Số 222
Ngày 1 tháng 10 năm 2020
Nguyệt San Giao Mùa
P.O.Box
378
Merrifield, Virginia
22116
USA
I . Thơ _______________________________________________________________________
1. Dấu Xưa | ______ Hạo Nhiên Nhiên Nguyễn Tấn Ích | ||||||||||||||||||||||
2. Mừng Tết Trung Thu | ______ Nguyệt Vân | ||||||||||||||||||||||
3. Ai Mang Mùa Thu Về ? | ______Nguyễn Thị Thanh Dương. | ||||||||||||||||||||||
4. Môi Mắt Giai Nhân | ______ Ngọc Long | ||||||||||||||||||||||
5. Vòng Nhân Sinh | ______ Thanh Hà | ||||||||||||||||||||||
6. Miền Vô Ưu | ______Hàn Thiên Lương | ||||||||||||||||||||||
7. Dại Khờ | ______ Nhật Quỳnh | ||||||||||||||||||||||
8. Tàn Tro | ______ Vân Hà | ||||||||||||||||||||||
9. Khấn Cầu Xin Ơn Phước |
______ Thylanthảo 10. Tháng Mười Người Nhớ Hay Quên |
|
______Lê Miên Khương | 11. Ngõ Lạ |
|
______ Ðặng Xuân Xuyến | 12. Buông Bỏ |
|
______ ChinhNguyen/H.N.T. | 13. Bà Tiên - CHIÊN THÁNH |
|
______ Sông Cửu | 14. Hương Hạnh Ngộ |
|
______ Tình Hoài Hương | 15. Giấc Mơ |
|
______ Bạch Liên | 16. Khúc Tình Lơi |
|
______ Phamphanlang | |
II . Văn _______________________________________________________________________
1. Người Khách Cuối Cùng Nơi Nhà Quàn ___________ Nguyễn Thị Thanh Dương | 2. Huấn Luyện Phi Hành (truyện dài nhiều kỳ) ___________ Tình Hoài Hương |
3. Chiếc Áo Len Màu Rêu ___________ Phan thái Yên |
4. Tàn Rụng Trái Mơ Ðời ( kỳ 2 ) ___________ Thanh Hà |
5. Ăn Ðể Mà Sống ___________ Kim Loan |
6. Nghĩ Về Quê Hương ___________ Trần Thành Mỹ |
7. Biết Thêm Nhiều Chuyện ___________ Thủy lan Vy |
8.Nói Về Thơ Hay Của Ngàn Năm Văn Hiến Thăng Long ___________ Phạm Ngọc Thái |
9.Môn và Bạc Hà ___________ Bạchliên |
10.Em Ðến Thăm Anh Một Chiều Mưa ___________ Trần Ngọc |
11.Chị Tôi ___________ Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích | 12.Bà Năm ___________ Hai Hùng SG | 13.Tiếng Còi Năm Xưa. ___________ Trần Thị Hiếu Thảo. |
III . Trả Lời Bạn Ðọc__________________________________________________
1. Nhắn Tin/Trả Lời Bạn Ðọc _______ Ban Biên Tập |
I . Thơ __________________________________________________
II . Văn___________________________________________________________
1. Người Khách Cuối Cùng Nơi Nhà Quàn
Nguyễn Thị Thanh Dương
2. Huấn Luyện Phi Hành (truyện dài nhiều kỳ) Tình Hoài Hương
face="Times New Roman">Tình Hoài Hương
Phan thái Yên
4. Tàn Rụng Trái Mơ Ðời ( kỳ 2 ) Thanh Hà Thanh Hà Kim Loan
Kim Loan Trần Thành Mỹ Trần Thành Mỹ Thủy lan Vy Thủy lan Vy 8. Nói Về Thơ Hay Của Ngàn Năm Văn Hiến Thăng Long Phạm Ngọc Thái Phạm Ngọc Thái Bạchliên Bạchliên 10. Em Ðến Thăm Anh Một Chiều Mưa Trần Ngọc Trần Ngọc Mục Lục Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích Hai Hùng SG Hai Hùng SG Trần Thị Hiếu Thảo. Trần Thị Hiếu Thảo IIỊ Hộp Thư Toà Soạn
___________________________________________________
Thể lệ để nhận Nguyệt San Giao Muà:
1) Ðể vào danh sách của NSGM (subscribe),
xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
Ðịa Chỉ Liên Lạc:
Nguyệt San Giao Muà
Copyright
2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors
Chị Bông chuẩn bị rời sở làm, chiều nay chị làm overtime theo yêu cầu của công việc nên 6 giờ rưỡi mới xong.
Chốc nữa chị sẽ đến viếng bà boss Jessica tại nhà quàn Heaven, nhà quàn cách nơi chị làm khỏang 20 phút. Từ hôm bà Jessica qua đời chị Bông bận việc và quên béng đi không đến viếng bà được, hôm nay là ngày cuối cùng chị có thể viếng vì ngày mai thứ bảy gia chủ sẽ cử hành tang lễ. Chị Bông ân hận tự trách mình xao lãng để chiều nay phải đến viếng người qúa cố qúa muộn
Chị Bông thuộc loại nhát gan hay sợ ma, đến nhà qùan vào buổi chiều trễ muộn chẳng hay ho gì nhưng chị nghĩ biết đâu cũng có người bận rộn hoặc vì bất cứ lý do gì họ đến viếng bà Jessica trễ như chị và chị sẽ gặp họ ở đó.
Chị Bông nhớ lại ngày xưa còn nhỏ ở Việt Nam tuy sợ ma, nhưng tuổi mười bốn mười lăm hay nghịch ngợm, tò mò và thích ?mạo hiểm?, chị và con nhỏ bạn cùng xóm tên Hợp, hai đứa thường rủ nhau, chở nhau trên chiếc xe đạp cũ đến chơi trong nghĩa trang quân đội ở Hạnh Thông Tây Gò Vấp cách nhà khoảng hai cây số vào những buổi chiều rỗi rảnh. Nghĩa trang rộng đẹp, Hợp cũng sợ ma như chị Bông nhưng có hai người nên cả hai cùng trở nên gan dạ, hai đứa đã tung tăng đi cắm nhang cho các mộ bia tử sĩ, lấy nhang có sẵn ai đó vừa cắm trên mộ người thân của họ và chia ra các mộ khác mỗi nơi một hai que nhang cho ấm lòng người dưới mộ.
Chốc nữa cũng thế, nếu chị đến phòng viếng bà Jessica với cùng ai đó thì chẳng có gì phải sợ hãi cả..
Bà Jessica là một manager lịch sự và thân thiện với tất cả nhân viên, mỗi lần xuống shop sản xuất gặp chị Bông bà Jessica thường ân cần nói chuyện và giúp đỡ giải quyết cho chị những khó khăn của công việc khi cần, trong khi bà supervisor xếp trực tiếp của chị Bông thì khó tính khó nết thật khó ưa.
Bà Jessica qua đời vì nhồi máu cơ tim ở lứa tuổi ngoài 50 để lại niềm thương tiếc cho hầu hết bạn bè và nhân viên trong hãng. Chị Bông thương mến bà Jessica và hơn nữa là nhân viên trong hãng điều lịch sự tối thiểu khi một người cùng làm trong hãng qua đời thì không ai có thể làm ngơ không đến viếng hoặc tiễn đưa họ lần cuối cùng được..
Chị Bông vội vàng đi ra bãi đậu xe và nổ máy xe, chị muốn đi nhanh để còn về nhà lo bữa cơm chiềụ.Thế mà chiếc xe của chị lại dở chứng, căn bệnh bấy lâu của nó là thỉnh thoảng phải tắt máy và nổ máy nhiều lần cho máy nóng lên mới chạy được.
Cuối cùng chị cũng đã nổ được máy xe đi đến nhà quàn Heaven, chưa vào mùa Ðông, trời mùa Thu tháng Mười đã nhanh tối, mới gần 7 giờ chiều không gian đã thấm đẫm màu hoàng hôn.
Nhà quàn nằm trên khu đất rộng đường vắng ít xe cộ qua lại bên cạnh một khu rừng nhỏ, hoàng hôn nơi đây càng trở nên thầm lặng, thăm thẳm u tối một màu.
Sắp đến ngày lễ Halloween, lễ ma qủy, không biết có ma đưa lối qủy dẫn đường không mà chị Bông lại đi viếng người chết một mình trong buổi chiều đang tàn đêm gần tới như thế này.
Khu xóm nhà chị Bông người ta đã trang trí cho ngày lễ ma qủy từ sớm, có người trang trí mặt ngoài hiên nhà thật rùng rợn, bộ xương người treo lủng lẳng, một xác chết ngồi thù lù trong chiếc ghế cũ xiêu vẹo như từ thiên thu nào trở về, và cây hoa hồng nở những hoa màu đỏ thẫm xinh đẹp trước cửa sổ cũng biến thành kinh dị tang thương với con nhện độc to tướng giăng tơ trên cây và những giọt máu đỏ rơi xuống loang lổ tưởng như những cánh hoa Hồng đỏ rơi rụng và biến thành những giọt máu. Chưa hết, ngay trên cánh cửa nhà xung quanh là màu vải tang trắng, giòng chữ đen ngòm hắc ám ngoằn ngoèo ghi ?Enter if you dare !!?.
Chị Bông đã mỉm cười thầm ?này chủ nhà, nếu tôi còn là con bé sợ ma ngày xưa thì tôi cùng rủ bạn tôi cả hai cùng đẩy cửa xông vào nhà đấy, đừng có mà thách thức?
Quang cảnh khu nhà quàn làm chị Bông chợt thấy lạnh, ra khỏi xe cảm giác lạnh nhiều hơn, gió đìu hiu và lá vàng khô lác đác dưới chân làm đầu óc giàu tưởng tượng của chị nghĩ những cơn gío lạnh kia từ trong nhà quàn hắt ra, những chiếc lá khô kia là linh hồn các xác chết từ trong nhà quàn vất vưởng bay ra..
Chị tự khích lệ tinh thần mình, lẩm bẩm vài câu cho chính mình nghe:
- Gío mùa Thu mơ màng đáng yêu việc gì mình phải sợ chứ.
- Lá khô mùa Thu xào xạc người ta còn làm thơ việc gì mình phải ngán chứ.
Chị ngẩng cao mặt đón gió thổi vào mặt và cố tình bước lên những lá khô. Có gì đâu, gió vẫn là gió từ đất trời bao la, lá khô vẫn là những chiếc lá khô hết thời xuân xanh thì lìa cành và vô hồn vô tri như rác như bụi.
Vào đến cửa chính của nhà quàn, trước mặt chị là một lối đi thẳng đến một bức tường, qua khỏi bức tường ngay bên trái có một phòng khách cho người thăm viếng ngồi đợi nhưng chẳng có ai ngồi nơi đây, không biết có còn ai đang bận viếng người chết ở bên trong không, ở phòng bà Jessica không? lúc nãy đậu xe trước sân nhà quàn chị không để ý có mấy xe, chỉ nhớ là rất vắng vẻ, chị Bông ngơ ngác nhìn xung quanh và may qúa thấy bà nhân viên đang ngồi nơi bàn tiếp nhận ở bên phải đầu hành lang, bà ngồi khuất lấp thế này nhìn ra ngoài khung cửa thì xa nhưng chắc là rất gần những quan tài. Chị Bông rợn mình tưởng tượng nếu một trong những xác chết chợt?động đây, chợt ú ớ? bà nhân viên có kịp chạy ra ngoài sân không?
Hình như giọng bà vui hẳn lên khi thấy chị Bông xuất hiện:
- Chào chị, tôi là Diana nhân viên tiếp nhận của nhà quàn, chị thăm người qúa cố tên gì?
Chị Bông đến gần bà nhân viên, là một khuôn mặt đàn ông, khuôn mặt vuông, to và dài với đôi hàng chân mày xô lệch không đều nhau, với chiếc mũi cao và dài qúa khổ, với đôi mắt lồi lồ lộ, với đôi môi mỏng dính giữa hai bên má chảy xệ nhưng bà có mái tóc vàng mềm mại úp quamh khuôn mặt đã giúp khuôn mặt ấy có chút nữ tính. Chị Bông thường sợ những loại khuôn mặt nửa đàn ông nửa đàn bà như bà Diana này, chưa gặp người chết chị đã sợ người sống rồi..
- Chào Diana, tôi muốn viếng bà Jessica Andrews.
- Mời chị đến phòng thứ hai bên trái.
Chị Bông nhìn cái hành lang theo tay bà Diana chỉ, bên phải và bên trái hành lang là những vách ngăn thành phòng, mỗi phòng là nơi đặt quan tài người chết, hành lang trước mặt chị là những quan tài và sau lưng chị là người đàn bà mang khuôn mặt đàn ông, chị bị bủa vây trong nỗi sợ hãi nhưng đã đến đây rồi chị không thể quay về, chị sẽ vào viếng bà Jessica vài phút là xong, chị cần bày tỏ lòng tiếc thương và tôn trọng người qúa cố mà chị thân mến.
Chị Bông thở mạnh lấy tinh thần bình tĩnh và tự tin, chỉ vài phút, thời gian sẽ trôi qua nhanh lắm, những lúc chị ngồi bên computer quay qua quay lại mấy tiếng đồng hồ lúc nào không hay.
Chị nện gót giày thật mạnh trên sàn nhà để khua lên tiếng kêu rộn rã và vào đúng căn phòng thứ hai cùng lúc ngoài phòng bà Diana có tiếng phone reo, bà nhân viên bốc phone và nói chuyện với ai đó.nên không gian cũng bớt im ắng lạnh lùng.
Chiếc quan tài vẫn mở một nửa, trong ánh đèn mờ ảo trên nắp quan tài một bó hoa toàn màu trắng, những hoa lá và cành hoa dài phủ xuống quan tài như ôm ấp, như chở che cho người chết bớt lạnh lẽo cô đơn..Chị Bông tin hoa lá cũng có linh hồn, biết đâu trong đêm khuya thanh vắng hồn hoa và hồn người chết sẽ là đôi bạn tri âm chuyện trò?
Chị đến bên cuốn sổ tang để trên một stand gần quan tài và vội vàng ghi tên mình với một câu chia buồn chân tình thân ái trước khi ra nhìn mặt bà Jessica.
Nhưng khi chị Bông đến gần quan tài và nhìn vào chị kinh hoàng bật kêu lên:
- Giời ôi, sao bà Jessica lại hóa thành đàn ông thế nàỷ??!!!
Trong quan tài là một ông, mặt vuông to và dàỉnhư bà nhân viên Diana kiạ!
Có lẽ bà Diana vẫn đang mải nói phone nên không nghe thấy tiếng kêu thảng thốt của chị Bông, chị định thần nhìn lại xác chết và biết là chị bị thần hồn nhát thần tính tưởng bà Diana đã?nhập vào xác bà Jessica để hù dọa chị, xác chết nằm đây hoàn toàn là một người đàn ông, chẳng giống bà Diana.
Bây giờ chị Bông mới để ý đến một khung to dựng đứng cạnh bên stand có cuốn sổ tang, trong khung là rất nhiều hình ảnh của người chết tên Jon McCoy, hình lúc ấu thơ, lúc tuổi trẻ đến tuổi già, tiêu biểu qua từng giai đoạn vui buồn cuả cuộc đời, tấm hình ông Jon cười toe toét như đang chế nhạo chị, như đang nói rằng:
- Chào bà Bông không quen biết, tôi tên là Jon McCoy.. Cám ơn bà đã đi lộn phòng đến thăm tôi.
Chị Bông trân trọng trả lời thầm:
- Ối ông Jon, xin ba hồn bảy vía ông tha lỗi cho sự vô ý của tôi.
Chị vì sợ hãi đến xớn xác đã vào lộn phòng, cũng là phòng thứ hai nhưng bên phải thay vì phòng thứ hai bên trái và càng xớn xác hơn khi tấm khung mang mấy chục tấm hình và tên tuổi người quá cố to lù lù ngay trước mặt mà chị không thấy cứ cắm cúi ghi vội những lời phân ưu vào sổ.
Thế là chị phải xoá tên mình và lời chia buồn đã viết trong cuốn sổ tang của ông Jon McCoy kẻo ngày mai thân nhân người chết đọc những lời này sẽ hoang mang không biết bà Bông nào lại quen với ông Jon McCoy nhà mình.và phân ưu trìu mến thế.
Lần này chị Bông vào đúng phòng thứ hai bên trái, chị cẩn thận nhìn cuốn sổ tang tên họ bà Jessica Andrews đầy đủ đàng hoàng rồi mới viết xuống.
Phòng bà Jessica cũng không một ai viếng như bên phòng ông Jon kia ngoài một mình chị Bông.
Ðến bên quan tài đây mới là gương mặt hiền lành phúc hậu của Jessica người manager hãng chị.
Chị Bông chưa kịp chắp tay cầu nguyện thì chiếc cell phone trong túi áo chị reo lên, nếu bất cứ ai gọi chị trong lúc này chị đã làm ngơ và sẽ gọi lại sau, nhưng thấy tên chồng chị Bông phải nghe phone, anh Bông hỏi sao giờ này chị chưa về đến nhà, chị Bông giải thích cho chồng và nói sẽ về nhà trong vòng nửa tiếng nữa, cái tính xớn xác của chị quên không báo cho chồng biết chiều nay tan sở chị sẽ đến nhà quàn viếng bà boss đã làm phiền chị, kéo dài thêm những giây phút căng thẳng lúc chị đang đứng một mình trước mặt người chết nằm trong quan tài .
Trả lời phone chồng chớp nhoáng cho xong chị Bông vội vã chắp tay nói lời vĩnh biệt bà Jessica một cách thành tâm, nhìn mặt bà lần cuối rồi lại vội vã rời khỏi phòng.
Ra tới bàn bà Diana, bà ta đã xong nói chuyện phone từ lúc nào, bà Diana nói:
- Ngoài trời đang mưa chị có mang dù không?
Chị Bông đi ra phía cửa chính nhìn ra ngoài ..
Mưa Thu mà chị Bông vẫn yêu thích đây mà, nhưng sao mưa lại đến vào lúc này, vào nơi này?. Chị thấy màn mưa giăng giăng trắng mờ và nhớ tới da mặt bà Jessica đã được trang điểm bôi phấn trong quan tài lúc nãy.
Chị Bông vào với bà Diana, thất vọng trả lời:
- Tôi không ngờ là trời sẽ mưa, không mang dù và không áo ấm
- Vậy chị ngồi đây một lát nhé.
Bà Diana thân thiện mời, bà lấy một chiếc ghế cho chị Bông ngồi nghỉ chân chờ mưa và bà kiếm chuyện nói chẳng liên quan gì đến công việc hiện tại của bà:
- :Thời tiết thay đổi bất thường, có những ngày Ðông trong mùa Thu, gío thật lạnh, có nơi còn có tuyết nữả
- Vâng
- Nhưng mùa Thu bao giờ cũng đẹp..
- Vâng.
Chị Bông trả lời hững hờ cho xong vì đang sốt ruột muốn trời tạnh mưa để về nhà. Bà Diana thong thả nói tiếp làm như chị Bông sẽ ngồi đây lâu dài để nghe bà kể chuyện đời xưa::
- Tôi đã có một thời thơ ấu cho đến khi tuổi đôi mươi với những kỷ niệm mùa Thu thật đẹp tại tiểu bàng Utah nơi tôi sinh ra. Ngày đó???
Rõ ràng bà Diana muốn khơi chuyện để cầm chân chị Bông trong nhà quàn này cho có thêm hơi người sống, cho vơi bớt cô đơn và sợ hãi những người chết
Những nhân viên làm việc trong nhà quàn thường là người gan dạ, coi xác chết như vật dụng vô tri chứ không lo sợ hồn ma bóng quế như thường tình người đời, nhưng cũng có lúc họ yếu bóng vìa, cũng biết sợ như bà Diana lúc này.
Một người bạn chị Bông bảo lãnh gia đình người anh sang Mỹ, thời gian dài chưa xin được việc làm anh trai chị rất nôn nóng và khao khát có việc, anh muốn làm bất cứ công việc gì để kiếm tiền, nhưng khi có người giới thiệu anh vào làm việc vặt trong nhà qùan, hút bụi, lau chùi và di chuyển đẩy những quan tài từ phòng nọ sang phòng kia khi cần, công việc chỉ có thế với đồng lương cao gấp rưỡi công việc lao động hãng xưởng mà anh ta cũng từ chối vì?sợ ma, mặc dù ở Việt Nam anh từng lăn lóc cả ngày lẫn đêm trong rừng sâu núi thẳm ở miền Trung đi tìm trầm, đối diện với hoang vu, với bóng tối và bao hiểm nguy rình rập như thú dữ và nhất là bọn cướp sẵn sàng tấn công giết người tìm trầm để chiếm đoạt những khúc trầm hương qúy gía ..
Vậy bà Diana đây thật là can đảm, giá mà bà Diana có ?nhường công việc này cho chị Bông, mỗi ngày chỉ ngồi nơi bàn tiếp nhận, công việc nhàn rỗi lãnh lương cao chị cũng không bao giờ làm, thà rằng thất nghiệp không có tiền và ngồi nhà ăn mì gói sướng hơn..
