cao của sự nghiệp, anh bất ngờ rời xa màn ảnh cùng vợ mở quán ăn để có đủ cơm áo chăm lo cho đàn con 4 đứa..
Võ Hoài Nam tâm sự: "Ðối với tôi, tiền không phải là tất cả, tiền không đánh đổi được tình nghĩa, hạnh phúc gia đình. Nghĩ vậy nên tôi dừng lại, không dấn thêm một bước nữa". Thật không hổ thẹn khi không ham tiền và ham sự nổi danh dưới ánh đèn sân khấu. Ðúng như câu thơ Ðặng Xuân Xuyến:
Ta như bạn sống một đời không thẹn
Say Yêu là cuộc rượu của nhà thơ với người tình. Một cuộc rượu đã đến hồi rượu ngọt, môi mềm và ?Xem trong âu yếm có chiều lả lơỉ:
Nào nâng chén cho sầu sầu rũ bỏ
Trút áo xiêm cho đêm bớt ngại ngần
Ðây rượu nồng, men ủ đã nhiều năm
E ngại thế... Làm sao ta chẳng giận
Và rồi mặc dù đêm lạnh lắm nhưng đã say yêu, đã trút áo xiêm rồi thì cái gì đến sẽ phài đến:
Ðêm phập phồng, ngực nõn hứng trăng non
Môi đón lưỡi uống hương tình bất tận.
Trong thi ca Việt Nam, ta thấy nhiều bài thơ hay về cuộc rượu của nhà thơ với người đẹp như trong thơ Lưu Trọng Lư, Vũ Hoàng Chương, Xuân DiệủNhưng hầu hết những người đẹp đó đều là gái giang hồ, gái nhảy hay kỹ nữ:
Tiếng gà lại rộn trong thôn...
Khoan đừng tơ tưởng vợ con ở nhà
Giờ này còn của đôi ta,
Giang hồ rượu ấy còn pha lệ người,
Ô sao rượu chẳng kề môi,
Lời đâu kiều diễm cho nguôi lòng chàng?
(Lưu Trọng Lư - Giang hồ)
Say đi em, say đi em
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng điên rồ xác thịt
Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết...
(Vũ Hoàng Chương - Say đi em)
Khách ngồi lại cùng em! Ðây gối lả,
Tay em đây, mời khách ngả đầu say;
Ðây rượu nồng. Và hồn của em đây,
Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử.
(Xuân Diệu - Lời kỹ nữ)
Người đẹp trong Say Yêu của Ðặng Xuân Xuyến không phải là gái giang hồ, gái nhẩy hay kỹ nữ nhưng tiếc thay cũng chỉ là người con gái chẳng cần thề non hẹn biển, nguyện ước trăm năm ?như chim chắp cánh như cây liền cành? mà chỉ say yêu một đêm, một lần:
Yêu thương nhé.
Một lần thôi. Là đủ
Ta đâu cần gian díu giữa nhân gian...
Trong bài thơ ?Gửi Trương Tửủ mà khi soạn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã đưa bài thơ này vào sách và cho rằng: Ðây "mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ?, có câu:
Cạn rượu rồi thơ mới véo von
Có thể nói nhờ Rượu mà nhà thơ Ðặng Xuân Xuyến đã cảm khái nên chùm Thơ Về Rượu khá hay và độc đáo. Chùm thơ 10 bài với 10 cuộc rượu khác nhau, lúc độc ẩm, lúc nhị ẩm trong những bối cảnh khác nhau đã diễn tả khá đậm nét nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn chung về nhân thế của nhà thơ, giúp người yêu thơ hiểu thêm về thi nhân và hiểu thêm cái cõi đời sấp ngửa đen bạc này.