Chị Bông có lần xem video cảnh chợ búa miền Tây ở Việt Nam, chợ có chuyên những mặt hàng cung cấp cho nhà hàng làm món đặc sản như chuột, rùa, tắc kè và nhiều nhất là rắn. Chị thấy bà bán rắn trong chợ, người phụ nữ này đã thọc tay vào thùng chứa đầy rắn để giới thiệu với khách hàng, những con rắn uốn lượn, trườn mình, quấn quýt, soắn suýt vào nhau và vào cánh tay chị ta mà chị vẫn tỉnh bơ nhẹ nhàng gỡ chúng ra như người ta gỡ chiếc lá khô dính trên vai trên áo.
Bây giờ gặp bà Diana chị càng nể bà Diana gan dạ hơn bà bán rắn kia. Chị Bông không muốn nghe bà Diana kể chuyện ngày xưa, chị đi vào thực tế:
- Mấy giờ nhà quàn đóng cửa hả bà Diana?
Bà Diana nhìn đồng hồ tay:
- Tám giờ, mà bây giờ mới 7 giờ rưỡi.
- Sao nãy giờ tôi không thấy ai đến viếng nhỉ? chẳng lẽ tôi là người khách cuối cùng nơi nhà quàn?
- Chắc thế, vì trời đang mưa, chẳng ai muốn viếng nhà quàn lúc tối và trời mưa thế này đâu. Thường thì đông người viếng vào ban ngày cho tới 5-6 giờ chiều, sau đó thì lai rai là những người bận rộn ban ngày không đến được, trước khi chị đến có vài người khách vừa rời khỏi, trong số đó có 2 người viếng bà Jessica Andrews của chị.
Chị Bông thấy tiếc, gía mà xe chị nổ máy ngay thì chị đã viếng bà Jessica cùng lúc với 2 người kia đỡ sợ biết bao. Chị Bông lập lại:
- Tôi là người khách cuối cùng nơi nhà quàn.
Chị Bông rùng mình khi biết giờ này chỉ có chị và bà Diana trong nhà quàn và không xa là những chiếc quan tài nằm trong mỗi phòng có ánh đèn mờ chập chờn soi khung hình chân dung người chết, có hình mặt nghiêm trang, có hình mặt mỉm cười và ánh mắt đăm đăm nhìn người dối diện, đôi mắt như còn sống, như có hồn, tưởng như mình quay mặt đi ánh mắt vẫn tinh quái ngó theo ở sau lưng, Bên cạnh những khung hình ấy là bó hoa tang hương thơm quyện lẫn mùi người chết thành mùi thơm huyền bí và lạnh lẽo.
Nếu ngay lúc này bà Diana, người có khuôn mặt đàn ông chợt nhìn trừng trừng vào mặt chị và nhếch môi cười, bà chẳng cần nói năng gì cả cũng đủ làm chị Bông lăn đùng ra chết ngất ngay tại chỗ chứ không kịp nhấc chân chạy thoát nữa.
Chị Bông lại là người khơi chuyện để bà Diana bận rộn, không có thì giờ?toan tính hù dọa như chị Bông đã tưởng tượng::
- Bà làm ở đây bao lâu rồi?
Bà Diana được dịp nói về mình:
- Tôi đã làm việc cho vài nhà quàn, nhưng ở nhà quàn này gần 10 năm. Ban đầu tôi học 4 năm đại học về môi trường khí tượng nhưng không tìm được việc, sau nghe bạn bè nói những việc liên quan đến nhà qùan dễ xin việc lương lại khá cao nên tôi học về Funeral Assìstant, bây giờ tôi đã lớn tuổi làm công việc tiếp nhận này cho nhàn hạ.
Chị Bông lại có thêm kinh ngiệm về những ngành học, nhiều người chọn những ngành nghe thật kêu và cao siêu nhưng không dễ xin việc là thế, vừa tốn tiền mượn nợ trong suốt 4 năm học vừa phí đi 4 năm của tuổi trẻ để rồi phải học sang ngành nghề khác, lại mượn thêm nợ, nợ cũ nợ mới chồng chất có khi cả đời trả chưa xong.
Bởi thế chị Bông vẫn quan niệm cha mẹ nên đóng góp ý kiến và hướng dẫn con cái chọn ngành nghề khi vaò đại học, dĩ nhiên tùy theo khả năng của nó, tuổi trẻ mới lớn thường ngông cuồng bốc đồng có khi chọn lưạ không chín chắn.
Bà Diana nói hầu hết những việc trong nhà qùan đều phải có license, kể cả trang điểm xác chết công việc tưởng như bất cứ phụ nữ nào cũng làm được, nhưng không có license thì chẳng ai thuê..
Chị Bông đi ra ngoài cửa chính thấy trời đã bớt mưa nên vào chào bà Diana:
- Tôi phải về đây, chồng con tôi đang đợi tôi về cho bữa cơm chiều đã quá muộn..
Bà Diana biết không thể giữ khách lâu hơn nên cùng đứng dậy tiễn chân chị ra tới cửa, thêm được khoảnh khắc nào bên người thứ hai bà Diana sẽ cảm thấy yên tâm khoảnh khắc ấy còn hơn là ngồi im nơi bàn làm việc bên cạnh những xác chết đếm thời gian trôi qua từng phút từng giây trong buổi tối mưa rơi quạnh quẽ...
Chị Bông đi bộ ra chỗ đậu xe ngay phía trước mặt nhà quàn, trời đã chập choạng tối, đi được vài chục bước chị bất giác quay đầu lại nhìn bà Diana lần nữa, bà vẫn đứng ở đó chưa chịu vào trong, bóng dáng bà đứng chênh vênh nơi cửa dưới ánh đèn vàng trông bà vàng vọt như một bóng ma.
Chị Bông không dám nhìn lâu, chỉ sợ bà Diana bất chợt nổi hứng bước lững thững theo chị ra xe nên chị Bông bước thật nhanh và chui tọt vào xe, quay các cửa kính lên kín mít rồi lock lại ngay.
Bây giờ chị cảm thấy sung sướng, an tâm và an toàn, chẳng sợ gió lạnh, chẳng sợ bà Diana nếu bà dở chứng quái quỷ, chẳng sợ ma cho dù các xác chết trong nhà quàn kia có bỗng dưng vùng dậy chạy ra đây chị cũng sẽ kịp thời nổ máy và vọt đi như những lần chị đã đạp ga cho xe vượt qua đèn vàng trước khi đèn vàng chuyển sang màu đỏ..
Chiếc chìa khoá xe tra vào ổ, máy lại không nổ ngay y như lúc chị khởi hành từ hãng để đến đây, chiếc xe lại đỏng đảnh ăn vạ, điều này ít khi xảy ra và điều này chị đã biết từ lâu mà chưa có thì giờ đem xe đến shop sửa chữa vì xe vẫn chạy ngon, để bây giờ chị phải bực mình hì hục vơí nó, cứ vặn chìa khóa vào, rút chìa khóa ra và cho vào vặn tiếp, trong khi màn mưa Thu nhẹ nhàng vẫn bao quanh tầm mắt chị, vẫn bao quanh những khung cửa kính xe
Không lẽ vì ngày Halloween.gần kề và vì chị Bông đi viếng người chết nên chiếc xe dở chứng trêu chọc chị từ lần đi cho đến lượt về ?
Bỗng chị Bông rợn người, cảm giác lạnh chạy dọc theo xương sống lưng, chị linh cảm có ai đó đang nhìn, đang theo dõi từng cử chỉ của chị vật vã với chiếc xe, chị ngẩng phắt mặt lên và kinh hãi thấy bên khung cửa kính ghế hành khách bên phải chị một khuôn mặt đang áp vào vẻ hối hả và giục gĩa
Máy xe chưa nổ, chị Bông có đạp ga để vọt đi cũng bằng thừa, ai bảo lúc nãy chị tưởng tượng nếu các xác chết vùng dậy chạy ra đây. Trời ơi, linh thiêng đến thế ư??
Nhưng chị đã nhận ra khuôn mặt to vuông và dài như đàn ông và mái tóc vàng óng ả của bà Diana dù mái tóc đã thấm nước mưa làm khuôn mặt bà bơ phờ như người vừa trúng gío..
Bà Diana đập vào cửa kính xe, nói to:
- Mở cửa, mở cửả
Không thể bỏ chạy, không thể ngồi im trước sự giục gĩa của bà Diana chị Bông đành hạ cửa kính xe xuống chừng nửa gang tay đủ nghe bà Diana nói:
- Chị để quên chiếc cell phone này.
Bà đưa chiếc cell phone qua khe hở cửa kính, nhìn thấy chiếc cell phone quen thuộc của mình chị Bông mới tin bà Diana là thật chứ không phải là ma, chị quay cửa kính xuống thấp hơn nữa và lịch sự:
- Cám ơn bà Diana, đây là cell phone của tôi..
Bà Diana không dấu được vẻ sợ hãi còn vương vấn trên nét mặt:
- Chỉ còn mình tôi ngồi canh những xác chết thì tôi giật bắn người khi nghe tiếng phone reo inh ỏi trong phòng xác, chẳng lẽ tiếng phone reo lên từ cõi chết? chẳng lẽ ma qủy hiện về gọi phone cho nhau? Và chẳng lẽ xác chết nào đó còn mang theo cell phone về bên kia thế giới để xài tiếp? tiếng reo không chịu ngừng nghỉ đến nỗi tôi tưởng như các người chết sắp sửa bước ra khỏi quan tài tìm tôi trách mắng đã để tiếng phone reo ầm ĩ làm phiền giấc ngủ trăm năm của họ, tôi phải lần mò vào trong các phòng và tìm thấy cái cell phone nơi phòng bà Jessica, tôi biết ngay là của chị bỏ quên nên chạy vội ra kẻo chị về mất.
Chị Bông áy náy nhìn bà Diana và giải thích về sự xớn xác của mình:
- Lúc nãy trong khi tôi vào viếng Jessica thì chồng tôi gọi, tôi nói chuyện xong vội để cell phone xuống ghế cạnh quan tài để cầu nguyện và vĩnh biệt với người qúa cố rồi quên mất.
Bà Diana cũng giải thích:
- Thú thật với chị tôi là người phụ nữ gan dạ, tin vào khoa hoc chẳng biết sơ ma qủy là gì, nhưng cũng không tránh khỏi có những lúc vẫn yếu lòng sợ hãi bâng quơ kể từ khi tôi vào làm việc tại nhà quàn. Chiều nay nhà quàn vắng khách trời lại u ám muốn đổ mưa, thấy có chị vào thăm tôi đã vui lắm, cũng may chị đã bên tôi hơn nửa giờ đồng hồ.
Chị Bông khích lệ bà Diana:
- Không sao đâu Diana, mưa Thu trong một buổi chiều muộn rất đẹp như bà đã một thời tuổi trẻ từng yêu thích và có kỷ niệm với mùa Thu. Với lại cũng sắp đến giờ bà về nhà?
Chị Bông nói ngon lành thế chứ trong lòng chị chỉ muốn có cánh bay ra khỏi nơi này càng sớm càng tốt,. bà Diana lại thấy vui vì những lời chị Bông:
- Ừ, tôi không nên sợ hãi mới phải, có ma qủy gì đâu, chỉ tại lòng mình mà thôi.
Chị Bông nhìn lại cái cell phone và mỉm cười cho bà Diana thêm vui:
- Và tại cái cell phone vô duyên của tôi nữa, nãy tôi nói với chồng khoảng nửa tiếng nữa sẽ về nhà không ngờ trời mưa tôi ở lại lâu hơn nên chồng tôi đã sốt ruột gọi lại để thăm chừng và làm bà hết hồn...
Bà Diana mỉm cười và giục:
- Chị về đi, lái xe cẩn thận nhé, chúc chị về nhà bình an
- Cám ơn bà Diana, chúc bà buổi tối an vui.
Chị Bông nổ máy xe, lần này máy nổ ròn rã, chị lùi xe và giơ tay vẫy chào bà Diana lần nữa.
Xe ra khỏi khuôn viên nhà quàn Heaven, ngôi nhà quàn và khu rừng Thu tối om mỗi lúc một xa và khuất hẳn trong lòng phố xá.
Chị Bông quay kính xe xuống một chút để hít thở làn gío và mưa của mùa Thu hắt vào, lòng thanh thản niềm vui vì đã thực hiện xong buổi gĩa từ bà Jessica, ngày mai đám tang bà sẽ cử hành chị không đi tiễn đưa được nhưng những lời chị thân ái nói với bà chiều nay chắc linh hồn bà đã cảm nhận và bà Jessica sẽ yên nghỉ nơi mộ phần với những tình cảm của gia đình và bè bạn đã dành cho.
Ðường phố đã lên đèn từ lâu, chiếc xe chị Bông đi trong thành phố, đi trong làn mưa Thu .Bây giờ chị Bông mới thấy mưa Thu trong ánh đèn lung linh huyền ảo thơ mộng và đẹp biết bao
----------
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương 35
CÔN SƠN
(Côn Ðảo POULO CONDOR
còn gọi: Long Range, hay Côn Lôn LORAN)
Tình Hoài Hương
***
Côn Sơn Loran (Côn Ðảo còn có tên gọi là Côn Sơn Long Range, hay xưa kia có tên gọi nữa là: Poulo Condor) với đường chân trời giao hòa nhịp nhàng thắm thiết cùng biển cả mênh mông bao la. Bầu trời xanh xanh, xam xám, nhàng nhạt, mây trắng cuộn từng lọn bồng bềnh, lênh đênh bơi bơi trong không gian ngút ngàn vô tận. Nước xanh lam đậm và tươi ánh, long lanh lung linh như quyện lẫn hoà tan vào nhau, tạo thành đường viền chỉ bạc lóng lánh tít đặm ngàn hải lý nơi chân trời xa mờ xa. Vào mỗi buổi bình minh hay hoàng hôn, mặt trời to to tròn tròn đỏ rực, nhúng lên nhúng xuống nhấp nhô đùa nghịch trong nước quanh Côn Sơn Loran. Mặt trời rạng rỡ vươn cao ánh bình minh, hay ánh tà dương chìm lặn vào chân trời đâu đó, đều quyến rũ tuyệt đẹp và da diết đượm buồm.
Côn Sơn an tọa tại vùng Ðông Nam Việt Nam, được Pháp thành lập vào giữa thế kỷ 19, do kinh tuyến gốc từ đài thiên văn Greenwich ở nước Anh. Ðiều 224 trong bộ luật thời vua Gia Long xưa đã ghi: ?Côn Lôn ngộ xá bất nguyên? (bị dày ra côn đảo, có đại xá cũng không thể về). Xa xăm! Mịt mùng! Ðơn điệu! Lẽ loi! Diện tích đảo Côn Sơn trên tọa độ 8o 40? 57? Bắc & 106/o 36?26? Ðông. Côn Sơn nằm giữa hai kinh tuyến- đi qua hai trục của trái đất, các điểm trên đó cùng một kinh độ: 106/o và 107/o36? Ðông với Sài Gòn; cùng một vĩ độ 8/o36? Bắc với Cà Mau. Côn Sơn nằm ở cuối vĩ tuyến 9, trên mặt phẳng song song với xích đạo, nhìn ngang từ chóp Mũi Cà Mau ra hướng Biển Ðông. Côn Sơn trực thuộc giám định từ khu Bà Rịa Vũng Tàu, trên đường bay 215km hay 116 hải lý. Tổng diện tích toàn diện khoảng 51, 52km2.
Côn đảo là một cù lao khổng lồ hoang vu dầm mình trong đại dương xanh thẳm, lềnh bềnh nhấp nhô bao bọc bởi đại dương bát ngát triều cường sóng vỗ lao xao. Bờ biển sạch nước trong veo tuyệt đẹp. Hải âu soãi cánh ríu rít nô đùa chao lượn trên những ngọn sóng bạc đầu. Gió lồng lộng luôn rì rào dưới hàng phi lao. Sóng cả xô bờ đập vô những mô đá gập ghềnh hùng dũng chạy lui chạy tới, tạo thành nhạc biển hùng ca bất tận, triền miên. Xa thật xa, thỉnh thoảng có những cánh buồm trắng nhỏ li ti, nhấp nhô trên sóng nước biếc xanh. Những cánh buồm ít khi vào bến đậu nơi đây. Thế nên, thuở xưa cụ Tiểu La Nguyễn Thành (1863-1911) đã làm một bài thơ có tựa đề: "Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn" được chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng dịch nghĩa:
Ngày nay năm ngoái đến Côn Lôn
Mưa Thu gió Thu âm thầm làm cho mộng hồn ảm đạm
Tự ta suy đồi mà lòng chưa già cỗi
Có ai hăng hái mà chí vẫn đang còn
Gió mây biến đổi thật lấy làm lạ
Trời đất xoay vần chẳng cần phải nói
Mỗi khi gặp đàn thơ, treo cao ngọn cờ
Thẹn mình đánh trống qua cửa sấm
Và dịch bài thơ ấy như sau:
Ngày nay năm ngoái đến Côn Lôn
Mưa gió trời Thu để đoạn hồn
Như tớ suy đồi lòng chửa chết
Ấy ai khẳng khái khi đang còn
Gió mây tráo chác trăm hình đổi
Trời đất vẫn xoay một quặng tròn
Cao ngất đàn thi cờ phất đấy
Thẹn nghe cửa sấm trống khua dồn (Huỳnh Thúc Kháng)
Năm. Tháng. Ngày, giờ? ngày cũng như đêm lồng lộng sóng cuồn cuộn dập dồn, rì rào gió biển dìu dặt, lao xao. Từ trên phi cơ nhìn xuống vĩ mô, thì dưới những vùng mây lướt mây, trông Côn Sơn giống như một con gấu khổng lồ, dường như nó hờn dỗi phụng phịu quay lưng ?làm ngở nũng nịu chẳng thèm nhìn về đất liền. Một phần ?con gấủ đồ sộ ấy choài ra mé biển xanh ngắt, bề mặt ?con gấủ ngâm mình trong nước loáng bạc, "nó" hướng ra biển Thái Bình Dương. Mũi trước của Côn Sơn mang tên con Chim Chim. Mũi sau tên là Cá Mập. Côn Sơn có một phi đạo nho nhỏ duy nhứt ở Ðầm Trầu chạy dài 10km từ sân bay tới huyện đảo. Sân bay bình thường, đơn sơ không có đài kiểm soát không lưu. Chỉ có vài cột trụ dựng lên mấy cái ?ống gió?, cho phi công dễ nhìn một xí trước khi đáp, để hoa tiêu định được vị trí hướng gió mà thôi. Ô là là! Muốn di chuyển từ Côn Sơn đi về đất liền, thường thường người ta chỉ dùng phi cơ, ấy là phương tiện giao thông duy nhứt mau chóng và an toàn tuyệt hảo lúc bấy giờ (1973).
Một bên là hàng cây bàng già nua, một bên kia là biển cả mênh mông sóng gợn dập dồn. Làng Cỏ Ống là khu vực gần phi trường. ?Con gấu Côn Sơn? cúi nhìn mấy cụm đảo nho nhỏ lân cận của nó là: Hòn Câu. Hòn Bảy Cạnh. Hòn Bông Lan. Hòn Tài Lớn. Hòn Tài Nhỏ. Hòn Vung. Hòn Trứng. Hòn Trác. Hòn Tre Lớn. Hòn Tre Nhỏ. Hòn Bà. Hòn Anh, hòn Em. Cộng chung là có hơn 16 hòn đảo nhỏ tí xíu. "Hòn" ơi toàn hòn thì như thế, mà "Bãi" cũng có chút độc đáo qua tên gọi: Bãi An Hải (hòn An Hải). Bãi Lò Vôi. Bãi Ðất Dốc. Bãi Ông Ðụng. Bãi Ðầm Tre giống một cánh tay con gấu vươn chìa lắc lư theo sóng dập dìu ra biển.
Trạm khí tượng cạnh hồ Quang Trung. Phi Yến. Hàng Dương... Bên phía Tây của hòn đảo Côn Sơn là: Thị-trấn nhỏ bé trồng rất nhiều cây bàng xanh um rợp bóng mát, đơn điệu, hoang sơ, khiêm nhường với những hàng quán lẻ tẻ, có số ít cư dân sống đời đạm bạc, khép kín. Ði xa nữa sẽ lên những trại giam tù chính trị (chuồng cọp). Trại biệt giam B2. Dãy nhà cuối cùng khá xa xa dành cho đám tù quân phạm, những? ?ông? quân nhân, hạ-sĩ-quan, sĩ-quan? bị phạt tù từ 5 năm trở lên, thì ở đây. Ai trong những nhóm tù phạm đó giỏi Anh-văn, sẽ được tuyển vô đài làm việc, họ thoải mái đi lại trong khu doanh trại, ăn uống đầy đủ. Mỗi tháng họ có ít tiền lương rủng rinh xài, được mua sắm trong canteen của Mỹ như ai. Thật ra, trong ?chế độ? VNVH tuy ?bị ở tù? mà họ còn được ưu đãi ?tự do sung sướng chán?, lại vô canteen ăn nhậu như ở ?Ðường Sơn Quán? thoả thuê ha!
Kế đến là hầm Xay Lúa. Cầu tàu 914. Cầu Ma Thiên Lãnh (nghe tên đã thấy rùng rợn bủn rủn cả người). Ðến "thành phố buồn? mang danh nghĩa trang Hàng Dương. Ði mãi tận cuối ?lãnh địa sầu muộn? ta sẽ đến Sở Củi. Nơi nầy, các tù nhân khổ sai đi vô khu rừng rậm bạt ngàn để đốn củi, chặt cây đem về cho trại giam. Côn Sơn có một doanh trại kha khá gồm vài ba dãy nhà. Gần văn phòng có mấy căn nhà nhỏ, để cho Trưởng-đài, Phó-đài, chuyên viên Y-tế xử dụng. Một dãy nhà khác dành cho nhân viên Việt Nam. Từ ngoài cổng đi vào, có mấy con đường tráng nhựa. Dãy nhà đầu tiên là nơi làm việc của đài Phát Sóng, gọi là Loran (Loran gọi tắt của chữ Long Range). Ðây là một trong ba điểm tam giác - để quân đội Mỹ định vị toàn bộ vùng biển Ðông: Ở ngoài Trung có Tân Mỹ Lo Ran (ở ngoài hòn đảo Tân Mỹ). Phía Nam là hòn đảo Côn Sơn Lo Ran. Và, bên phía Tây có Sattahip (ở trên đảo tại Thái Lan) và dàn khoang Ocean Prospector về phía Ðông-nam, cách xa đảo Côn Sơn khoảng 188 hải lý. Những nơi của đài phát sóng đây có nhiều cột antenna cao ngất trời xanh cả trăm mét.
Hôm trước cái bóng đèn điện ở Côn Sơn bị yếu kém, nó cứ xìu xìu ễng ễng chớp chớp tắt tắt rồi tự dưng không muốn sáng nên ?đứt bóng?. Sau đó liền có một chiếc phi cơ chỉ chở duy nhứt một cái bóng đèn, có tốp quân nhân súng ống chỉnh tề đi kèm trên phi cơ, chỉ để ?hộ tống một bóng đèn? từ trong đất liền vùn vụt bay ra Côn Ðảo mà thôi. Bóng đèn rất mắc tiền thì ta không nói, nhưng mà? nhứt là nó là "một vật chính" thiệt quan trọng cuả đài phát sóng. Nó bé xíu có tí ti, nhu mì duyên dáng mà cũng ?le lói, danh dự quý trọng? kinh khủng chưa nào? Về vụ cái antenna nầy, có một lần bóng đèn trực trên đó bị cháy. Ông Trưởng đài vội vàng lên phòng báo tin với cả đoàn nhân viên:
- Suốt ngày nay tôi bận leo lên cột antenna thay bóng cái đèn bị cháy, tôi lắp vào đấy cái bóng đèn mới. Tôi bàn giao toàn bộ đài lại cho Tony trông coi. Nếu có người liên lạc vô tuyến từ đất liền ra, anh cứ trả lời nhe.
Nói xong ông Trưởng-đài mời Hoàng Năm, Tom (thư ký tiếp liệu), và một anh phi công nữa, cùng đứng đó chăm chú nhìn (chứng kiến để ký nhận). Chính tay Mike mở cái hộp carton ra, có nhiều lớp giấy & nhựa xốp bọc lại. Mike dè dặt và thận trọng từ từ mở đến mười phút mới xong những lớp giấy. Sau đó, Mike nhờ thư ký tiếp liệu làm biên bản, để mọi người hiện diện tận mắt chứng kiến, rồi cùng ký tên vào. Ông trưởng đài từ tốn đóng dấu lên tờ giấy xong, ông bỏ trong tủ lớn khoá lại.
Rồi thì Mike thay bộ đồ phi công màu vàng. Mike mang găng tay, chân đi ủng cao, đầu đội mũ bảo hiểm, vai đeo theo túi haversack to nặng. Ðó là những sợi dây an toàn. Cuộn dây nhợ lớn móc bên hông quần Mike. Mike tự bước và móc vô cột antenna rồi từ từ leo lên. Sau lưng Mike là một ba lô nhỏ, mang cả café, coke, và sandwich anh đã làm sẵn được bỏ trong ziploc. Anh chu đáo làm việc trên top cột antenna rất lâu, mãi đến 17:30? Mike vui vẻ huýt gió mới từ từ tụt xuống đất. Nghĩa cử ấy về sự tận tâm chu đáo kiên trì trong tinh thần tận tụy làm việc có trách nhiệm thiệt cao quý của người Mỹ, khiến Năm khâm phục, Năm sực nhớ đến bài thơ "Ðập Ðá Côn Lôn" của cụ Phan Châu Trinh (1872- 1926) khi cụ bị tù đày ở Côn Ðảo, có khác chi Mike bây giờ:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lỡ núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con con? (PCT)
* * *
Trước khi ra Côn Ðảo, tháng tháng, ngày ngày... mỗi buổi sáng Tony (Hoàng Năm) chỉ có việc lái xe hơi đến điểm hẹn, chú tài xế chở anh vô bệnh xá sắp hàng giữa sân, chờ khám bệnh. Ðứng xớ rớ chút cho ?có lệ làng?, rồi anh chuồn! Sau nầy, anh tới trình diện tại đại đội hành dinh Không-quân, anh được giao nhiệm vụ ?cai quản? độ hai mươi người thuộc đủ thành phần. Có tên đào ngũ. Có tên thặng số linh tinh. Có tên lính kiễng. Trung đội ?ruồi ô hợp? ấy chỉ có hai người sĩ quan, là Năm và Thiếu-úy Tâm. Chả hiểu sao Tâm bị truy nã về tội đào ngũ? Trong khi Tâm còn ở trong bệnh xá rành rành thế nầy nè!?
Nhiệm vụ của Tony Năm: Sáng sáng cho họ ra sân, sắp hàng, điểm danh, anh báo cáo lại cho Thiếu-tá Chỉ-huy-Trưởng. Cho họ đi vòng quanh doanh trại lêu bêu cúi nhặt vài cọng rác, nhổ vài cây cỏ mọc ven lề đường, nhặt tàn thuốc lá vất vô sọt rác. Thế là xong. Tony Năm lại cho họ đủng đỉnh ra sân xếp hàng, điểm báo, ung dung đọc vài tin ngắn. Rồi anh ra lệnh cho họ tan hàng. Hàng tháng, họ vẫn an nhàn phây phây lãnh lương. Hàng qúy, vẫn có người đến làm lại sổ sách đàng hoàng (lũng đoạn tài chánh của chính phủ một phần lớn là: do kẽ hở to tát nầy). Năm Tony nằm ở đây từ giữa tháng 4-1968, đến tháng 6?1968, thì nhận được lệnh:
- Phải chuyển ?quý anh? qua bên Tổng Y Viện Cộng Hoà để nằm. Bằng mọi giá, phải cho những người ?an nhàn phơi phới du dương? như thế nầy giải ngũ. Vì trong một cuộc thanh tra bên bộ Tổng Tham-mưu thì anh và viên Trung-uý kia, đều KHÔNG có tên trong danh sách Không-quân, họ cho là ?tụi nó? đã đào ngũ bên Không Quân rồỉ! Trời ơi là trắng trợn và dị hợm! Thế mới chết. ?Hai anh tướng con? vội vàng co giò chạy qua bên Tổng-y-viện Cộng Hoà nằm chơi xơi nước. Và, phải làm cách nào đó để được phép chính thức giải ngũ, mà có ăn lương hợp lý. Xét về cánh tay, và chân của Năm bị gãy, thì nay cánh tay đã tạm ổn. Chân phải đi đứng chưa được vững, hầu như bị tật luôn rồi. Nghĩa là khập khễnh chút chút. Nhưng, cứ coi như bình thường, kể như lành lặn chưa đến nỗi phải đi theo kiểu chấm và chấm phết, hoặc tản bộ điệu cha cha cha... thì làm sao giải ngũ đây? Ông Thượng-sĩ ở bệnh viện, cảm thương anh đã rỉ tai bảo nhỏ:
- Chỉ có cách: tạo ra bệnh suyễn, thì anh mới có thể giải ngũ.
Thế là từ thời điểm đó, Năm bắt đầu hút thuốc phiện. Anh theo bọn ?lính kiễng? thương binh sung sướng nhàn hạ, ?nhàn cư vi bất thiện? kia đi ăn chơi xã láng, hút xách khá nhiều. Mỗi ngày, sau khi làm những công việc nhàn hạ vô duyên của một quân nhân ung dung đi lượm lặt ba bốn cọng cỏ ăn lương, Tony Năm cùng bọn ?lu lả kia lủi mau vô nhà tên Xì Thẩu ở Chợ Lớn, ông ta chuyên cung cấp bàn đèn, thuốc phiện, và sa đoạ với gái. Giá cắt cổ kinh hồn. Trong mắt anh đã nhìn thấy nỗi quằn quại của một người bị tước đoạt mọi quyền hạng sạch trơn, vô nghĩa, trần trụi, khỏi cần bộc lộ niềm đớn đau phiền hận qua ngôn ngữ, cử chỉ. Mà, trải dài ra sự mệt mỏi, khinh mạn, cùng sức chịu đựng lì lợm. Như màn voan xám đục giăng mây đen luôn vây kín từ mọi phía trên đỉnh Cao Nguyên đầy sương mù.
Sau thời gian buông thả đời mình trong đau buốt chán nãn tột cùng, Năm muốn ?quay đầu là bờ? ổn định cuộc sống nên anh lập gia đình. Tưởng rằng ?đã yên? nào ngờ? gia đình Năm ?lủng củng lình xình? chả mấy vui vẻ hạnh phúc tốt đẹp gì, càng rất đau buồn! Thời gian nầy anh đã được giải ngũ. Ở nhà Năm quá chán bà vợ, bà là dân thiếu học mà ưa quậy và phổi bò, bà gây đủ thứ chuyện ồn ào trên trời dưới quận. Phần chính do Năm chán nãn chuyện gia đình đến tột cùng. Phần muốn đi xa nhà, Năm nghĩ: ?Thà xa nhau, để mà gần nhau hơn. Chứ ở cận kề, ngày nào "ông xã với bà xệ" cũng có... ?gấu ó? tưng bừng sóng gió, đay nghiến, dằn vặt, xỉ vả nhau thậm tệ, thì khổ tâm lắm. Nhứt là các con bé tí mà tụi nó biết lo sợ, biết buồn, biết khóc, biết bịt hai tai mỗi lần cha mẹ chúng hung hăng "hùng hồn" ẩu đả to tiếng không ngượng mồm, khiến chúng rất ?hết hồn hết víả.
Ngày ngày anh thất thểu đi tìm một việc làm, tìm mãỉ cuối cùng có được một việc ở công ty điện thoại hãng FEC của Mỹ. May mắn là Tony có người bạn làm trong FEC của Mỹ ân cần giúp cho anh có dịp đọc qua tập tài liệu. Hôm thi trắc nghiệm Anh-văn, ban giám khảo hỏi Năm những chuyện hóc búa, ví dụ phải trả lời như:
- * Trận động đất kỷ lục gây thiệt mạng nhiều nhứt từ trước tới nay xảy ra năm 1557 ở Trung Quốc, khu vực nơi người dân sống trong những hang động bằng đá. Núi đá ấy sụp đổ, giết chết khoảng 830.000 người. Nơi có nhiều động đất phun trào núi lửa nhứt trên trái đất là quanh Thái Bình Dương, thường được gọi là vành đai lửa Thái Bình Dương, gây ra các vụ chấn động nung nóng trải dài từ Nhật Bản tới Alaska và Nam Mỹ.
- * Ðại dương lớn nhứt trên trái đất là Thái Bình Dương, bao phủ một diện tích rộng 165 triệu km2, lớn hơn gấp hai lần Ðại Tây Dương, có độ sâu trung bình 3,9 km.
- * Nơi duy nhứt có sông băng chảy qua đường xích đạo là núi Cotopaxi ở Ecuador, có sông băng duy nhứt vắt qua đường xích đạo. Dãy núi Mid-Atlantic nằm dưới biển gần như chia đôi toàn bộ Ðại Tây Dương từ Bắc tới Nam. Iceland là nơi dãy núi ngầm này nhô lên khỏi mặt biển.
- * Ðiểm tận cùng của nước Mỹ về phía Ðông là đảo Amatignak, Alaska. Ðiểm xa nhứt về phía Tây là Pochnoi Point ở Semisopochnoi, Alaska. Ðiểm xa nhứt về phía Nam là mũi phía Nam của đảo Hawaii. Ðiểm xa nhứt về phía Bắc là Point Barrow, Alaska.
Tony Năm ghi nhớ, nên anh đã vượt qua giai đoạn thi khó khăn, Năm được tuyển chọn, thì ra họ đã cố ý trắc nghiệm tâm lý, kiến thức và trí nhớ dẽo dai. Ðược làm việc, nhưng với điều kiện Năm làm việc ngoài đảo Côn Sơn. Vui vẻ lên phi cơ bay ra Côn Sơn liền, anh cảm thấy hào hứng thoải mái, không bị kềm kẹp bởi bà vợ ưa ?hùng hồn?, anh tự do tung tăng về đủ mọi phương diện. Tuy nơi đây hoang vu vắng lặng da diết buồn thật.
Ở Côn Sơn không bao lâu, nhưng Năm được nghe, chứng kiến nhiều chuyện không thể tưởng tượng, thiệt thú vị, nói ra chả ai tin nỗi vì họ không tận mắt nhìn. Năm và Tiến ở chung một căn phòng xây rộng lắm. Còn những chuyên viên nước khác như: Phi, Ðại Hàn, Ðài Loan, vân vân... thì ở chung một nhà khác. Mỗi nhà đều có phòng tắm nước nóng, nước lạnh. Phòng có máy lạnh, máy giặt, máy sấy, vân vân... Tức là tuy ở ngoài đảo, nhưng đầy đủ tiện nghi ?sảng khoáỉ có lẽ hơn ở đất liền. Có điều là ?tụi mình? không thèm giặt, cứ cho đám quân phạm gần đến lúc mãn hạn tù sẽ được phóng thích ít tiền, là xong hết.
Còn một đám tù khác phục vụ trong nhà ăn, có đám phục vụ làm vệ sinh trong phòng ngủ, trong toilet. Họ làm công việc lặt vặt trong doanh trại để chờ ngày trở về nhà. Ôi! Tóm lại, họ gồm đủ mọi thành phần: Từ những ?anh? sĩ-quan ngổ ngáo từng bắn giết mấy người, đến những ?em? binh nhì hung hăng ném lựu đạn cho chết cả sòng bài lấy tiền vung vít xài hoang. Cả thành phần đào ngũ, giết người vì giành gái, nóng giận đánh lộn với cấp trên, say rượu. Tuy nhiên trong thành phần kể trên, có Trung-úy Kỵ Biệt-kích Dù đóng trên Pleiku bị tù về tội: Lấy AR-15 thẳng thừng ria một loạt, chết hết ba ông Biệt-động-quân say rượu.
Vì, mấy ?ông tướng kiả trong cơn say túy lúy, chỉ ?có ý muốn xàm-xỡ? với mụ vợ ?ông thầỷ (của Kỵ mà thôi!)!! Dù họ chưa rờ mó chắm mút xí xi nào với ?ngài phu-nhân? trét phấn tô son, mụ chưng diện lòe loẹt, đỏm đáng, hở hang khêu gợi quá lố, mụ ưa phô bộ ngực xề xệ độn nòng coi phì nhiêu ra. Chả trách ai mà không thích lom lom dòm cho đã con ngươi xí. (Chớ chẳng phải họ muốn xàm xỡ với vợ của mình, dù vậy Kỵ bỗng muốn dợt le, nổi máu ?yên hùng? tào lao chi địa lên cao độ như rứa mới ác)! Kỵ bị ra tòa án binh lãnh 20 năm tù giam khổ sai. Khi cậu ta ?một mai qua cơn mể có ân hận, thì đã ra Côn Ðảo mà? ở tù.
Hằng ngày, Tony Năm làm việc sát cánh Mike, nên cũng rành về các thủ tục quản trị trong văn phòng. Công việc của anh mỗi ngày ở Côn Sơn: Kiểm soát và làm Time sheet cho sáu nhân viên bảo vệ. Họ đều là người Việt gốc Pakistan, Năm giúp Mike làm hồ sơ và báo cáo khi có việc cần. Hết giờ, Năm đi ăn uống, nghỉ ngơi, ngồi chơi rung đùi xơi cá tươi, tôm hùm, cua, sò, ốc biển mệt nghỉ. Cá, tôm, cua, sò ốc, mực nhiều vô số kể núp dưới những tảng san hô, những gầm hang núi ngầm chìa ra biển.
Lần sau cùng, khi trở ra Côn Sơn, Tony Năm bị chứng ói ra máu, nên Năm báo với Mike (trưởng công ty). Ông Mike vội vàng gọi nguyên một chiếc phi cơ vận tải, loại C-47 Dakota từ Sài Gòn bay ra Côn Sơn, để khẩn cấp chở Năm đi về đất liền điều trị. Người Mỹ thật qúy trọng nhân mạng, dù Năm chỉ là một nhân viên. Năm nằm trong bệnh viện Hoa Kỳ Trird Field Hospital, chụp X-Ray, làm đầy đủ thủ tục y khoa cần thiết, chờ đợi. Năm bị loét bao tử, có một vết to bằng đầu ngón tay, anh nằm đó điều trị hai tháng. Thời gian nằm bệnh viện, ngày ngày bà xã vô thăm anh đã đành. Còn có con bồ cũ ghé thăm Năm. Có lần con nhỏ bồ tỷ tê nói chuyện hủ hỉ ôm hót, hôn hít, khóc lóc về cảnh gia đình nó cho Năm nghẻ thì bà xã anh lù lù xuất hiện, bà ta nổi máu ghen la lối mắng nhiếc um sùm xong, bà ta xông tới một tay túm mái tóc dài con bồ, một tay bà ta thoi đấm túi bụi lên mặt mũi cô ta đến xịt máu, khiến con nhỏ sợ té khói xanh mặt lo lủi mất. Năm nằm trên giường không kịp phản ứng, anh mắc cỡ với mấy y tá, Năm cứ thộn mặt ra chịu trận lôi đình từ vợ trút xuống.
Khi Tony Năm khoẻ lại rồi, lẽ ra, thông thường thì Hãng FEC cho mình nghỉ việc. Nhưng nhờ Tony Năm siêng năng làm việc; đồng thời được sự ?gởi gắm? của Mike, ông ta chứng nhận Năm làm việc giỏi, Năm lại quen thân với một trưởng phòng người Việt Nam. Nên anh được nghỉ phép và ăn lương hai tháng. Trở lại Hãng FEC, lần nầy họ cho Năm làm tạm ?gác cổng? ở văn phòng chính tại đường Phan Ðình Phùng, Sài Gòn. Tuần sau, họ đổi Năm làm ?trợ lý? cho một người nữa, ngày ngày anh cỡi xe cúp đi lên đi xuống ra vô phi trường Tân Sơn Nhứt.
Gần cuối tháng 4-1975, Năm lấy xe Van của bà bồ già tên Tư Râu Rậm (thỉnh thoảng bà ta và Năm vẫn bí mật hẹn hò ái ân) đi làm một bản đồ, trong đó Năm ghi rõ ràng tất cả địa chỉ, nơi nào nhân viên Mỹ đã, đang ở tại Sài Gòn, & các Tỉnh phụ cận ở miền Nam Việt Nam. Thường thường người Mỹ còn độc thân ở tập trung một nơi gần gần với nhau, họ thuê bao nguyên một building nhỏ. Nếu ai có bồ bịch ở Việt nam, hay ai có vợ con từ Mỹ đem qua Việt Nam, họ mới ở riêng và ở cách xa nhau. Khi hoàn thành xong công việc, và giao cho ?sếp?, cũng là lúc Năm đã biết về chiến dịch ?White Christmas? ? Nghĩa đen là ?Chiến dịch di-tản người Mỹ?. Tony Năm vẫn ung dung và dửng dung, vì Năm chỉ thích sống tại Việt Nam! Ngày cuối cùng trước khi ra đi, ông ?sếp? gọi Năm:
- Tôi sẽ ra đi về Mỹ gấp đây. Bây giờ, cái công ty nầy là thuộc về anh.
Năm chỉ cây dù cuả ông xếp lớn dựng ở cuối văn phòng, cười cười:
- Tôi không có ý định đó. Nếu ông chỏ tôi chỉ xin ông ?cây dù đen? kia, để làm kỷ niệm.
Năm giống như:
?Thằng Bờm có cái quạt mo.
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu.
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâủ
Phú ông xin đổi một xâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đồi một bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổỉ nắm xôi. Bờm cườỉ Ha ha ha!
*
Ừ thì? trước năm 1975, ?Bờm? cứ thoải mái vui vẻ cười ha ha ha đi, để rồỉ nếu sau ngày 30 tháng 4 mất nước, mà Bờm không biết lo giữ gìn đất nước quê hương Việt Nam cẩm tú trường cửu và vĩnh thịnh trong độc lập tự do, đó là hòn ngọc viễn đông vô cùng trân quý, và Côn Sơn (Côn Ðảo Poulo Condor) thơ mộng tuyệt vời đầy rung cảm; ?nếủ bị lọt vô bàn tay khát máu của Tàu Cộng? Thì, ?Bờm? không còn thoải mái cười ha hả nữa, mà Bờm sẽ hối hận ôm mặt khóc hu hu hu, là đã muộn mất rồi! Khi đất nước Việt Nam thân yêu nhuộm máu Trung Quốc, chúng trắng trợn ngang ngược vi phạm luật pháp quốc tế, chúng dùng mọi thủ đoạn, vũ lực thô bạo cưỡng đoạt & thủ thuật cướp đoạt chủ quyền cuả Việt Nam, chiếm đoạt Hoàng Sa - Trường Sa - đấy là hải đảo huyết mạch nằm trên tuyến đường chiến lược quan trọng; rồi Ðèo Ngang, Hà Tĩnh? cũng đi đon!