Nhìn bộ dạng thư sinh của Ðặng Xuân Xuyến, tôi nghĩ nhà thơ không phải là người hay rượu mà chỉ đáng phụ chén cho cụ Tam nguyên Yên Ðổ, nếu cụ còn sống. Mà cụ Tam thì:
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Ðộ năm ba chén đã say nhè
Phải chăng Ðặng Xuân Xuyến đã mượn rượu và có hẳn một chùm Thơ Về Rượu hôm nay để xóa nhòe đi tất, để ngự lên hiện thực mà ngạo chơi với Thế sự thăng trầm bao tục lụy nàỷ!
*
Mời nhấp chuột vào hàng chữ phía dưới để đọc:
THƠ VỀ RƯỢU - CHÙM THƠ ÐẶNG XUÂN XUYẾNl
*
Sài Gòn, cuối tháng 07.2018
Bài cho tháng 5 - Kính gởi Giao Mùa
https://www.youtube.com/watch?v=XYvhLZmsLCE&feature=emb_logo
MẸ
Bong bóng nước chen chân phóng lướt
Mẹ dầm mình, rảo bước cho mau
Một bên đầy thúng cỏ lau
Thúng kia con trẻ che đầu trốn mưa
*
Không nón lá, mặc mưa buông trút
Mong về nhà trước lúc lên đèn
Toàn thân thấm nước ướt mem
Về nhà hong lửa, sẽ êm ấm liền
*
Vo lon gạo, bắt lên lò bếp
Nướng miếng khô loang khói ngon thơm
Lẹ làng châm nhẹ bó rơm
Luộc rau, mắm ớt, lùa cơm qua ngày
*
Ðời trôi nổi vàng phai gian khổ
Tóc mẹ hiền chớm trổ hoa tiêu
Mồ hôi tắm dẫm quá nhiều
Mẹ già sức yếu, liêu xiêu bước thầm
Chúng ta ai cũng có một người mẹ. Mẹ cho ta hơi thở đầu đời, cho ta hé mắt chào thế gian, nuôi ta khôn lớn từng ngày trôi qua. Thuở ấu thơ là năm tháng hồn nhiên giong ruổi. Mỗi khi nghe cái bụng mình kêu rột rẹt, thì ta đòi mẹ cho ăn, lớn lên thì biết tự động, lật đật đi lục cơm nguội. Mẹ lúc nào cũng cặm cụi lo sẵn mâm cơm gia đình vào mỗi buổi chiều tà, cho dù mệt nhoài, ban ngày bận bịu với công việc mưu sinh.
Thời son trẻ ta chỉ biết cầm bút, mân mê sách vở. Tôi mãi nhớ, khi thi đậu vào trường Trung Học, ba tháng nghỉ hè, tôi đều xin mẹ cho đi học thêm trường ngoài, trao dồi thêm sinh ngữ hoặc Toán Lý Hoá. Năm ấy, ba tôi chỉ là công chức với đồng lương cố định. Chi phí chợ búa, vun vén áo quần cho đàn con được tươm tất, và còn biết bao thứ vặt vãnh khác trong nhà cần chi tiêu. Nhưng mẹ tôi vẫn gật đầu, đồng ý cho tôi tiền đóng học phí. Cũng may, ngôi trường tôi vừa trúng tuyển vào là trường công lập. Mẹ không cần phải nhọc tâm lo đóng tiền hàng tháng.
Nhiều đêm mẹ ngồi tính toán, vẻ mặt có chút âu lo. Bây giờ, tôi mới thấu hiểu, mẹ nhức đầu khi mà tiền nông cạn kiệt, không đủ trang trải tất cả các phần mục, nhất là khi tới ngày phải nộp tiền. Cho dù chật vật lắm, nhưng mẹ vẫn xoay sở chu toàn. Vài năm sau thì các con lần lượt trổ giò lớn như thổi.
..Anh trai phải nhập vào quân ngũ. Ngày mãn khóa quân trường, anh được điều động về vùng cao nguyên gió núi, với nhiều trận đụng độ ác liệt, trong vùng trời xa xôi hẻo lánh rất hiểm nguy. Rừng âm u với biết bao lằn đạn bay vù vù, sống chết nằm trên đường tơ kẽ tóc. Mẹ ở nhà theo dõi diễn biến trên đài truyền hình, nghe ngóng tin chiến sự mà lòng héo hắt, tím ruột nát gan từng giây phút. Anh trai phiêu lưu ngoài tiền tuyến thì mẹ thấp thỏm từng đêm dài.
..Ðường đời gẫy khúc bất chợt, bóng tối đè ập lên đàn con. Tương lai bỗng dưng đi vào ngõ cụt tăm tối mịt mù, không còn một tia sáng dù là một vệt úa nhàu vàng phai.
...Mẹ thúc giục các con phải tìm đường vượt biển, tìm cách thoát thân. Cho dù ai cũng biết, mình phải chấp nhận sinh tử. Ðây là chuyện đương nhiên phải xảy ra, mà mình phải chấp nhận đương đầu đối diện với định mệnh. Thà một lần trèo sóng, nếu sống sót, ta sung sướng hít thở tự do.
..Sau nhiều ngày chiếc lá gỗ lênh đênh, lặn hụp theo bọt biển đại dương. Không ai biết mình có được thoát chết, đến bến bờ xứ người bình yên hay chăng. Hoàn toàn không tin tức bay về Sài Gòn. Khoảnh khắc run sợ một mình, mẹ không dám hé môi than thở với ai. Công an mà biết được thì càng bị hạch sách, trăm ngàn cái khổ.
..Một ngày bầu trời tươi hồng, tở điện tín thơm phức mùi rong rêu biển mặn được cánh chim Hải Âu thương tình đèo bồng, cõng mang về giao tận căn nhà dấu yêu kỷ niệm. Hương thơm tự do vô giá của hòn đảo Pulau Bidong, xuyên mây ngàn, vượt trùng khơi, đậu vào trái tim của mẹ hiền.
Ôi, còn gì hạnh phúc hơn nữa ! Vì giây phút này, không có bất cứ gì trên cõi trần gian có thể mua được nỗi vui mừng trong tâm của mẹ. Niềm hy vọng dâng trào, tuôn tràn đẫm lệ cả trái tim thoi thóp nhiều ngày qua. Có thể nói, lòng mẹ sung sướng nhiều cho đến nỗi, không thể nào đong, đo, đếm bằng lời. Hoặc có thể viết thành hai chữ Tình Mẹ bao la.
Kính chúc quí vị Ngày Lễ Mẹ bình an trong tâm hồn.
Nguyệt San Giao Muà xin cám ơn những thân hữu đã dóng góp bài vở cho Nguyệt San Giao Muà số 217 . Một số bài khác sẽ được đăng dần vào số tớị Mong mỏi sẽ nhận được những sáng tác của các bạn bốn phương để cho Nguyệt San Giao Muà thêm phần hương sắc trong tương laị
2) Ðể rút ra danh sách của NSGM (unsubscribe),
xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
3. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về:
GiaoMua@hotmail.com
4. Mọi bài vở, đóng góp, xin gửi về:
GiaoMua@hotmail.com
Nguyệt San Giao Muà
Homepage: http://www.GiaoMua.com
Thể lệ gửi bài cho Nguyệt San Giao Muà:
Mong bạn gửi Bài cho GM theo cách này là tốt nhất :
1. Dùng mẫu chữ Vietnet (VIQR) hay Unicode
2. Viết Hoa chữ đầu của bài và bút hiệụ Ví dụ: Giọt Mưa Trên Lácủa NS Phạm Duy
3. Gửi bài ngay trong email (không kèm file), để cho BBT khỏi mất công download xuống để đọc
4. Gửi tất cả các bài trong 1 tháng 1 lần trong1 email, nếu tiện.
5. Bài vở xin gửi đến trước ngày 25 mỗi tháng
6. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com
Cám ơn bạn rất nhiều, vì nhân sự có hạn, BBT không thể ngồi đánh máy lại từng đề bài hay bút hiệụ
P.O . Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA
Trang Nhà