Thế nên Trung Quốc chủ trương bá quyền độc chiếm (từ eo biển Malacca, sẽ lấn đến các nước Ðông Bắc Á, Hàn Quốc, Ðài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản?). Lại thêm những vụ: dân Trung-quốc ?núp bóng? người Việt bằng cách đưa tiền tỷ cho người Việt có điều kiện đứng tên mua nhà ở ven biển, sông ngòi, hải đảỏ Họ mua hơn 246 lô đất ở Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, cụm đất rộng lớn nầy có thể chứa hơn 100.000 người, làm đặc khu cho người Trung-quốc ở. Ðây cũng là kế sách di dân tuyệt hảo cuả Trung Quốc chuyển sang Việt Nam; (chính phủ Trung Quốc sẽ đỡ mang vác gánh nặng hơn một tỷ ba con dân nước họ). Thế mà số ít người Việt chỉ đứng trên danh nghiã ?hợp tác, hợp te, quản lý hờ? với ?con đường tơ lụả, còn mọi vấn đề khác đều do Trung-quốc sở hữu làm chủ; xây khách sạn, lập công ty thương mại nầy, công ty sản xuất, hoặc nhà hàng ăn uống, du lịch nọ! Ðó là vấn đề chính yếu đáng sợ nhứt!
Bây giờ nhà nước Việt Nam còn ?làm? vụ động trời khác -đề xuất lập ba đặt khu ?thuê đất? 99 năm- Hiện nay Trung-quốc đã ?lọt thỏm? vô những yếu điểm quan trọng như Ðà Nẵng, Nha Trang, Vân Ðồn, Quảng Ninh, Bắc Vân Phong, đảo Phú Quốc? vẫn là điều phi pháp! Ðê hèn. Ôi! máu sẽ chảy từ chân núi Bayan Har qua các dòng sông: Yanguoxia, Bapanxia, Daxia, Qinglongxia, v.v? (Tây Tạng, Trung Hoa), máu ngoại bang thắt bím đuôi sam tuôn trào khắp mọi nơi, trôi về trên non sông gấm vóc quê ta, là máu thấm đẫm đến từng chân tơ kẽ tóc dân Việt! là chúng nuốt chửng, nuốt trọn Việt Nam rồi ? thì từ đây sẽ ?sụp đổ & tàn lụi suốt bao thế hệ, từ đời chúng ta và hậu duệ sẽ đau khổ, ngậm ngùi cay đắng, xót xa cùng quẫn dài dài. Vậy thì người Việt (chúng ta) sẽ ngao ngán cúi gầm mặt, đớn đau lủi thủi quay trở lại trang sử buồn? trên những con đường đất nhuộm đỏ máu tươi rất gập ghềnh, hoang phế? (mà tổ tiên đã từng trải qua đầy gian truân khổ ải, lẫn chông gai. Ngỏ hầu cho Việt Nam ?sống? vững mạnh tới bây giờ? mới có chúng ta).
Quyền lực giống một toà lâu đài quá rộng và rất cao. Trong việc xây dựng toà lâu đài (danh vọng, giao tế và thu phục nhân tâm), thì ta cần hoà nhã, thân thiện với đồng môn, thân hữu, để chiêu hiền đãi sĩ, phải biết cách xây dựng cho chắc chắn và vững bền. Nếu một trong bốn bức tường rạn nứt, thì có ngày sẽ sụp đổ cả toà lâu đài. Quyền lực vinh sang hiện đang ?sống? ở trong tay đảng và nhà nước đó thôi, nếu biết cách xây dựng nền móng và duy trì cho vững bền; thì trường cửu và vĩnh thịnh không cứ gì cho chính thân, mà đất nước và con dân cũng được hưởng nhờ ?ơn mưa móc?. Bằng không... một khi chân móng và bức tường rạn nứt lung lay, ắt có ngày sụp đỗ và "chết".
Vấn nạn nầy cũng tương tự như ?dạy học? và ?học tập? là: chúng ta đi tìm con đường chính chắn, đúng đắn, đầy nhiệt huyết cho chính bản thân. Nếu sai lạc những nguyên tắc căn bản về: ngôn ngữ, xuề xòa cách phối trí điều hành, không tôn trọng về tự do ngôn luận, tự do cá nhân, tướt đoạt quyền công dân, cùng sự giáo dục không đoan chính, ?cả vú lấp miệng em? bóp méo sự thật và chà đạp lịch sử dân tộc Việt Nam từng quật cường đứng lên xua đuổi giặc ngoại xâm (như tổ tiên ông cha chúng ta đã từng thể hiện); sẽ khiến trí tuệ và hàng lớp thanh niên của đất nước đó bị băng hoại, đào thải, hỏng cả một dân tộc, mất gốc và tàn lụi theo thời gian, làm hại cả dân tộc & thế hệ con em tương lai. Cớ sao đảng và nhà nước hiện tại, (hay thằng Bờm có cái quạt mo ngày xưa) lại dẫm chân lên vết xe cũ, trùng lặp một 1.000 năm đô hộ giặc Tàu lần nữa, mà không sáng con mắt ra? ? hay vẫn do chủ nghiã: ?100 năm trồng ngườỉ?
Lúc đó ?dân nước tả sẽ bị ngoại lai đô hộ, thống trị trong xiềng xích nô lệ khổ ải trầm luân suốt kiếp! Ðã mất Hoàng Sa và Trường Sa rồi, không chóng thì chày đảo Phú Quốc, Côn Ðảo, vịnh cảng quân sự Cam Ranh? & những nơi thuộc lãnh hải và lãnh thổ Việt Nam; là ?yếu điểm quan trọng nhứt, là pháo đài khó công nhưng dễ thủ?, cũng na ná tương tự -sẽ rơi vô tay bè lũ khát máu Tàu cộng cho mà coi- Thế thôi! Người Việt Nam từ bé chí lớn không thể hết nguôi từng cơn rúng động choáng váng, rụng rời, bàng hoàng rơi lệ, vì kẻ tội đồ bán đất nước.
Tàu chệt đã tràn ngập trên những vùng đất quan trọng ở khu phố Tây sầm uất, (thuộc thành phố Nha Trang). Tôi đến Nha Trang vào tháng 10 năm 2017 mà tưởng chừng như đang đi lạc trên đất nước Tàu đông đúc náo nhiệt ồn ào kinh khủng! Trong nhà ngoài phố đều xuất hiện người Tàu, chữ viết trên tiệm ghi toàn tiếng Tàu & khu Vĩnh Thạnh, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Trung ? Thiệt tình! Cho đến bây giờ mà Ðảng và Nhà Nước không có những ?nhân sĩ trí thức? có thể chế, có ý thức trách nhiệm và tinh thần tự tôn dân tộc? vẫn ?tập trung phá thốỉ không chịu mở mắt ra!? Trời ơi! Giờ phút lâm nguy nầy mà đảng còn ru ngủ dân Việt trong chiêu bài mị dân bán nước: ?Không có gì quý hơn độc lập tự do và hạnh phúc? sao ta? Hãy tỉnh táo lại đi. Chuyện đó ?xưa rồi Diễm, xưa rồi Bờm? !!!
*
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng
Hắn cài vội tấm bảng tên bằng giấy bìa vừa làm xong lên ngực áo bạn trong lúc Tùng vuốt mái tóc bồng thúc giục.
- Lẹ lên, bả đang đi tới kìa.
Thằng Tùng sửa mấy sợi tóc rủ trước trán lần chót, tay ôm chồng sách dày, lấy dáng đi về phía đầu sân bóng rổ. Cô giáo dạy nữ công từ phía văn phòng đi chậm rãi dọc theo sân bóng đến lớp dạy ở cuối trường.
- Xin lỗi có phải cô tên là Trâm?
Cô giáo trẻ thướt tha áo lụa vàng óng nắng mai. Cô l?c d?u nhìn gã học trò lạ mặt, tia mắt đọng trên tấm bảng tên Minh cài vội trên nắp túi áo.
Trước sự im lặng nghiêm trang của cô giáo trẻ, thằng Tùng lúng túng ngoái nhìn đám bạn đang đứng chờ quanh cột bóng rổ rồi thu hết can đảm lôi ra tập truyện Vòng Tay Học Trò của NTH.
- Truyện hay lắm, em mang tới mời cô đọc.
Cô giáo bật cười, đưa tay lấy tấm bảng tên trên áo thằng Tùng cất vào sổ điểm.
- Truyện ni cô đọc rồi. Em cất đi mà làm gối đầu giường. Nhớ lấy bảng tên thiệt ra mà đeo. Coi chừng thầy Tâm Giám Thị bắt gặp, phạt cấm túc thì đừng đổ hô cho cô nghe chưa.
Cô quay lại nhìn nhóm học trò đang đứng bối rối.
- Nếu các em kiếm được cho bạn cái áo len cổ cao nữa thì sẽ giống Minh hơn.
Thằng Tùng hoàn hồn, đứng ngẩn ngơ nhìn theo cô giáo bước khuất vào lớp học.
Hắn trêu bạn.
- Ê Tùng, mày tỏ tình với cô sao tướng giống như khi bị kêu lên bảng không thuộc bài vậy.
- Tại bả thơm lựng làm tao quýnh quá quên hết điều định nói. Mầy ở đó mà nói dốc. Hay lắm thì cỡ gà mắc mưa chớ không hơn gì tao đâu.
Bầy học trò con trai theo sau tiếng trống tan chơi trở về lớp học. Hắn làm mặt tỉnh mà trong bụng lo bấn khi thấy ông Tâm Biệt Ðộng Quân đi ngược chiều. Ông thầy giám thị cao-bồi dừng lại trước mặt hắn, đốt thuốc, nhẩn nha thở khói. Ông nhìn đôi guốc tam tài hắn đang mang, lắc đầu ra vẽ chán nản rồi bỏ đi không nói một lời, miệng dấu nửa nụ cười. Có tiếng nói cười khúc khích của đám con gái ban A ngồi ở dãy bàn đầu cạnh cửa ra vào lúc hắn bước ngang qua lớp họ. Lòng quay quắt muốn liếc nhìn một lần, một giây thôi, đôi môi đang nở nụ hồng tươi tắn. Vậy mà hắn đành tiếc rẻ ngoảnh nhìn khoảng trời xanh trên nóc hàng phượng ngoài sân.
Thằng Tùng khều vai hắn.
- Người đẹp du ca đang nhìn theo mầy kìa.
Hắn nghĩ tới buổi hát chiều nay, tự nhủ lòng, cúi đầu bước nhanh vào lớp.
Lớp học cuối năm uể oải giờ Triết từ chương tẻ nhạt. Thằng Hoành vuốt tóc, ôm vở đứng dậy. Hắn vừa bị đuổi ra khỏi lớp vì tội làm ồn. Ông thầy giảng triết mà gần như đọc nguyên văn từ sách giáo khoa của một vị linh mục. Quyển sách được tái bản hàng chục lần không thêm bớt, đã giúp hắn bày ra trò chơi mới để giúp bạn bè qua cơn buồn ngủ. Mỗi lần thầy bắt đầu một đoạn giảng mới, thằng Hoành lật sách, lên giọng ê a đọc.
- Sách Trần Văn Hiển Minh, chương thứ... đầu bài... trang... dòng...
Ông thầy không dấu được nét bực tức, quay lưng viết câu hỏi bài luận triết mới lên bảng. Nhanh như sóc, thằng Tiến rón rén bước đến bên cửa sổ nhảy ra ngoài không một tiếng động. Xóm nhà lá cuối lớp thèm thuồng nhìn bạn thong dong đút vở túi quần, trốn học đi rong.
Hắn cố gắng chống chọi cơn buồn ngủ. Giọng đọc ông thầy khô nứt, rời rạc mớ triết thuyết chủng viện, cứng ngắc và giáo điều, càng làm cho mắt hắn muốn ríu lại. Hắn tiếc rẻ nghĩ đến thầy Trần Thông dạy Việt Văn hai năm trước. Người học trò của Lê Tuyên khi giảng về Cung Oán Ngâm Khúc cho đám học trò mười lăm mười sáu đã thao thao bất tuyệt về sự thăng hoa của tình yêu trong ẩn ức xác thân và đợi chờ chiếc bóng. Bóng trăng đọng lầu Tây sầu ướt giấc viễn mơ. Và đêm trong trùng điệp đêm nên mộng mị cũng xa vời. Hắn giỏng tai há miệng nuốt từng lời từng chữ lãng đãng cổ thi điển tích.
Ðầu dãy bàn cuối lớp vẫn trống trải bóng dáng cao lớn của Hi. Người anh cả đi Võ Bị của hắn tử trận tuần trước. Lũ trẻ chúng tôi sống lần lữa với tờ giấy hẹn nợ cuối cùng để rồi sẽ phó mặc cho số phận hay đối đầu với sự lựa chọn đanh đá. Chỉ vài tháng nữa nhiều đứa sẽ vào lính sớm chuyện chiến chinh, đứa tiếp tục học hành, đứa quay bước đi theo những hoài bão riêng. Thôi hãy sống cho hết mùa cuối học trò. Làm tờ báo học trò cuối cùng. Hát những bài du ca cuối cùng. Uống với nhau những ly café cuối cùng. Trốn học với nhau thêm vài lần sau cuối. Chờ đợi nhau thêm vài lần cho trót chuyện thương yêu trên bến phà sớm mai, góc vắng sân trường, quán chè trong chợ.
Tan buổi học trưa, thằng Tùng kiếm hắn rủ rê.
- Chiều nay mày muốn cúp hai giờ sau tới nhà con Xinh ở cư xá Duy Tân với tao không?
Nghĩ tới nụ cười tinh quái của cô chị, Phượng Sao Mai, hắn lắc đầu từ chối.
- Mầy không nhớ lần bị con Phượng hù ông già về bất tử, làm bộ tử tế dẫn hai đứa ra trốn sau chuồng gà sao? Ngày hôm sau gặp con nhỏ ở Hội Việt Mỹ tao chỉ muốn độn thổ.
- Thôi đừng giấu tao nữa! Canh me người đẹp du ca thì nói đi. Khi nào thì đám hát rong của tụi mày xong hát với hò ở bệnh viện?
Hắn ngồi lên yên sau chiếc Suzuki của Ðạt, nói lảng.
- Nhớ ghé trường khoảng tám giờ. Tối nay tụi mình ở lại làm báo, ráng quay ronéo cho xong để đóng tập. Hết tiền uống café rồi.
Căn phòng nhỏ gần cổng trường phía văn phòng bề bộn giấy in và dụng cụ làm báo. Một nhóm học trò con trai vừa kéo ra khỏi phòng, đứng chuyện trò dưới hàng hiên. Trời đã tối. Ðêm tháng chạp se lạnh. Ánh đèn dọc theo đường Nguyễn Hoàng loáng thoáng sương mù.
Có lẽ thằng Tùng không có chuyện hứng khởi để kể cho bạn bè về buổi hẹn với con Xinh lúc chiều. Nó đang lôi Vân Hương và mối tình-đầu-không-suy-tư của nó ra để giải thích về tâm lý con gái. Năm đệ tứ khi thằng Tùng theo gia đình ra Ðà Nẵng thì cô bạn học láng giềng Vân Hương của nó không lâu sau đó cũng rời Quảng Ngãi ra Huế. Hai đứa nhà ở chung sân, chơi đùa với nhau từ nhỏ. Năm đệ ngũ, từ một lúc nào đó thằng Tùng không nhớ rõ, hai đứa trở thành bồ bịch. Từ đó nó thôi không ra đứng tắm giỡn mưa dưới máng xối đầu hiên nhà. Qua màn mưa, hai đứa thỉnh thoảng liếc nhìn nhau từ khung cửa sổ. Ðôi mắt con Hương đẹp long lanh. Nó cảm thấy xao xuyến lạ thường. Một buổi trưa, thằng Tùng lén ra hè nhà lấm lét đọc tập truyện tình dục chép tay bạn nó chuyền cho thì bất ngờ con Hương sà đến hỏi han. Thằng Tùng quýnh quáng giấu tập truyện sau lưng trong lúc con Hương tò mò gắng giành cho được. Lúng túng con Hương ngã chồng lên người. Ðôi môi mềm của con Hương chạm lên miệng nó. Thằng Tùng tê lên như bị điện giựt. Lúc nó tỉnh ra thì con Hương đã giật được tập truyện chạy biến vào nhà. Buổi tối hôm đó, thằng Tùng ráng ngồi học bài mà lòng chẳng yên. Nó sợ con Hương đưa tập truyện cho mẹ thì chỉ còn nước bỏ nhà mà đi. Ðang ngồi lo lắng thì khuôn mặt con Hương đột ngột xuất hiện phía ngoài cửa sổ. Con bé không nói không rằng, quăng tập truyện xuống bàn rồi quay mặt bỏ đi.
Từng ngày qua, con Hương nhìn thằng Tùng như người không quen biết. Nó bước theo sau con bé đến trường về nhà như hình với bóng mà chẳng dám mở miệng nói lấy một lời. Nó sợ. Nó khổ sở. Phải chi con Hương quay lại, mắng nhiếc trách móc để nó có dịp đối thoại phân trần thì có lẽ lòng nó nhẹ nhàng hơn nhiều. Hai tuần lễ trôi qua, dài thê lương như thế kỷ. Một buổi tối, lòng buồn, thằng Tùng đứng lặng lẽ bên hè nhà tìm ngóng bóng dáng Vân Hương. Con bé từ đâu đó bước khẽ đến trước mặt nó, không nói một lời, nhón chân hôn thoáng lên môi nó rồi ù té chạy vào nhà. Hắn sững sờ đê mê, lòng phiêu diêu hạnh phúc.
Thằng Tùng hút một hơi thuốc dài, thở khói.
- Kinh nghiệm cho tao biết là khi một đứa con gái làm mặt tỉnh là lúc em đang nóng lòng chờ đợi để được ngã vào vòng tay của mình.
Thằng Ðồng châm chọc.
- Ngã vào vòng tay hay cúi xuống xách guốc đa-kao rượt mình chạy không kịp thở? Nói tóm lại, kết qủa cuộc hành quân chiều nay là phe địch vô sự tỉnh bơ, còn phe ta thì bị cho leo cây.
Thằng Tùng ậm ừ chống chế lúc bầy con trai cười vang.
Hàng phượng sân trường rủ lá im lìm trong bóng đêm. Từ sau buổi sinh hoạt du ca ở bệnh viện về, lòng hắn vẫn bàng hoàng xao xuyến. Bầy trẻ em nạn nhân chiến tranh, ngỡ ngàng lỗi nhịp, vỗ tay theo tiếng hát của những người bạn mới. Hắn ngồi ôm vỗ về một bé trai khoảng bốn tuổi bị cụt cả hai chân vì miểng bom. Ðôi nạng gỗ nhỏ bé như món đồ chơi trái mùa nằm buồn bã trên nền xi măng. Cô bạn học duyên dáng như cánh sen trong chiếc áo len màu xanh rêu. Nàng thắp sáng ngọn nến hồng, cắm trên chiếc nạng. Nàng cúi xuống. Nụ cười đụng lên khuôn mặt xanh xao của đứa bé vừa tìm được niềm vui hiếm có. Ánh nến vờn lung linh trên môi hồng, lên vầng trán thanh xuân. Hắn chợt nghe mình cất cao lời hát. Những mái đầu cúi xuống. Từng đôi mắt nhắm lại để nhìn sâu hơn vào hồn. Cúi xuống cho tắt nụ cười, cho chút da thịt người trong tan hoang vẫn còn bóng mát che ngang...
Hắn bước chậm rãi về phía bóng tối cuối dãy hành lang. Có tiếng ai gọi, cấp bách.
- Người đẹp du ca tới kìa!
Bầy con trai đứng yên như tượng đất dưới mái hiên trường. Cô bạn học trò lách mình qua cổng khép hờ. Hắn bước vội ra khỏi vùng bóng tối, đi về phía nàng. Họ đứng trước mặt nhau. Chiếc áo len màu rêu trên tay cô gái. Trên tay hai người. Nàng nhìn hắn, môi cắn nụ cười lặng lẽ, bước đi. Chiếc áo màu rêu chạm ấm lên môi như một nụ hôn. Hắn sững sờ trông vời theo tà áo trắng vương vấn lòng đêm.
1/-
Mỗi lần cội mai tứ quí ông ngoại trồng trước sân nở hàng trăm đoá hoa vàng rực đón mùa xuân về thì tuổi của Tường Vi được cộng thêm một con số.
May mắn thay ! Con số tuổi cộng dần cao lên bao nhiêu thì tỷ lệ nghịch với nhân sinh quan về một ?tình yêu thánh thiện toàn Chân, toàn Thiện, toàn Mỹ trên mâỷ hạ thấp dần từng nấc thang xuống cho ngang với bề mặt trần thế bấy nhiêu. Chỉ thỉnh thoảng còn la đà vương vất trong sâu thẳm ngóc ngách tâm hồn Tường Vi với chút hy vọng là biết đâu giữa đời thực cũng có một người giống hệt như mình mơ ước.
Nhiều năm sau ..khi đã có một cuộc sống bình an hạnh phúc trong quan niệm giản đơn bình dị nhất, thỉnh thoảng ngẩm nghĩ lại Tường Vi vẫn cười một mình, tự giễu cợt cho sự cầu toàn ngô nghê ấy.
Cô dùng từ may- mắn cho việc cô hạ bớt cái điều kiện khắt khe để có được một tình-yêu đích thực với một người đàn ông đích thực cùng với các bản ngã đích thực gồm lục dục thất tình chứ không phải được nhào nặn hoặc vẽ ra như bức tượng Apollon ( thần thoại Hy Lạp ), bức tranh nữ thần Venus ( thần thoại La Mã ) chỉ đẹp bởi hình thức mà vô tri vô giác. Tức là ở mỗi con người đều trộn lẫn giữa cao thượng và tầm thường, giữa hy vọng và thất vọng, giữa đại lượng và tức giận, giữa tha thứ và căm thù, giữa hân hoan và khổ đaủmà cán cân nghiêng về phần nào ( Thiện hay Ác ) là do tự bản tánh của họ.
Nếu Tường Vi vẫn còn thả hồn trên mây như thuở đầu đời thì cô đã trở thành một bà-cô-già không chồng khó tánh mặt mủi nhăn nhó suốt ngày càu nhàu, phê bình lỗi phải hết chuyện này qua chuyện nọ chớ làm sao hưởng được hạnh phúc với người chồng tuyệt vời mà tấm lòng nhân ái sự dịu dàng tế nhị , hài hước yêu đời đã chuyền sang cho cô tính lạc quan dù trong hoàn cảnh tệ hại nhất vẫn nhìn thấy ?ly nước còn đầy phân nửa chứ không phải đã vơi phân nửa ?. Như người ta hay nói là luôn luôn có ánh sáng ở cuối đường hầm hoặc Trời không lấy của ai hết mọi thứ mà không cho lại ai thứ khác để bù trừ.
2/-
Cái thời Tường Vi mấp mé giữa hai ngưỡng cửa: vẫn chưa hẳn rời vùng tuổi-mới-lớn và chỉ mới lúng túng bước vào tuổi-trưởng-thành. Tương lai là một viễn cảnh sáng tươi hứa hẹn toàn hoa thơm cỏ lạ với nhã nhạc rộn ràng du dương chờ đón ?đó là cô những tưởng phải là như thế?. Ôi đáng yêu làm sao giấc mơ đầu đời của những cô chiêu cậu ấm chưa bao giờ nếm mùi thất bại hay phải đánh vật với cơm áo gạo tiền.
Giấc mơ trở thành cô-sinh-viên giống như chị gái Ái Vy đã trở thành hiện thực.
Lời ba má như luôn bên tai :
-Gia tài ba má để lại cho các con không phải là của cải bạc tiền, mà chính là tạo điều kiện nuôi các con đi học để có một kiến thức và nghề nghiệp, sau nầy các con tự lo được cho bản thân. Tiền bạc thì có thể tiêu tan bởi chiến tranh, tai ương, bệnh tật nhưng kiến thức và nghề nghiệp thì sẽ tồn tại theo mình đến hết đời. Ba má không cần các con sau này trả ơn , mà chỉ cần các con cố gắng học có cái nghề dù là nghề gì khiêm nhượng nhất , đó là cách trả ơn cho ba má đó.
Hiểu vậy nên chị em Tường Vi dốc lòng vào việc học, không dám lơ là.
Mùa Hè Ðỏ Lửa. Ðó là năm mà cuộc nội chiến ở vào giai đoạn ác hiểm khốc liệt nhất, cuồng điên nhất.
Ðó cũng là tựa đề một tác phẩm của nhà văn sĩ quan quân đội VNCH Phan Nhật Nam, đã trở thành một dấu mốc thời gian về cuộc chiến tranh tàn khốc trong lịch sử cận đại.
Tương tự : Thảm Sát Mậu Thân 1968, Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972, Ðại Lộ Kinh Hoàng , Cổ Thành Quảng Trị , Pháo Kích Trường Tiểu Học Cai Lậy 1974?
Nhưng ở thành phố,nhất là trong giới học đường thì mọi sinh hoạt hằng ngày vẫn diễn ra gần như bình thường, hoặc chỉ là bề mặt của tảng băng chìm ? như cách diễn tả hiện nay người ta hay xử dụng - . Tường Vi nói ? gần-như ? bởi vì ?chưa thấy quan tài chưa đổ lệ?, guồng quay của cuộc sống vẫn cứ xoay tròn, việc ai nấy làm, không thể vì chiến tranh mà đình trệ dù mọi người không ít thì nhiều đều ý thức tình trạng dầu sôi lửa bỏng của vận mệnh quốc gia.
( Chắc các nam sinh thì suy nghĩ nhiều hơn , vì ?rớt tú tài anh đi trung sĩ?, mệnh nước có liên quan trực tiếp với mệnh riêng ).
Một hôm anh bạn của chị Ái Vy mang cho mấy chị em cùng lúc hai quyển sách: Bác Sĩ Jivago của nhà văn Nga Boris Pasternak và tuyển tập truyện ngắn Những Cuộc Tình Không Trở Lại, chọn lọc các truyện hay nhất thời đại của nhiều văn sĩ Tây phương. Không hiểu có sự sắp đặt hay chỉ là ngẫu nhiên để cái cô Tường Vi mơ mộng nhà ta lại đọc lần lượt hết quyển này sang quyển kia mà các nhân vật chánh tuy có cuộc sống, thân phận hoàn toàn khác biệt từ đầu cho đến cuối nhưng lại có điểm tương đồng kỳ lạ ở hồi kết thúc, khiến cô sửng sốt ngẩn ngơ như bị ai giáng một cú đấm vào mặt giữa lúc không ngờ nhất vậy.
Những tưởng đoạn kết hai câu chuyện ấy chỉ ám ảnh một mình cô thôi, ai dè cách đây không lâu cô nhắc với Ái Vy :
-Chị có nhớ trong quyển Những Cuộc Tình Không Trở Lại có câu chuyện tình thế này, thế nàỷ ( cô tóm lược vắn tắt )mang tựa gì không ?
Ái Vy trả lời ngay tức khắc:
-Nhớ chứ. Ðó là truyện Chàng Tóc Ðỏ.
-Tác giả nào vậy ?
-Chị không nhớ tên tác giả vì lâu quá rồi, chỉ nhớ man mán là nhà văn Anh hay Mỹ gì đó.
( Mở ngoặc : nếu có ai cũng đọc truyện này mà còn nhớ thì xin bổ sung giùm , thành thật đa tạ. )
-Còn nhân vật bác sĩ Jivago nữa, chị nhớ không?
-Sao mà quên được. Hơn nữa mình còn đi xem phim, tài tử đóng vai bác sĩ ấy đẹp trai quá trời nên càng nhớ lâu nữa.
-Hai cốt truyện ấy có cái kết khá tương tự nhau, buồn thảm quá hén chị.
Chị Ái Vy triết lý:
-Ðúng vậy, cuộc đời có khi chua chát phủ phàng thế đó. Cho nên những ai trong quá khứ đã có mối tình đẹp thì đừng bao giờ nghĩ chuyện về già đi tìm lại hình bóng cũ để khỏi phải thất vọng não nề.
Thì ra không phải chỉ riêng cô không quên câu chuyện ấy, mà cả chị Ái Vy cũng nhớ dẫu đã vài thập niên trôi qua.
Suy ra, chắc chắn hai câu chuyện nầy cũng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng những ai đã đọc nó.
3/-
Chuyện về Bác Sĩ Jivago , tóm lược :
Bối cảnh nước Nga vào những năm đầu thế kỷ 20, chiến tranh thế giới lần thứ I, bác sĩ quân y và cũng là nhà thơ Yuri đã có vợ gặp Lara tình nguyện làm y tá với mục đích tìm chồng đi chiến đấu bị mất tích. Yuri và Lara được phân công làm việc chung. Hai người đem lòng từ cảm mến rồi chuyển dần sang tình yêu dù biết là không thể.
Rồi Cách Mạng Tháng Mười 1917 biến nước Nga thành nước Cộng Sản đầu tiên trên thế giới.
( Giống như Tháng Tư Ðen 1975 đã nhuộm đỏ miền Nam VN trong máu, nước mắt và bần cùng )
Với tâm hồn lãng mạn của một thi sĩ, Yuri luôn bị đồng nghiệp cáo buộc thiếu tinh thần ?cách mạng ? bởi nhận ra sự giả dối nguỵ biện của chế độ mới, sự đói khổ của nông dân, sự đàn áp tàn bạo bắt bớ lưu đày thành phần trí thức tiểu tư sản, thành phần ưu việt trong khi Yuri là người yêu chuộng tự do hoà bình chàng bất mãn với sự khắc nghiệt thiếu tình người của những viên chức, gia đình chàng dời về vùng quê làm ruộng và trở lại làm thơ là sở thích cũng như niềm đam mê tự thuở nhỏ.
Mở ngoặc : Sao giống chuyện đi vùng kinh tế mới hơn 40 năm trước ở xứ của Tường Vi thế !
Tình cờ chàng tái ngộ Lara. Hai người lao vào chuyện yêu đương vụng trộm bị gián đoạn một thời gian. Bây giờ thì không gì để ngăn cản họ được nữa, chàng thú nhận với vợ.
Một ngày chàng bị ? nhóm quân cách mạng ? bắt và buộc phải phục vụ với vai trò bác sĩ. Thời gian sau chàng trốn thoát tìm lại Lara, cả hai rủ nhau tìm về nông trại có thời gian chàng làm ruộng để tiếp tục sống cùng nhau.
Trong khi đó Yuri được tin vợ con chàng ( sau đã dời đi nơi khác ) bị trục xuất khỏi Nga. Cả Yuri và Lara cũng bị đe doạ nên hai người định trốn ra ngoại quốc.
Nhưng vì sự an toàn của Lara, giờ chót Yuri quyết định ở lại, Lara đành ra đi một mình.
Yuri quay về Moscou vừa hành nghề bác sĩ vừa tiếp tục viết văn làm thơ để giải toả mọi ưu uất
Cả hai không còn tin tức gì về nhau.
Mở ngoặc: sao có nhiều điểm tương đồng với hàng trăm ngàn câu chuyện tình thời hậu chiến ở xứ sở của Tường Vi thế !
Mà lúc đọc tác phẩm này, cô đâu nghĩ rằng thảm trạng nhân loại đó sẽ được lập lại y hệt ở ngay chính đất nước mình hơn nửa thế kỷ sau.
Ðoạn kết của câu chuyện :
Nhiều, nhiều năm qua đỉ khi ?cả hai mái đầu đều bạc ? bối cảnh là một nhà ga ở Nga vào buổi sáng mùa đông rét lạnh. Ðám đông nhộn nhịp ngược xuôi,số chờ tàu sắp ngừng để thay đổi vị trí kẻ xuống nhường chỗ cho người lên. Ai nấy đều tất bật vội vã- như bất cứ nhà ga nào trên thế giới- mọi người đi qua mặt nhau mà không ai nhìn ai . Mỗi người đều bận suy nghĩ chuyện riêng của mình, hoặc chỉ bước nhanh cho kịp giờ vào hãng xưởng, văn phòng, buổi hẹn?
Một thiếu phụ trung niên, phục sức giản dị nhưng thanh lịch, gương mặt tuy hằn dấu vết thời gian được bao bọc bởi mái tóc búi cao đã xuất hiện nhiều sợi bạc nhưng vẫn không mất đi nét đẹp thời trẻ từ trên toa bước xuống , nối đuôi theo đoàn người ra cổng.
Một người đàn ông tóc bạc mặc áo len dáng dấp trí thức gương mặt thông minh, nhiều dấu chân chim hằn quanh đôi mắt thẳm buồn đứng đợi cách cửa toa vài mét để đến bịnh viện nơi ông làm việc.
Bỗng người đàn ông lảo đảo, hai cánh tay quơ quào trong không khí rồi ngã vật xuống nền xi măng lạnh lẽo.
Thiếu phụ đang đi bỗng nhóm người trước mặt dồn chậm lại, nghe tiếng kêu : Ô, có người bất tỉnh chắc bị lên cơn đau tim , phải gọi cứu thương.
Bà đi ngang nghễnh cổ nhìn qua vai đám đông vây quanh người đàn ông bất hạnh, chỉ thấy một gương mặt xanh tái im lìm.
Ðám đông xô đẩy nhau bảo đường hẹp phải tránh ra cho đội cứu thương làm nhiệm vụ, buộc bà phải tiến lên, vừa nghĩ thầm :
-Cầu cho ông ấy yên nghỉ bình an, tội nghiệp !
Người đàn ông nằm đó chính là bác sĩ Yuri Jivago
Còn thiếu phụ từ toa tàu bước xuống vừa đi ngang qua ông là Lara.
Họ một thời yêu nhau với mối tình mãnh liệt trong tuyệt vọng , thế mà khi gặp nhau lại không nhận ra nhau.
Sự nghiệt ngã của thời gian là đó. Nó tác dụng lên hình hài gương mặt của chúng ta đến độ ta không còn nhận ra nhau ở thời hiện tại. Bởi trong tâm khảm người nầy chỉ giử lại hình bóng thời thanh xuân của người kia và tình yêu luôn ngự trị trong trái tim là dành cho ảnh hình của quá khứ ấy mà thôi.
4/-
Chuyện Chàng Tóc Ðỏ . Sơ lược :
Một chiếc tàu buôn ghé vào một ốc đảo nằm đâu đó giữa Thái Bình Dương (?)để tránh cơn bão đang hoành hành. Chúa đảo bèn mời viên thuyền trưởng đến nhà ăn tối uống rượu theo thói quen hiếu khách mỗi khi có chiếc tàu lạ nào ghé lại, vì ?ở đây chỉ là cái rẽo đất bé bằng bàn tay, dân số ít ỏi đi ra đi vào chỉ gặp bấy nhiêu gương mặt nên hể có khách lạ thì đều được chúng tôi hoan hô đón nhận nồng nhiệt , để thêm chút sinh khí cho sự cùn mòn đơn điệu hàng ngàỷ , đó là lời chúa đảo nói với khách.
Chúa đảo là người đàn ông có nước da ngăm đen, thân hình rắn rỏi, mái tóc muối tiêu dài xoả vai, hàm răng hơi vàng vì ám nhựa thuốc nhưng đôi mắt vẫn còn tinh anh sáng quắc trên gương mặt góc cạnh khắc khổ.
Thuyền trưởng tóc loăn xoăn rối rắm màu bạch kim, đôi mắt xanh nhạt hơi lờ đờ , hai má phì phị đỏ hồng (vì có lẽ ông nốc nhiều rượu) dáng đi bệ vệ nặng nề bởi chiếc bụng phệ.
Cả hai có lẽ cũng ngang tuổi nhau, độ ngoài 50.
Bên ngọn đèn dầu vàng vọt,hai cái ly, dĩa mồi nhậu khá tươm tất mà thuyền trưởng cũng vì lịch sự không dám hỏi là thịt của con thú gì. Một chai rượu ngoại sản xuất từ Pháp mà chúa đảo nói được tặng từ một trong các tàu buôn ghé qua đảo trao đổi hàng hoá, ông để dành cho những dịp đặc biệt chẳng hạn như đêm nay, tự nhiên ông muốn tâm tình với khách.
-Có lẽ vì thời tiết gió bão ngoài trời khiến ông trở nên yếu mềm chăng ? Thuyền trưởng hỏi.
-Không hẳn. Cũng có lẽ vì nguyên do nào khác mà mình không giải thích được, chỉ cảm nhận bằng giác quan thứ sáu thôi. Chúa đảo trả lời vòng vo.
Thuyền trưởng nốc một hơi cạn nửa ly rượu Dom Perignon ậm ừ không ra vẻ đồng tình hay phản đối
Chúa đảo kể bằng giọng đều đều:
"Giữa lòng đại dương nước xanh ngan ngát nổi lên một ốc đảo được ví như thiên đường nơi hạ giới cũng không ngoa. Bởi khí hậu quanh năm mát mẻ hè cũng như đông. Những hàng dừa thẳng tắp dày đặc khắp nơi cho nhiều trái dùng trao đổi hàng hoá với các tàu buôn. Những bụi dâm bụt, đổ quyên, trúc đào cùng vô số kỳ hoa dị thảo khoe sắc màu đỏ hồng vàng trắng . Bướm từng đàn lượn bay không ngừng từ hoa này sang hoa khác . Trái cây miền nhiệt đới đủ loại. Dưới biển thì cá , sò , nghêu, ốc, trên bờ thì thú rừng cũng như súc vật nuôỉNgười dân từ già tới trai tráng thiếu nữ trẻ con đều hạnh phúc và hài lòng với món quà mà Thượng Ðế hay Mẹ Thiên Nhiên trao tặng.
Những hôm trời trong xanh mấy ngọn dừa lã mình vươn dài ra tận mé nước như muốn hứng làn gió từ biển mơn man thổi vào, dân làng sau giấc ngủ trưa thường kéo nhau ra bãi tắm. Ðám trẻ con đùa nghịch đã đành , mà cả các thanh niên thiếu nữ cũng góp trò làm náo động cả sự yên tĩnh. Nổi bật trong nhóm thanh niên có một nàng thiếu nữ tuổi đôi tám mà nét kiều diễm đôi mắt đen to, mủi thẳng dọc dừa, thân hình trẻ trung bốc lữa, mái tóc huyền chấm eo làm rung động hầu hết trái tim các chàng. Cô gái biết lợi thế của mình nhưng vờ như vô tư kết bạn hoà đồng với tất cả để khỏi tạo sự ganh ghét giữa họ.
Ngày kia ,một chiếc tàu buôn bị bão đánh chìm chỉ có một người ôm mảnh ván trôi giạt vào bãi được dân đảo cứu sống. Ðó là chàng trai độ 19 tuổi , vạm vở mắt xanh biếc , chiếc miệng cười lúm hai đồng tiền duyên, hàm răng trắng bóng . Nổi bật nhất là mái tóc đỏ rực như ráng trời ôm lấy khuôn mặt thanh tân.
Tất nhiên là chàng trai và cô gái bị cú sét ái tình đánh trúng ngay lập tức. Chàng bị nàng thu hút bởi nét yêu kiều, hoang dại của nàng. Nàng bị chàng thu hút bởi vẻ đẹp cháy bỏng của mái tóc đỏ, màu da trắng trứng gà bóc, mắt xanh thẳm màu trời và bởi các giai điệu melody du dương qua giọng hát trầm quyến rủ.
Các bô lão đều cầu mong chàng sẽ cưới nàng ,ở lại làm cư dân của đảo. Hơn nữa để gây giống tốt cho thế hệ kế tiếp, nếu không sẽ có nguy cơ là họ hàng kết hôn lẫn nhau sản sinh ra thế hệ dở điên hay ngốc nghếch.
Thắm thoát chàng đã ở đảo nửa năm. Tuy hàng ngày mọi người đều thấy hai người trẻ luôn cùng nhau bất luận chỗ nào, tiếng cười nói hát ca rộn rã, nhựa sống trào dâng. Nhưng đôi lần đang trong cơn đùa nghịch lặn ngụp cùng sóng biển thân hình chàng bỗng đông cứng sững sờ, ánh mắt dõi theo bóng con tàu như cái chấm nhỏ xuất hiện ở chân trời, vẻ háo hức hy vọng.
Rồi khi biết nàng đang nhìn mình, chàng liền mĩm nụ cười khoe hàm răng sáng bóng, nét vui tươi trở lại, để nàng an lòng. Nàng hỏi :
-Anh nhớ quê hương gia đình phải không ?
-Vâng, anh nhớ ba mẹ và người thân. Chắc họ tưởng anh đã chết theo chiếc tàu đắm rồi. Anh thành thật trả lời.
Nàng lo sợ hỏi tiếp:
-Thế anh có ý định trở về không?
-Nếu anh có trở về thì anh sẽ mang em theo cùng, vì em đã là vợ anh rồi mà.
?Nhưng em lại muốn anh sống ở đây. Vì chỉ nơi nầy mới là nơi thích hợp với em. Vào đất liền chắc chắn mọi người sẽ không chấp nhận em đâu, một thiếu nữ ốc đảo hoang dại thất học. Em làm sao thích nghi với thế giới văn minh của anh được.
Chàng tóc đỏ ôm cô gái vào vòng tay rắn chắc , thề thốt :
-Anh hiểu. Anh sẽ ở lại đây với em. Không khi nào anh rời xa em hết.
Cứ thế thời gian lặng lẽ trôỉ
Hai người trẻ sống trong hạnh phúc ứ tràn tưởng không gì có thể chia rẽ được .
Cho đến một hôm. Có một chiếc tàu buôn loại nhỏ ghé ngang vì ? tình cờ và tò mò muốn biết trên đảo có hàng hoá gì có thể trao đổi không? như lời viên thuyền trưởng. Ông ngạc nhiên nhận ra Chàng-Tóc-Ðỏ :
-Ơ kìa, là cháu đó ư ? Vậy mà mọi người tưởng cháu đã chết theo chiếc tàu đắm rồi.
Ông kể lại nỗi buồn khổ của cha mẹ chàng và yêu cầu chàng theo tàu về cố quốc. Chàng lưỡng lự nhưng sau cùng từ chối, nói đã có vợ và muốn ở lại đây. Nhờ thuyền trưởng chuyển lời cho cha mẹ và hứa trong tương lai sẽ về thăm họ
Viên thuyền trưởng lắc đầu nghĩ thầm:
-Ðây chỉ là sự bồng bột của tuổi trẻ. Qua cơn đam mê rồi chàng sẽ hối tiếc vì làm sao có thể sống ở một nơi hoang dã xa cách mọi tiếp xúc với nền văn minh khoa học kỹ thuật được. Hơn nữa cha mẹ của chàng là người quen biết của ta, ta phải tìm cách đem chàng về với họ mới được.
Vài hôm sau. Họ dụ dỗ Chàng Tóc Ðỏ lên tàu chơi, lấy cớ trao cho chàng một món quà giành tặng vợ nhưng để gây ngạc nhiên cho cô nên chàng chỉ lên tàu một mình chứ đừng báo cho cô biết. Chàng tin lời, lén theo thuyền trưởng trong khi cô vợ đang nấu ăn chiều.
Mọi người trên tàu đã chuẩn bị theo lời dặn của thuyền trưởng, khi chàng vừa đặt chân vào phòng lái thì tàu nhổ neo khởi động máy từ từ ra khơi. Chàng hoảng hốt chạy đến mủi tàu định nhảy xuống nước nhưng đã bị mọi người xúm vào níu chặt , dùng dây trói hai tay hai chân và đè dí vào một góc, mặc cho chàng la thét van nài. Thuyền trưởng nói vào tai chàng:
-Ta buộc lòng đối xử với con theo cách này để mang con về với gia đình và tổ quốc. Và cho tương lai con nữa, tha thứ cho ta.
Dân trên đảo về báo tin cho cô gái. Nàng hoảng loạn chạy ra bãi gào khóc thê thảm nhưng bất lực nhìn con tàu xa dần mang theo Chàng-Tóc-Ðỏ. Nửa trái tim, nửa cuộc đời của nàng cũng theo con tàu rời xa nàng từ dạo ấy.
Khi chúa đảo kể đến đấy thì từ căn buồng phía sau một người đàn bà bước ra, đến mở cánh cửa chính nhìn ra ngoài trời vẻ bồn chồn. Luồng gió lạnh lùa vào phòng, qua ánh đèn dầu thấy màn mưa dày đặc thi nhau rơi ào ạt hắt vào hiên nhà loáng nước.
Chúa đảo giới thiệu với viên thuyền trưởng :
-Ðây là vợ tôi.
Quay sang vợ, ông giải thích :
-Ðây là thuyền trưởng chiếc tàu chở hàng chiều nay neo ngoài bến để tránh bão.
Hai người chỉ thoáng nhìn nhau và gật đầu chào xã giao chiếu lệ.
Vợ chúa đảo lên tiếng :
-Ðể tôi đốt thêm ngọn nến to cho sáng sủa ấm áp nhé. Trời có bão lạnh lẽo quá.
Xong bà đi khuất ra đằng sau. Chúa đảo nói với khách :
-Bà ấy có thói quen mỗi chiều đi ra ngoài bãi ngóng nhìn các con tàu chạy ngang cho đến tối mịt mới về. Từ lúc về làm vợ tôi đến giờ mấy chục năm vẫn giử thói quen ấy, ngoại trừ hôm nay bão hoành hành mạnh quá nên không đi được.
Người đàn bà cao dong dỏng , nước da nâu sậm giống chồng, tóc đen xen lẫn nhiều sợi bạc được vấn vòng quanh đầu , cài bằng chiếc kẹp kèm đoá hoa sứ trắng thoảng mùi hương. Cặp chân mày nhíu lại viền quanh hai hốc mắt đen sâu u buồn. Gương mặt hằn lên nét cô độc lạnh lùng.
Lát sau bà trở ra mang thêm cây nến to đặt lên bàn. Bóng ba người in lên bức vách hình thù nghiêng ngã.
Chúa đảo kéo ghế mời bà ngồi cạnh , nhưng bà từ chối :
-Thôi để các ông ngồi uống rượu với nhau cho được tự nhiên. Tôi xin phép đi nghỉ sớm.
Quay sang thuyền trưởng, bà hỏi :
-Bao giờ thì tàu ông nhổ neo ? Phải chờ tan bão chứ ?
-Vâng. Tôi hy vọng nội ngày mai bão ngớt, tàu sẽ lên đường ngay cho kịp giao hàng.
-Vậy chúc ông thượng lộ bình an. Chào ông.
-Chào bà, cám ơn thật nhiều về sự tiếp đón.
Thuyền trưởng đứng dậy bắt tay vợ chúa đảo . Hai người nhìn nhau lịch sự rồi người vợ vào trong.
Chúa đảo bỗng thì thầm :
-Người thiếu nữ mà tôi vừa kể chính là bà vợ của tôi đó. Còn tôi là một trong số những chàng trai đảo quê mùa đã từng tắm nghịch cùng nàng và si mê nàng điên dại.
Viên thuyền trưởng dường như đã ngà say, chỉ đưa mắt lờ đờ nhìn vào ánh nến lung linh không phản ứng gì.
Ðêm dần về khuya. Hai người đàn ông lặng lẽ uống nốt phần còn lại của chai vang thứ ba.
-Thôi tôi xin phép về thuyền đây. Có lẽ mai trời yên biển lặng chúng tôi sẽ rời bến luôn mà không chào ông nữa. Tôi cám ơn ông bà về buổi tối hôm nay thật nhiều. Không biết có dịp nào quay lại đây không, vì tôi còn đi hai chuyến nữa là xin lên bờ nghỉ hẳn rồi.
Chúa đảo đưa thuyền trưởng đến cửa. Lúc bắt tay để từ giã, chúa đảo nói :
-Một câu hỏi , nếu ông không thích trả lời thì thôi nhé. Tôi có được hân hạnh biết tên của ông không ?
Viên thuyền trưởng không trả lời, mở tung cánh cửa, ra ngoài. Gió đã hơi ngớt, chỉ còn những sợi mưa nhỏ lớt phớt. Khi sắp bước xuống bậc cấp mới quay đầu lại , nói giọng khàn khàn :
-Ðã khá lâu rồi tôi quên, giờ ông nhắc mới nhớ. Ngày xưa người ta gọi tôi là Chàng Tóc Ðỏ !!!
Nàng thiếu nữ yêu suốt đời và mong ngóng trong vô vọng chàng-tóc-đỏ một ngày sẽ quay lại ốc đảo tìm nàng để tiếp nối chuyện tình vừa nở đã bị lìa xa. Nàng hờ hững với người chồng bao năm qua luôn đi bên cạnh cuộc đời nàng, bảo bọc che chở trân trọng sự thuỷ chung của nàng dành cho mối tình đầu. Chấp nhận làm một cái bóng mờ không ghen tuông vị kỷ. Thế mà nàng vẫn không sao quên được người xưa.
Bi kịch ở chỗ nàng chờ mong ngày lại qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm; thế mà khi hai người gặp nhau, không ai nhận ra ai dù một mảy may thoáng chốc.
Trời ơi ! Thì ra nàng chỉ nhớ và yêu một bóng ma dĩ vãng !
Xa em đi như trong cổ tích
Gặp nhau rồi mà không thấy nhau ( T H )
****
Khi mùa dịch Covid ập đến, với một số người Việt tại Canada (tôi đoán chừng) là không có hiện tượng chạy vào Costco hay các chợ khác mua nhiều gạo mắm hay thức ăn tích trữ, ngoại trừ những người nhẹ dạ, lo xa ?
Bởi vì khí hậu Canada tuy có đầy đủ bốn mùa, nhưng trong đó có hai mùa ..giá băng, mấy tháng lạnh lẽo kéo dài, nên gia đình tôi, cũng giống như nhiều gia đình Việt khác, đều có tủ đông lạnh (freezer) loại nhỏ để dưới basement, dành cho việc chứa thêm các loại thịt thà, cá mắm, phòng hờ cho mùa đông lỡ có bão tuyết hoặc đường trơn trợt không thể đi chợ thường xuyên?Do vậy, dịch đến hay dịch đi, tủ thức ăn dự trữ lúc nào cũng đầy ắp!
Và rồi chúng ta đã bắt đầu chung sống với dịch. Kể từ lúc dịch ở đỉnh cao cho đến nay, khi lệnh cách ly đã được nới lỏng, chuyện chợ búa của nhà tôi cũng vẫn duy trì phương châm "đơn sơ, nhanh, gọn": mua vịt quay heo quay ăn với dưa leo bánh mì, xen kẽ mỗi tuần đi chợ Việt hoặc chợ Canada gần nhà. Vào đó, tôi quơ thiệt lẹ vài loại thịt bò gà heo, lấy vài mớ rau và các thứ trái cây (cam quít, chuối, táo ?), thế là đủ sống!
Hôm nọ chồng tôi muốn ăn Phở Bò. "Chuyện nhỏ!" Tôi lục tủ đông lạnh có đủ xương bò, đuôi bò, nạm bò, bò viên. Tôi cũng kịp mua đủ bánh phở tươi, rau quế, ngò gai, giá, chanh, củ hành, gừng ..nói chung là đầy đủ cho một nồi phở. Ui cha, nồi nước lèo thơm ngất ngây, lan toả khắp căn nhà từ trên lầu xuống dưới phòng khách, bay ra cả vườn sau nơi chồng tôi đang cắt cỏ. Xong việc vườn tược, chồng tôi đi tắm, tôi hoàn tất những giai đoạn cuối cùng của nồi phở và chuẩn bị dọn ra cho cả nhà thưởng thức. Mọi thứ đã bày biện sẵn sàng ngoài bàn, tôi mới tá hoả tam tinh khi lục mãi trong tủ lạnh chẳng thấy mấy chai tương đen tương đỏ ở đâu. Vậy là nhà đã hết tương ăn phở mà tôi không biết. Mà cái món phở chúng tôi đã ăn theo thói quen bao nhiêu năm nay là phải có tương, giờ biết làm sao?
Tôi bỗng nhớ lại lần ra Hà Nội chơi năm 1986 (trước khi đi vượt biên), buổi sáng ra chợ Ðồng Xuân, ngay Cửa Nam, vào quán phở, gọi hai bát phở chung với cô bạn. Họ đem ra đúng ...hai bát phở. Tôi nhìn bát phở "solo" mà quá đỗi ngạc nhiên, bèn ..đổi giọng Bắc Kỳ hỏi chủ quán:
- Chị ơi, em bảo này, cho em tí rau giá, được không ạ?
Chị chủ quán khựng lại, nhận ra tôi là gái Sài Gòn giả giọng Hà Nội, bèn lên giọng chanh chua chát:
- Ðây là Phở Bắc nhé, chẳng rau giá gì sất!!
Có chút ngơ ngác cộng với bất ngờ, nhưng tôi vẫn vớt vát:
- Thế quán nhà mình không có tương đen tương đỏ hở bác?
Chị chủ lại nhìn tôi, lần này thì trợn mắt, sẵng giọng the thé:
- Ðây là Phở Bắc nhá! Ðây là Phở "Hà Lội" nhá! Muốn tương thì về Lam (Nam) mà ăn! Rách việc!!!
Chả nhớ bát phở hôm ấy có ngon không, chỉ nhớ cảm giác thiếu thiếu sao đó! Nhưng nhớ nhất vẫn là nỗi lòng bực mình, khó chịu vì bị đối xử như gáo nước lạnh nơi thủ đô nghìn năm văn hiến.
Về Sài Gòn, và sau này qua Canada, hay những khi qua Mỹ chơi, tôi vẫn tiếp tục được ăn phở phải có tương. Riêng bà chị Cả của tôi ở Arlington, Texas thì xưa nay vẫn ăn theo kiểu Bắc (không tương). Chị ấy bảo, nồi phở đang thơm, bát phở đang nồng nàn, mày cho tương vào là hỏng hết! Nhưng biết nói sao với một thói quen đã bao nhiêu năm, nên tôi vẫn ?ngoan cố ăn phở có tương, và gân cổ?cãi chầy cãi cối:
- Ối, phở không tương thì còn gì là "phở"
Thế đấy, mới biết khẩu vị ăn uống của mỗi người là "chín người mười một ý". Kẻ thích tương người thì bảo làm hư phở, người thích giá sống giòn rụm kẻ lại ưng giá chụm, người thích chín nạm gầu kẻ lại mê tái sống bò viên, chưa hẳn đã giống nhau, và cũng không bao giờ có một "chân lý" bất di bất dịch cho bất cứ một món ăn nào!
Trở lại nồi phở mùa dịch của nhà tôi, dù biết thiếu tương là mất ngon nhưng dĩ nhiên, tôi không muốn chạy xe gần nửa tiếng ra chợ phố Việt, rồi có khi phải xếp hàng thêm nửa tiếng nữa (vì mùa dịch nên số người vào chợ bị giới hạn) để chỉ mua hai chai tương! Tôi nghĩ, bà chị Cả tôi và nhiều người khác vẫn ăn theo kiểu Bắc không tương thì đã sao. Tôi cũng nhớ lại lần ăn phở Bắc bất đắc dĩ năm xưa tại chợ Ðồng Xuân, tôi vẫn ăn hết sạch? cả bát phở, có chết ?thằng Tâỷ nào đâu nà!? Do vậy, tôi quyết định sẽ thử ăn phở kiểu Bắc lần này nữa xem sao, cái khó là thuyết phục chồng, con kìa!
Tôi liền mở đầu, dịu dàng:
- Hôm nay nhà mình hết tương, nên chúng ta chịu khó ăn phở không tương theo đúng kiểu ?Bắc Kỳ nhé (chồng tôi người Nam, gốc Mỹ Tho).
Chồng tôi nhăn mặt, lập lại y chang câu nói tôi từng nói với bà chị:
- Trời đất, phở không tương thì còn gì là "phở"
Ðứa con gái cũng hùa theo ba nó:
- Không có tương làm sao con chấm ăn bò viên?
Tôi phải dịu giọng, ngọt ngào:
- Mẹ xin lỗi vì quên mua tương. Nhưng bây giờ mà chạy ra chợ thì chắc đến? khuya mới được ăn phở! Thôi cả nhà mình chịu khó ăn bữa nay thôi, rồi ngày mai ăn tiếp sẽ có đầy đủ tương đen tương đỏ ?
Thế là cả nhà ngồi ăn phở không tương. Quả thật, tôi đã nếm được một mùi vị rất tuyệt vời của nước lèo, thơm béo mùi thịt và xương bò, thanh thanh vị của chanh, dẻo dai miếng bánh phở. Thậm chí tôi còn thấy tô phở nhìn hấp dẫn hơn, đẹp hơn như một bức tranh đa màu sắc: màu vàng nâu trong veo lấp lánh mỡ của nước lèo, màu trắng ngần của bánh phở tươi, điểm xuyết xanh rờn của hành ngò xắc nhuyễn, xen lẫn với màu tiêu đen và những lát củ hành bào, cùng những lát ướt tươi đỏ rực, bên cạnh dĩa rau giá mát rượi. Chồng tôi cũng gật gù, thú nhận rằng, không có tương cũng ...chả sao cả, không đến nỗi ..tận thế, dù dịch Tàu đang hoành hành! Tuy vậy, ngày hôm sau ăn phở "tập hai" thì chồng, con tôi vẫn lại hớn hở nêm tương như thói quen cũ, còn tôi thì đã thực sự thích kiểu phở Bắc (gái Bắc có khác!) nhưng có chút ..lai Nam Kỳ khi ăn kèm thêm rau giá, (có ai cấm đâu!)
Chẳng ai mong chờ đại dịch, nhưng cũng "nhờ" nó, mà chúng ta ngộ ra nhiều điều đơn giản và thấm thía trong cuộc sống mà xưa nay không chú ý. Mọi người đã nói đến chuyện đời phù du, hãy yêu thương và tha thứ cho nhau, hãy tận hưởng những niềm vui nho nhỏ thường ngày dù vẫn còn bóng tối Covid bủa vây, hãy trân trọng hạnh phúc hiện tại với những người thân yêu xung quanh ?
Còn tôi, thì nói chuyện ..ăn uống! Vâng, hãy bớt đòi hỏi khắt khe, trông chờ món ăn phải đúng chuẩn, gia vị này gia vị kia cho vừa khẩu vị hoặc thói quen lâu năm (cuộc đời này vốn dĩ đã không hoàn hảo, có phảỉ).
Cho nên, nhân dịp "sự cố Phở Bắc" này, tôi cũng đã cảnh báo chồng con chuẩn bị tinh thần "có sao ăn dzậy người ơi" và đón nhận những món ăn "không hoàn hảo" trong tương lai (dù còn dịch hay hết dịch) do tôi ..đảm trách: Canh chua không ngò ôm, cà ry thiếu nước dừa, cơm tấm gạo dài không mỡ hành, bún bò Huế không mắm ruốc, bún riêu thiếu "gạch cua " và còn nhiều nữa ...
Hãy đợi đấy!!!
Edmonton, Canada
****
Ðình Gò Táo ở Gò công
Có những kỷ niệm mà mình luôn mơ sống lại hết lòng,
Sở thú Saigon
Có những hoàn cảnh vui buồn mà suốt cả cuộc đời ta không bao giờ quên được,
Con kênh Salicetti ở Gò công nay không còn nữa
Có tình cảm sâu thẳm nào còn mãnh liệt hơn cả tình yêu đôi lứa,
Có những con đường mình đi qua một hay nhiều lần tưởng như không bao còn nhớ nổi mà vẫn còn gây nhớ vương thương,
Có những khuôn mặt hình dáng khuất lấp rải rác thuở nào nghĩ rằng nằm gọn trong vô thức vẫn bồng bềnh trong bộ nhớ,
Có những tiếng cười mủm mỉm reo vang hay ngượng ngập khó tả, tiếng khóc thút thít hay òa vỡ, nỗi buồn ra rít của một ai ấy đó sao mà mình mong nghe thấy lại một lần,
Có tiếng ru à ơi, ầu ơ điểm đệm bằng tiếng kẽo kẹt đu đưa của chiếc võng mắc bên mái hiên nhà giữa trưa hè nắng gắt, sao mà thắm thiết gợi nhớ gợi thương,
Có tiếng gáy ò ó o của chú gà trống dương oai lẫm liệt bên các nàng gà mái đang cục tác bươi đất tìm mồi cho đàn gà con lẩn quẩn chạy quanh,
Cả tiếng chó tru, tiếng mèo ngao thống thiết trong đêm khuya khoắt, tiếng vó ngựa nện nhịp vang trên đường đá từ làng xa ra chợ,
Tiếng cười nắc nẻ, tiếng khóc oa oa của các trẻ hàng xóm, kể cả tiếng gây gổ nẩy lửa giữa các hàng xóm, tất cả vẫn còn có thể trồi lên bất chợt làm nhịp tim ta nhanh chậm liên hồi,
Có biết bao chuyện bực mình ngày xưa ấy, cái nhìn lạnh băng, cử chỉ vồ vập, lời nói đầu môi, thái độ hững hờ bội bạc,? với dòng thời gian cũng được xoa dịu phôi pha biến đổi để trở thành một phần đời nào đó vẫn còn trong ta, thoạt hiện thoát bay.
Các kỷ niệm ấy, hoàn cảnh ấy, tình cảm ấy, sinh vật ấy, đều là dấu mốc vô hình đã được sàng lọc chôn chặt trong ngăn vô thức hay trên hộc cao hơn, tiềm thức, rồi đến một lúc nào đó bật lên ý thức, tất cả đều thể hiện một chi tiết về sự kiện, dáng vóc hình hài hay tâm linh, một phần nào đó liên quan đến nguồn cội mỗi con người trên thế gian nầy mang tên Quê Hương.
Nếu không có quê hương, ta không biết mình là từ đâu đến, gia đình, đồng hương.
Nếu không có quê hương, có thể ta không được biết cái ngọt ngào hay cay đắng của tình yêu, động cơ tuyệt vời có thể giúp ta làm nhiều điều kỳ diệu như cũng như biến đổi con người thành ác thú.
Nếu không có quê hương, ta không biết tình đoàn kết trên thế gian nầy là cần thiết, không một ai có thể sống không sự giúp đỡ của người khác như Sully Prud?homme đã viết « Nul ne peut se vanter de se passer des autres ».
Nếu không có quê hương, chắc ta cũng không hiểu tình nhớ lòng thương sao mà sâu sắc ngọt lịm hay nỗi thống khổ tận cùng tim gan huyết mạch như thế nào.
Nếu không có quê hương, chắc chắn ta không bao giờ biết được lòng tự trọng tự hào của một công dân yêu nưóc tự do dân chủ, hay nỗi tủi nhục của một dân tộc nô lệ bị xâm lăng.
Thật ra, chúng ta ai cũng có đất tổ quê cha.
Không có khoa học kỹ thuật hiện đại tân tiến nào ngay cả kỹ nghệ thẩm mỹ vẫn không biến nổi một người Á thành Âu hay da đen thành trắng được.
Sống tha hương bao nhiêu lâu chăng nữa, dù việc hội nhập rất nhuần nhuyễn, nói năng lưu loát có địa vị cao, thành đạt trong nhiều lãnh vực trong xã hội, người ta cũng có thể phân biệt được nguồn gốc mỗi người.
Dù biết rằng hoàn cảnh của thế giới ngày nay càng ngày càng phức tạp, việc thay đổi quốc tịch không làm cho ai ngạc nhiên, tuy nhiên dân tộc nào cũng vẫn còn giữ những nét đặc thù của quê hương mình, ít nhiều truyền thống phong tục của cha ông.
Vậy thì đừng để tính mặc cảm tự ti hay chán nản bi lụy, thờ ơ trước hoàn cảnh riêng hay chung của đất nước mà luôn luôn cố bình tĩnh tập thích nghi hội nhập, sống tự trọng tự lập vươn lên.
Không nên quá bận tâm cho tương lai thế hệ sau nầy, dù con cái ta có bị bứng khỏi nguồn cội ông cha, nhưng với chiếc gương trước mặt là cha mẹ, đồng hương cộng thêm một nền giáo dục tân tiến trong một xã hội văn minh, thế hệ kế tiếp sẽ có thái độ thích ứng, đúng đắn, chính chắn, rạch ròi hơn trong mọi tình huống chắc chắn là khác trước kia.
Ðối với ông bà quê hương là tất cả, ta thương ta nhớ và hằng mong một ngày trở về trong tâm tình ngày trước, còn nước tiếp nhận cho ta tị nạn chỉ là quê hương thứ hai, như tâm trạng tình cảm của một người con nưôi dù được đùm bọc tận tình.
Ngược lại con cháu chúng ta lại xem nước định cư quê hương của họ, đó là điều tự nhiên đúng thôi. Phong tục tập quán truyền thống giáo dục cũng không giống nhau, có khi hoàn toàn khác biệt nữa là. Con cháu mình đâu có tắm trong văn hóa văn minh ngày trước làm thế nào hiểu được cái hay cái đẹp để bảo tồn phát huy.
Hơn thế nữa, phải công nhận tiếng Việt, một tiếng đơn âm có dấu rất phong phú dồi dào không dễ gì hiểu thấu đáo, phát âm hay viết cho đúng, và sử dụng lưu loát dễ dàng. Xin thử nghe một người Việt sống lâu ở nước ngoài, ta có thể đoán được ngay người ấy cư ngụ định cư trước kia ở đâu vì thông thường trong một câu nói, vô tình hay hữu ý, thường pha trộn một vài tiếng ngoại thật?Việt. Và càng sống lâu ở nước ngoài và tiếp xúc thường xuyên với môi trường sinh hoạt mới, cách phát âm cũng mang ảnh hưởng đậm tiếng nước sở tại không còn hoàn toàn như tiếng mẹ quê hương.
Nước chảy xuôi dòng, nếu ta nhận chân rằng không thể ngăn chận sự luân lưu biến đổi trên thế giới thì cố gắng vui sống hội nhập, tự lực, tự trọng và nếu còn có thể góp phần bằng trí lực khả năng của mình trong cuộc sống thường nhật xã hội bất cứ nơi nào trên thế giới.
Vẫn biết rằng nếu ta không yêu quê hương ta thì ta không thể nào thương được nước người. Nhưng mối tình quê hương ấy cũng không giống nhau, mỗi người mỗi cách.
Vậy thì, thầm nghĩ rằng nếu mỗi người chúng ta đều cố gắng sống tốt hết lòng tha nhân mà vẫn không để mất cái « mình» thiện của mình trong mọi hoàn cảnh đã đều xứng đáng là một người con lương dân của tổ quốc quê hương.
**
Vào tù,tôi biết ăn nhiều thứ rau, mà thời ở nhà, lúc đi lính ? tôi chưa hề được ăn, có thứ đã thấy có thứ chưa từng thấy, qua những loại đọt cây, đọt dây mà Mẹ tôi thường mua, hay hái cắt chung quanh sân nhà như đọt nhản lồng( Chùm bao) đọt keo ( Cây bình linh, cây đuôi phụng), rau muống rau ngổ, rau dền? Mẹ thường luộc chấm nước cá kho
Cũng giống như bao nhiêu người Sĩ quan buông súng trình diện đi tù, Trại tù đầu tiên trong đời tù của tôi , trại có tên treo bảng trước cổng dài lê thê: Trại cải Tạo Ngụy Quân Nguỵ quyền Gò Công, thường được gọi tắt là trại Huyện tây.
Gò Công thời đệ nhất Cộng Hòa là Quận Gò Công thuộc tỉnh Ðịnh Tường, thời đệ nhị Cộng Hòa phục hồi thành tỉnh, có duy nhất một quận là Quận Hòa Ðồng, cơ sở hành chánh đóng tại xã Vĩnh Lợi. Cuộc chiến kéo dài ? Ðể thích ứng với tình hình chiến sự, Gò Công thành lập thêm 3 quận nữa là Hòa Tân ( Tại làng Tân Niên Tây) Quận Hòa Lạc ( Tại làng Tăng Hòa) và Quận Hòa Bình ( Làng Bình Luông Ðông). Việt Cộng về, Gò Công trở thành 2 huyện : Gò Công Ðông ( Hòa tân và Hòa lạc) Gò Công tây ( Hòa Bình và Hòa Ðồng ) thuộc tỉnh Tiền Giang. Bây giờ thì Gò Công được nâng lên hàng Thị xã, cũng gồm 2 huyện và trực thuộc tỉnh Tiền Giang. Trại tù là một trại gia binh của quận Hòa Ðồng, bên nầy cầu trên đường vô quận, nên có tên gọi là Trại huyện tây .Trại gia binh cất trên khu đất khô cằn, sân xung quanh, cỏ mọc thưa thớt, chẳng có rau hoang nào mọc được, nhóm tôi cố gắng trồng 1 liếp khoai lang, nhưng do nước mặn, nên lang bò chậm, đọt mau già, tuy vậy vài tuần cũng hái được vài chục đọt ngắn, có khi luộc có khi ăn sống cho tổ 7,8 mạng.
Lúc chuyển lên trại tù Mỹ Phước tây, đất Ðồng Tháp tuy đầy phèn, nhưng nước ngọt, nên ngòai đồng hoang, cỏ rau mọc xanh rờn, chỗ nào có nước là có đĩa, có cá, có những khoảnh đất rộng, mọc đầy rau ngò om, rau mọc trên bờ rau mọc dưới nước, tuy nhiều như thế, nhưng với trên dưới ngàn tù, mỗi ngày đi về, tù nào cũng hái cũng lặt, rồi cũng phải còi, mạnh chân tách chạy khỏi đoàn vào sâu hơn, hái vội vàng, mới có nắm rau, phụ thêm phần cơm khiêm nhượng ?Rau diệu, ăn cũng như rau dền, có 2 loại rau diệu, loại đầu lá thon , loại đầu lá tròn luộc hay nấu canh với con cua con cá con nhái.. bắt được bên đường, , rau diệu còi hết thì nhổ đở rau chốc, cải tàu bay( hiếm khi gặp), rau đắng, rau má? Rau chốc ăn xãm cổ, loại rau nầy dân quê hái nấu cho heo ăn. Dưới lòng kinh có Hẹ nước, mọc từng buội dưới đáy lòng kinh, đầy phèn vàng, ăn cũng dai xãm xì, nhưng kẹt quá cũng dùng đở.., có rau ăn còn hơn không Cọng súng may ra mới gặp, mình chậm chân khó nhổ được loại nầỷ Mùa nước nổi, cây điên điển trổ hoa vàng cả một khu rộng lớn ? Nước ngập tới đâu nó vẫn sống vươn bông lên mặt nước? hái bông, phải chịu cho đĩa bám ? bông nó có hình thức như bông so đũa, nhưng rất nhỏ, màu vàng.. Hái về xào, luộc? có thời giờ nấu canh chua với con rắn bông súng, hay ếch nhái gì đó cũng đều ngon? Mùa điên điển nở, dân hái về nhận chua, chấm nước thịt cá kho ăn hao cơm lắm.
Lúc chuyển tù ra trại tù Hà tây, chung quanh nơi lao động cũng có nhiều rau hoang, cũng rau diệu, rau sam, thêm thứ rau mà tôi chưa biết, rau khúc.. Tù hình sự cho biết là rau nầy để ăn với bánh khúc, cho tới bây giờ tôi cũng chưa biết bánh khúc ra làm saỏ Biết nó là rau, cứ hái về ăn sống, không sợ bị đớ lưỡi là cứ nuốt;trên những chỗ đất cát, rau sam mọc tươi tốt? hái được rau sam , là mừng lắm, nấu canh chua , có thêm vài con tôm khô thì dách lầu !Tôi ở đội rau , 4, 5 năm trời , số lượng rau muốn lén hái đem về ăn, có số lượng nhiều hơn lượng rau muống tôi đã ăn từ bé đến đến lúc ra đi ? .. Mấy năm đầu, hái lén một bao cát rau nhận ém đầy, về luộc chín cũng phải trên 2 kí lô, tôi sực trong vòng chưa tới một giờ là hết sạch, đứng dậy liếm mép nhìn son không?!
Lúc qua đội cá , đi vớt rong cắt cỏ ngoài khu làng dân, tôi có dịp nhìn rõ cảnh vật mà ngày xưa, tôi chỉ được đọc trong văn thơ của các tác giả ngoài Bắc, tôi biết thêm tên nhiều loại cá mà trong Nam không có? Ðất Bắc không sao tìm thấy con cá sặc, cán bộ khám quà nhìn thấy con khô cá sặc , quà gia đình gởi ra, to bằng bàn taỷ lần đầu, cầm khô cán bộ Phấn ( Phấn phốc) nhìn tới nhìn lui, đầy vẻ ngạc nhiên
Hồi học văn chương với thầy Nguyễn Thiên Thụ, giảng khóa thấy dạy về Tản Ðà, , thấy bình giảng bài thơ con Chẩu Chuột và con Quốc, lâu quá chưa chắc tôi còn nhớ nguyên văn: Bờ ao buôi rậm có con quốc- Dưới nưới có con Chẩu Chuột-Hai con cùng ở cùng hay kêu- môt con kêu thảm con kêu
nhuốc- chuột kêu đắc ý gặp trời mưa, quốc kêu đau lòng thương xuân qua-cùnbg một bờ ao một buội rậm -Hai con cùng ở mà khác xả Tôi nhớ rõ lời thầy giảng : Con Chẩu chuột là một loại ếch nhái .Thầy giảng tôi nhớ nhưng rất khó hình dung ra con chẩu chuộc ra saỏ?, những đêm trời mưa, sáng trời còn sương, đi trên bờ ruộng rau muống, thỉnh thoảng nghe âm thanh thật to : Chuôốt, chỉ một tiếng thôi,tôi hỏi bạn tù về đội cá trước tôi ? con gì kêu kỳ cục vậy. Khi biết là con chẩu chuột, tôi để tâm, có ngày lội ruộng sẽ bắt xem cho biết, và tôi bắt được. Nó to hơn con ếch một chút, lưng dài thẳng hơn, trên lưng có 2 sọc màu nâu kéo dài từ cổ xuống đít? Thịt nó ăn lạc hơn thịt ếch?. Âm thanh nó kêu nghe gần giống như NHUỐC, và tôi cũng chưa hề nghe tiếng con ểnh ương sau mỗi lần mưa lớn; những lúc khó tìm tôm cá, tụi tôi xuống mươn bắt cua đồng, ngoài đó cua đồng thuộc dạng nhi đồng, tôi chưa bao giờ thấy được cua bằng cua trong Nam, có lẽ người bắt nhiều quá, chúng lớn không kịp. Vớt ốc đắng, có dạng hình giống ốc lát, thường đeo bám cây lát mọc theo bờ kinh loại nhỏ trong Nam? Bắt về cở 3,4 kí , luộc chín rồi xúm nhau lể lấy ruột, xào với bột cà ry, , cũng đở hơn là ăn bột với nước muốỉ Chữ ngon trong tù, chớ nên đòi hỏi, con gì rục rịt là xơi, miễn có thêm chất đạm là tốt rồi, kể cả con mọt trong gạo
Có nhiều loại cá nhỏ mà quê tôi không có, như cá diếc, to cở bàn tay con gái,cá bương, kho tiêu ngon lắm, thịt nó dai cứng tợ như cá bống trong Nam. Có lần lưới cá được mấy con cá hàm ếch, da như da ếch, hình dáng cũng giống ếch, to khoảng 7, 800 gram, lần đó , kho , ăn cũng ngon.
Thằng Giai nó hay lắm, bắt cá tài dách, có lần tôi và nó cắt cỏ gần khuôn viên đội cưa xẽ, nơi đâu có 1 cái ao, hình chữ nhật, nước lên tới cổ, lúc đó cũng cở 2 giờ chiều, chưa tìm được mồi cho bữa chiều. Nó rủ tôi xuống ao bắt cá diếc.Tôi hồ nghi nhìn nó- nước đầy ao mà bắt con khỉ mốc.-Mày theo tao, tao bước chậm, mày theo sau, theo dấu bước tao. Tao bước lún sâu xuống cát, mày bước sau rà tay vào lổ chân tao bước, tôi làm theo lời nó dặn, quả nhiên vài lổ, có lổ có con cá diêc chui nằm trong đó. Nó cũng chỉ tôi cách bắt cá trong hang, theo rìa cỏ mọc de xuống bờ aỏ Tôi rất nhiều lần đụng cá mà không bắt được-Mày chạm tay vào thân cá là phải chộp liền, mày đụng cá, phản ứng rụt tay lại nên cá chạy mất. Từ nhỏ tới lơn, dù là trước nhà có một con kênh chạy ngang, nhưng tôi chưa bao giờ dám xuống kinh vọc nước, cũng không biết lội, vậy mà về đội cá vài lần ra quân là tôi bắt cá chuyên nghiệp
Lúc lưới cá, lận cá đem về, nói thì dễ, thực hành không phải dễ., con ca trắm cỏ, trên dưới kí lô, khi lưới tấp bờ, nó trở nên mạnh lắm, vùng vẫy tìm lối thoát, phóng cao trúng ngực , nín thở như không.. Một tay cầm viền lưới, một tay chộp cá, với một bàn tay, thò ngón tay vào móc mang cho cá chết, nhớ là mang cá cũng bén lắm, cá chết xong rồi, dùng chân khoét lổ sâu dưới đáy ao, nhét cá chết vào đó, nhét cho khéo, nếu sơ ý nó trồi lên, cán bộ thấy phiền lắm, phải nhớ rõ vị trí. Khi lưới xong, cá nhập rồi, ở lại dọn dẹp lưới, lúc đó cán bộ hết canh giữ, xuống ao vớt cá lên buộc vô người mang về? Ăn được con cá cũng trầy vi tróc vãy, dĩ nhiên mấy lần đầu cũng trật vuột hoàỉ rồi cái gì cũng quen
Cá đem về, cán bộ nữ ra nhận cá.. Phiếu đề trăm cân, tôi lựa cá mè quăng ra, xong bỏ lên cân, xê xích một hai cân là nhiều. cá tôm cua, ốc, con trai, ếch nhái tôi đều bắt được, chỉ trừ có rắn là tôi sợ, không bao giờ dám đụng tớịMùa đông phài ra tới thường tín lội ruộng vớt rong, giữa đồng trống mênh mộng, nhiệt độ 2,3 độ bách phân( cồng trại có treo 1 hàn thử biểu). gió mùa đông bắc liu riu thổi, dù mặc 2,3 cái áo, nhưng đứng trên bờ ruộng nhìn mặt nướcim lìm, gần như đóng băng, tự nhiên run tay run chân, miệng đánh bò cạp?Rồi cũng phải lôi xuống vớt rong, đôi bàn chân đôi bàn tím ngắt, rất nhiều lần tôi vớt nắm rong, trong có con rắn nước cứng đờ, chỉ ngo ngoe chậm chạp? Lúc ở đội cá, anh em tôi gởi thư về nhà xin thức ăn cũng khác mọi người, không xin gạo thịt khô, bột mà chỉ xin gia vị như bột cà ry, ngũ vị hương, tỏi tiêu.. ở trại nầy trong đội cá, tụi tôi tự xoay xở mua gạo, đường, trà thuốc , thuốc lào Tiên lãng, trà móc câu đều mua bán dễ dàng
Lúc qua Houston, tháng 11, trời cũng lạnh lắm, nhưng tôi vẫn thấy bình thường? Bây giờ thì khác, sau lần bị nhiễm lạnh phổi, áo quần tôi giữ ấm kỷ lắm? Tôi không sợ chết, nhưng bổn phận chưa làm xong, tôi còn nhiều chuyện chưa làm tròn, chết bây giờ khó nhắm mắt vì còn nuối tiếc sự đời ? Con người làm sao khỏi vướng víu hương tình, mà tôi lại là người biết làm thơ ?
Kỳ Ðà Ðộng 16-4-20
Nói về thơ hay ở đây, nghĩa là bài thơ đó phải được lưu danh sử sách trong văn hiến của ngàn năm Thăng Long - Thí dụ: cao siêu là KIỀU của đại thi hào Nguyễn Du, thuộc thể tiểu thuyết thơ. Các loại thơ ngắn hay xưa nay, trường cửu với thời gian, như:
Qua Ðèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan (BHTQ) - Làm lẽ, Hồ Xuân Hương - Thu điếu, Nguyễn Khuyến - Thương vợ, Tú Xương - Ðây thôn Vỹ Dạ * Mùa xuân chín * Bẽn lẽn, Hàn Mặc Tử - Tràng giang, Huy Cận - Tương tư, Nguyễn Bính - Tương tư chiều, Xuân Diệu - Tranh lõa thể, Bích Khê - Say đi em, Vũ Hoàng Chương - Hai sắc hoa tigôn, TTKH. - Thuyền và biển, Xuân Quỳnh - v.v....
Ðó là những bài thơ hay thuộc hàng đỉnh của nền văn học nước nhà. Thơ hay như thế của các nhà thơ đương đại hiếm lắm? Theo con mắt thơ của tôi: Các nhà thơ của HNVVN hiện nay, chưa có ai vượt qua nổi bài thơ hay "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh.
Vậy, Thế nào mới là một bài thơ hay của văn hiến ngàn năm Thăng Long? Dứt khoát phải có hai yếu tố:
1. Thơ của muôn đời, chứ không phải thơ chỉ một thời.
2. Thơ phải thật viên mãn về cả nghĩa và nghệ thuật thi ca.
a- Viên mãn về nghĩa: Bắt buộc tình, ý trong thơ phải viên mãn. Nếu nghĩa thơ không viên mãn? dù ngôn ngữ tinh túy, hình tượng đẹp... cũng chưa tạo được bài thơ hay.
b- Viên mãn về nghệ thuật thi ca: Khi nghĩa bài thơ đọc lên đã viên mãn rồi - Ngôn ngữ, hình tượng thi ca hay tới mức nào? Nó quyết định bài thơ hay đến đó.
Nếu tất cả đều đạt tới đỉnh, thì bài thơ hoàn bích.
ÐIỂM ÐÔI NÉT MẤY BÀI THƠ NỔI TIẾNG XƯA NAY
A/. " QUA ÐÈO NGANG" của Bà Huyện Thanh Quan (BHTQ) - Ðây là một bài thơ thất ngôn bát cú, theo thể Ðường luật rất mẫu mực ở nước ta. Ngôn ngữ, nghệ thuật tinh hoa. Ta bàn về ý nghĩa bài thơ xem độ viên mãn thế nào?
Bốn câu đầu chỉ là miêu tả để giới thiệu quang cảnh Ðèo Ngang: Trên trời bóng đã xế tà; quanh đèo cỏ cây, hoa lá mọc chen trong khe đá; dưới núi vài chú tiểu đi kiếm củi... và mấy quán chợ lác đác bên sông - Nhưng đến hai câu giữa:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Tương truyền, BHTQ rất thạo việc quốc gia: Khi ông Huyện đi vắng, bà vẫn thay ông lên chốn công đường xử kiện. Ðồng thời Bà Huyện còn là một phụ nữ rất đảm việc nhà, để ông Huyện yên tâm làm việc nước - Vậy là, chỉ bằng hai câu thơ (cũng vẫn là mượn cảnh vật), đã ôm bọc cả nỗi lòng bà: về nước, về nhà trong đó.
- Mượn hình ảnh con chim cuốc ra rả kêu vào những tháng hè - Cái tiếng "gia gia" ở đây là xuất xứ từ con đa - đa... gọi lái sang thành "gia gia"... nói lên nỗi nước, tình nhà của bà - Hình tượng, ngôn ngữ trong thơ thật là sâu xa, huyền thẳm. Không biết khi sáng tác BHTQ viết là "con cuốc" hay "con quốc"? Người đời sau, nhiều bản khi chép lại thơ của bà, đã viết thành con "quốc quốc"... để biểu thị cho tính nước non. Hai câu cuối đẩy bài thơ đến hoàn toàn viên mãn:
Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
Nỗi niềm tâm sự giữa chốn đèo hoang vu, chỉ mình ta với ta thôi - Một câu thơ kết tuyệt bút!
B/. HÀN MẶC TỬ - Thi nhân Hàn Mặc Tử có một chùm thơ ba bài tuyệt hay: Ðây thôn Vỹ Dạ, Mùa xuân chín, Bẽn lẽn - Tôi nói ít nét về từng bài.
1. Ðây thôn Vỹ Dạ: Bài thơ gửi gắm tâm tư về một mối tình đơn phương của thi nhân với nàng Hoàng Cúc - Ba câu đầu của khổ thơ thứ nhất là cảnh của hồi ức: Từ hàng cau, nắng mới, đến màu xanh mướt của vườn cây vào buổi sáng - Ông nhớ về nơi ở của nàng Hoàng Cúc trong thôn Vỹ Dạ. Ðến câu thứ tư:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Ðã là câu thơ tượng trưng rồi: "lá trúc" là hình ảnh biểu tượng cho làng quê Việt Nam - Còn "mặt chữ điền", theo cách nói cổ nho, ví cho gương mặt của người đàn ông (biểu tượng cho chính thi nhân), giờ đây đã bị "chắn ngang": mãi mãi phải cách xa, không gặp lại được nhau nữa.
Ðến khổ thơ thứ hai, phát triển còn sâu hơn. Ta gọi là tư duy trong:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Nghĩa là:
Em theo đường em, anh đường anh
Tình của đôi ta có thế thôi
Ðể nói về duyên phận của hai người phân cách đôi đường, không thể đến được với nhau. Thi nhân cô đơn, ngồi nhớ người xưa: Lòng ông như dòng nước lặng lờ chảy buồn thiu, với bông hoa bắp phật phờ lay ở bên sông - Những bài thơ tuyệt hay của thi đàn xưa nay, nghĩa thơ thường được phản ảnh qua những hình tượng sâu xa, tinh tế như vậy.
Tôi chỉ phân tích một số nét đặc trưng để toát lên cái hay của bài thơ, chứ không bình hết vì sẽ rất dài.
"Ðây thôn Vỹ Dạ" là một tuyệt tác thi ca! Có nhà bình thơ ở đương đại lại cho rằng: Khổ thơ thứ hai chỉ là tả cảnh theo cảm xúc của nỗi buồn mênh mang - Hiểu thế sẽ không thấy được cái hay, độ sâu sắc trong tư duy về cuộc đời của nhà thơ? Tình, ý trong thơ cùng ngôn ngữ thi ca phải thật sự viên mãn vậy, mới được gọi là thơ hay!
2/. Mùa xuân chín: Là bài thơ tả cảnh mùa xuân. Lúc này thi nhân đang phải điều trị bệnh tại Gành Ráng, Qui Nhơn, biệt lập xa cách với sự sống con người. Thi phẩm được rút ra từ trong thơ điên Hàn Mặc Tử (đề mục Hương Thơm). Nhưng đọc "Mùa Xuân Chín" ta thấy chẳng những thơ không điên, lòng thi nhân thanh tao, cõi hồn siêu thoát, tựa thể ông đang ngồi thụ cảnh thiên thai của bậc khách tiên sa.
Hoài Thanh có nhận xét về thơ HMT như sau: ?... Ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương khóị..". Cảnh thơ tựa bức gấm thêu, toát lên tấm tình tha thiết của thi nhân với nơi thôn dã. Ngôn ngữ, nghệ thuật thơ sử dụng rất nhiều thi pháp của dòng thơ tượng trưng châu Âu.
Ta hãy nghe một đoạn thơ:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mâỷ
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngâỷ
Không phải là "nước mây hổn hển" đâu? Chính là lòng thi nhân đang "hổn hển". Hay những hinh ảnh: ?tiếng ca vắt vẻỏ, ?sột soạt gió trêu tà áo biếc?, "Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc"? đều là biểu tượng của dòng thơ tượng trưng: Bộc lộ một tâm tư, tình cảm về cuộc sống. Ngay cái tên đề "Mùa xuân chín" cũng có tính tượng trưng rồi.
Kết thúc thơ, lòng thi nhân trào lên một nỗi nhớ thương làng quê da diết:
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
- Chị ấy năm nay còn gánh thóc,
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Sắc thái "...sông trắng nắng chang chang", vẽ ra cảnh trắng toát trên con sông mộng. Cảnh thực trong hồi ức mà như ảnh ảo, đưa tình thơ viên mãn tới tột cùng. Tả cảnh mùa xuân, nhưng lại chứa chất nỗi tình đời sâu sắc như thế... mới trở thành một bài thơ hay!
Tuy vậy, bài "Ðây thôn Vỹ Dạ" hay hơn một chút so với "Mùa xuân chín": Chủ yếu vì ngôn ngữ, hình tượng có phần ảo hơn, nên thơ huyền diệu và sâu lắng hơn. Như Chế Lan Viên đã từng viết trong Di Cảo, rằng:
Bên kia bờ hư ảo - bờ thơ
3/. Bẽn lẽn:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Ðợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi.
Trong khóm vi vu rào rạt mãi
Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?
Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
Vô tình để gió hôn lên má
Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm
Em sợ lang quân em biết được
Nghi ngờ tới cái tiết trinh em.
Có người lại cho rằng, bài thơ "Bẽn lẽn" hay hơn "Ðây thôn Vỹ Dạ"? Thực ra, hai bài thơ này đều là thơ tuyệt hay thuộc hàng đỉnh của HMT - Về phong dáng, tính chất, chúng đứng trên hai ngọn thi sơn khác nhau: Nhưng bài "Ðây thôn Vỹ Dạ"... "rất đời", nên dễ cảm hóa lòng người - Như câu châm ngôn của dân gian "Chỉ có cây đời mãi xanh tươi". Gần gũi cuộc sống nên được nhiều người thích và bình... mà nổi tiếng hơn.
"Bẽn lẽn" sở dĩ trở thành bài thơ rất hay: Bởi nó có những "câu thơ vàng":
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Ðợi gió đông về để lả lơi
Hay:
Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe
Là những câu thơ hay vào hàng kiệt xuất của thi đàn xưa, nay - Ngôn ngữ, nghệ thuật thi ca thì khỏi chê rồi... Vậy, ta xem về tình, ý (tức là nghĩa bài thơ) có viên mãn không, mà lại gọi là thơ hay?
Bốn câu đầu, miêu tả cảm xúc của thi nhân với nguyệt trên trời, như một người tình (đã được nhân cách hóa), xuống lả lơi "nằm sóng soãi" (như tấm thân trắng ngần của người con gái) để... tình ái với Người - Cảm xúc đến mức độ: "hoa lá ngây tình không muốn động", lòng người mới bồi hồi thốt lên gọi: "chị Hằng ơi"!
Ta hãy chú ý, Hàn Mặc Tử đã tả hai câu thơ sau đó:
Trong khóm vi vu rào rạt mãi
Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?
Hai câu thơ này thuộc về "tư duy trong": Lòng thi nhân bồi hồi, xao xuyến... Người nghe như văng vẳng tiếng mời chào của ái tình đang dậy lên ở trong mình... rồi lại lặng đi... nên hỏi: "Sao im đi"? Về nghệ thuật thi ca: Ðây là cảm xúc nội tâm đang chan chứa trong lòng thi nhân, đồng họa với tiếng gió thổi qua khóm cây lau... nghe rào rạt - Về cấu tứ: Thơ được tư duy giống như trong bài "Qua đèo ngang" của BHTQ hạ hai câu thơ ở giữa bài:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Hay như "Ðây thôn Vỹ Dạ" của Hàn Mặc Tử, khi viết hai câu:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Ðể nói về nỗi đời chất chứa bên trong - Chính thế mà tình ý bài thơ mới được diễn tả một cách sâu sắc để tiến đến sự viên mãn - Trở lại với bài "Bẽn lẽn", sau đó thi nhân tả:
Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe
Hình ảnh bóng nguyệt in hình trong khe nước, nhưng chính là để tượng trưng cho cái thiên thai của người con gái, qua đó hạ hai câu kết về chuyện trăng hoa trai gái:
Em sợ lang quân em biết được
Nghi ngờ tới cái tiết trinh em
Ðây chỉ là cách nói mà HMT "ví chơi": nhưng để nhân cách hóa với hình ảnh lấy làm biểu tượng về "cái ấy" của người con gái ở câu thơ trên: Ô kìa, bóng nguyệt trần truống tắm /- Mà tạo nên sự dung dị, hoàn bích của bài thơ. Bài thơ chứa đầy những cảm xúc khao khát, vì nỗi tình quạnh vắng của thi nhân.
Ðọc sâu về nội tâm bên trong của Bẽn Lẽn, ta thấy từ ngôn ngữ, hình tượng thi ca... đến ý, tình của bài thơ đều quyện lấy nhau mà tuôn chảy theo dòng cảm xúc.
Tôi bình đôi nét về một bài thơ hay ở thời hiện đại.
C/. "THUYỀN VÀ BIỂN" của Xuân Quỳnh: "thuyền", biểu tượng cho người con trai - Và "biển", chính người con gái ấy!
Biển và thuyền quấn quít với nhau trong tình yêu của đôi trai gái. Xuân Quỳnh viết:
Lòng thuyền nhiều khát vọng
Và tình biển bao la...
Hay là:
Những đêm trăng hiền từ
Biển như cô gái nhỏ
Thầm thì gửi tâm tư
Quanh mạn thuyền sóng vỗ
Về tính cách của tình yêu, cũng có lúc say đắm - khi lại giận hờn. Nữ thi sĩ diễn tả:
Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên?
Thơ được tư duy rất sâu sắc về nội tâm bên trong:
Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu...
Thơ diễn đạt mọi chiều của tình yêu một cách rất lô-gích. Yêu đã thế, ngay cả khi nói về sự xa cách, cũng được lấy hình ảnh của "thuyền - biển" làm tượng trưng thật hay:
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau - rạn vỡ...
Hình ảnh "sóng biển bạc đầu"... trở thành sự "bạc đầu vì thương nhớ" của người con gái - Sự rạn vỡ của con thuyền... để nói về sự quặn đau trong trái tim người con trai khi phải xa cô gái mình yêu.
Ðoạn kết thơ:
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố...
Nếu phải chia ly, cả đôi trai gái đều đau đớn và trái tim tan vỡ!
- Ý, tình bài thơ được đẩy tới viên mãn tột cùng. Ngôn ngữ hình tượng đẹp, tư duy lô-gích và giàu cảm xúc - Chính vì vậy, "Thuyền và biển" mới đạt được là một bài thơ hay, lưu mãi vào trong nền văn học nước nhà.
Trong các loại rau cải xanh tươi mà ta nhai nhai hằng ngày, hầu hết đều có lá nhỏ và rất yếu mềm. Sáng nay, tôi chợt nhớ ra một loại cây màu xanh mà ta cũng thường ăn khi còn ở quê nhà. Loại cây này có lá to lớn nhất trong tầm mắt tôi. Giòng họ cây này có hai loại giống nhau nhưng đặc tính hình như khác nhau về cách ăn.
· Ðó là cây Môn
· Và cây Bạc Hà.
Tôi không là nhà nghiên cứu về sinh vật học, nên tôi chỉ mạo muội ghi lại vài ý tưởng theo sự nhận xét và hiểu biết của mình.
Cây Môn
"Mỗi một vùng miền thôn quê Việt Nam đều có những món ăn đặc trưng của từng vùng miền đó. Nhưng với món dưa môn thì không có gì xa lạ với bất cứ ai đã từng sinh ra và lớn lên nơi làng quê. Cây môn gần gũi, thân thương đậm tình quê và là nguồn thực phẩm lành tính, mang đặc trưng của vùng nông thôn?"
Tôi mãi nhớ, trong ngôi chợ Nguyễn Tri Phương, ở góc hàng gà gần cạnh đường Triệu Ðà, cô bác mang rau cải rất xanh tươi từ miền quê lên đây bán. Tôi thường thấy có thau dưa môn màu vàng nâu sậm. nằm chen chúc cạnh bên các thúng rau xanh khác. Tôi biết ăn dưa môn từ khi còn là bé con. Mẹ tôi là con gái miệt vườn nên biết nhiều về những món ăn dân dã như dưa môn. Bà thường mua về cho chúng tôi nhâm nhi trên mâm cơm. Món mà tôi thích nhất là dưa môn chấm với nước thịt kho. Dưa môn hơi có vị cay nồng chút xíu nếu người muối dưa không khéo tay.
Từ ngày ra xứ người thì món dưa môn này coi như đã quá xa tầm tay với của tôi rồi. Dưa môn chỉ còn là món ăn "tưởng nhớ" mà thôi. Ký ức chưa quên mà vẫn còn ghi khắc hình ảnh món dưa môn bình dị ở miệt vườn. Cái nhớ cái thương góc trời quê Mẹ vẫn luôn âm ỉ trong tôi, để hôm nay tôi viết vài dòng chữ, nhắc nhớ bạn nào biết món dưa môn, rất ngon này
Bạc Hà.
Bạc Hà còn có tên gọi khác là Dọc Mùng. Tên gọi Bạc Hà thì quá quen thuộc vì không ai mà không ăn canh chua Bạc Hà bao giờ. Tuy xa xứ, Bạc Hà vẫn theo chân người Việt tha hương lập nghiệp, và mọc rất khỏe trong sân vườn sau nhà. Nhà hàng Việt Nam lúc nào cũng có món canh chua. Trong tô canh chua không thể nào thiếu vắng mấy lát bạc hà nằm lềnh phềnh trên mặt, và bắt mắt người nào có cái bụng đang rọt rẹt cồn cào.
Bạc hà có màu xanh nhạt rất đẹp và trang nhã. Màu đỏ ửng của mấy khoanh ớt nằm kèn cựa chung quanh, làm tăng thêm màu hiền dịu của bạc hà. Thời gian trước, tôi rất thích ăn canh chua bạc hà và coi như là món ăn ngon miệng nhất trong nhiều món nấu chua. Dạo sau này, tôi đọc nhiều bài bàn tán về bạc hà nên tôi không dám nấu canh bạc hà nhiều nữa.
Bạc Hà và Môn có hình dáng rất giống nhau, lá xòe to rộng từa tựa lá sen với bề bảng bằng phẳng. Lá môn thì xanh đậm đặc hơn lá bạc hà. Cả hai lá môn và lá bạc hà đều có đặc tính là không thấm nước. Tất cả giọt mưa nào xui xẻo rơi rớt trên hai lá này đều không bao giờ được nằm yên để ỏng ẹo, long lanh một giây phút nào. Chỉ cần một cơn gió nhẹ thoảng đong đưa thì hạt nước tội nghiệp này bị ruồng rẫy ngay lập tức.
Bất cứ giọt mưa, giọt nước nào kiêu sa lấp lánh quyến rũ tới đâu, cũng đều bị bề bảng to lớn này đuổi xô không thương tiếc và tủi phận lăn lóc, rơi xuống đất.
Cũng từ đặc tính khác lạ này nên trong dân gian, chúng ta thường nghe "khẩu ngữ" - ví trường hợp những lời dạy bảo, khuyên can đều chỉ là hoài công, không có tác dụng gì.
· Nước chảy lá môn
· Nước đổ đầu vịt
· · Nước đổ lá khoai
Bẹ môn làm muối dưa
Ngọt ngọt và chua chua
Bên kia trời một nửa
Tôi bỏ lại quê xưa
*
Canh chua với bạc hà
Ngò ôm nấu với cà
Có vài khoanh ớt đỏ
Hương nồng cay đậm đà
*
Canh chua giá với thơm
Chan đầy ắp chén cơm
Chút mắm ngon thêm vị
Nấu cá hay với tôm
*
Cho dù xa quê hương
Lòng tôi luôn nhớ thương
Món canh chua Mẹ nấu
Trước giờ vượt đại dương
"Em đến thăm Anh một chiều mưa" là bản tình ca tiền chiến (1947) rất nổi tiếng của NS Tô Vũ. Trải qua hơn 2/3 thế kỷ, nhạc phẩm vẫn dược trân trọng yêu quý và không hề nhạt nhòa theo tháng năm.
Ðiểm đặc biệt chúng ta nhận thấy là theo ca từ thì có sự khai phóng vai trò thụ động và rụt rè của phái nữ từ những thế kỷ trước. Người con gái trong nhạc phẩm này đã chủ động đến thăm người yêu trong môt buổi chiều mưa gió.
Nhưng trên văn đàn thì từ đầu thập niên 1930, một số tiểu thuyết của các nhà văn tiền chiến như Khái Hưng trong ?Nửa Chừng Xuân? (1933) hay Nhất Linh trong Ðoạn Tuyệt (1934) .v.v.v. đã có đề cập đến sự khai phóng này của những phụ nữ tân tiến. Ví dụ như cô Mai trong NCX, người phụ nữ đầy nghị lực trong cuộc sống, cô Loan, một cô gái chịu ảnh hưởng Tây học trong ÐT, yêu Dũng, một thanh niên có lý tưởng.
"Nàng yêu Dũng và cái hy vọng của nàng lúc đó là được làm vợ Dũng"?...( ÐT- Nhất Linh)
Và Loan đã đến thăm Dũng sau một cơn mưa.
"Trời vừa mưa xong, mấy dãy phố lầy lội, bẩn thỉu. Bùn bắn cả lên chiếc quần lụa bạch, lấm cả tất mà Loan không để ý. Nàng cứ cắm cổ đi và mỗi đầu phố lại đứng lại đọc biển. Tìm mãi, nàng mới thấy biển đề tên phố Dũng ở. Nhưng Loan vẫn ngờ ngợ vì nàng không thể tưởng tượng Dũng lại ở chui ở rúc trong cái phố tồi tàn này lẫn với những hạng người cùng đinh trong xã hộị..Sang trọng trong bộ quần áo tối tân, Loan thấy mình như ở đâu lạc loài đến.? (Ðoạn Tuyệt - Nhất Linh)
Xin kính mời quý vị thưởng thức nhạc phẩm "Em Ðến Thăm Anh Một Chiều Mưa" của NS Tô Vũ với phần trình bày và minh họa bằng hình ảnh 4K của Trần Ngọc Autumn.
Xin bấm LINK để xem hình rõ nét:
https://www.youtube.com/watch?v=HUIgrRicfFI
Trân trọng cám ơn.
TN. A
Tiểu Sử Nhạc Sĩ Tô Vũ (Theo Wikipedia)
Tô Vũ (tên thật: Hoàng Phú, 9 tháng 4 năm 1923 ? 13 tháng 5 năm 2014) là một nhạc sĩ, giáo sư, nhà nghiên cứu âm nhạc đương đại của Việt Nam. Ông cùng với người anh là nhạc sĩ Hoàng Quý (tuyệt phẩm Cô Láng Giềng) đã có mặt từ những ngày đầu tiên của tân nhạc Việt Nam đồng thời là những thành viên sáng lập ra nhóm Ðồng Vọng, đại diện cho âm phái Hải Phòng. Hoạt động của nhóm trong làng âm nhạc Việt Nam thời tiền chiến từng tạo nên tiếng vang và để lại ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của nền âm nhạc hiện đại Việt Nam. Nghệ danh Tô Vũ là do các bạn văn nghệ đặt cho ông, mượn tên của nhà ngoại giao Tô Vũ thời Hán Vũ Ðế ở Trung Quốc.
Thân thế và sự nghiệp
Tô Vũ sinh ngày 9 tháng 4 năm 1923 tại phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang nhưng từ khi còn nhỏ ông đã chuyển về sống tại Hải Phòng cùng bốn người anh em ruột của mình. Hoàng Phú ít hơn người anh Hoàng Quý ba tuổi. Mẹ mất sớm, bố đi làm xa nên chủ yếu gửi tiền về nuôi các anh em ông. Trong số các anh em, Hoàng Quý và Hoàng Phú đặc biệt say mê âm nhạc. Hai anh em học được những kiến thức âm nhạc đầu tiên (violin) qua một phụ nữ người Pháp tên Leprêtre là chủ cửa hiệu Orphée, chuyên bán nhạc cụ và sách nhạc Tây ở Hải Phòng thời đó. Tuy nhiên, người tích cực khuyến khích hai anh em họ Hoàng đi theo "âm nhạc cải cách" (tân nhạc) là thầy dạy môn văn chương Pháp tên là Ngô Ðình Hộ (tức nhạc sĩ Lê Thương), để cùng thầy biểu diễn trong các tiết mục văn nghệ của trường.
Năm 1939, Hoàng Quý và Hoàng Phú (Tô Vũ) quy tụ một số bạn bè trong đó có Phạm Ngữ, Canh Thân và Văn Cao để lập ra nhóm nhạc Ðồng Vọng. Nhóm Ðồng Vọng sinh ra từ phong trào hướng đạo sinh do Hoàng Quý làm trưởng nhóm, lập ra với ý nghĩa như là tiếng gọi tập hợp thanh niên lại với nhau. Từ phương châm này, nhóm Ðồng Vọng đã góp phần cổ suý cho nền tân nhạc Việt Nam. Nhóm sáng tác được khoảng 60 ca khúc mang nội dung ca ngợi đất nước, ca ngợi truyền thống anh hùng dân tộc.
NS Tô Vũ (Hoàng Phú) mất ngày 13 tháng 5, 2014 tại Saigon.
?
Gia đình tôi đến phi trường San Francisco đón bà chị ruột từ Việt Nam sang du lịch Hoa Kỳ. Cháu Út đã chuẩn bị banner dán đầy đủ họ tên của chị, vừa chào mừng vừa là dấu hiệu cho chị tôi nhận biết có người nhà đang đón, đỡ phần bối rối.
Khu chờ đợi đã chật ních người. Các phi công và tiếp viên chuyến bay 124 của hãng hàng không Eva đã lần lượt đi ra. Dăm ba tấm bảng chào đón người từ bên kia Thái Bình Dương sang bắt đầu trưng lên, đám con tôi cũng vội vàng làm theo. Tôi đã dặn dò cặn kẽ tấm bảng viết bằng tiếng Việt : Chào Mừng bà Nguyễn Thị Lưu Luyến, nhưng vì hiệu Office Depots chỉ có bán mẫu tự không dấu lại quen cách viết ở Mỹ, con tôi đã dán dòng chữ hoàn toàn khác với ý tôi, do vậy, khi giương bảng lên tôi thật sự ngỡ ngàng. Mọi việc đã lỡ, đành chịu vậy.
Chúng tôi đứng cách cửa quá xa nên lúc chị đi ra không ai nhìn thấy. Giữa lượng sóng người, một bà Việt Nam vóc người đầy đặn, mặc áo dài xanh đậm, vai choàng chiếc khăn voan, đầu tóc búi cao đi tới đi lui lức láo trong đám đông đang chen chúc. Chợt tôi nhận ra chị tôi thì nước mắt lo âu của chị đã lưng tròng. Cả nhà ùa tới vây quanh mừng rỡ.
Câu đầu tiên của chị là trách chúng tôi không có tấm bảng đề tên chị như đã thông báo qua điên thọai. Ðể chứng minh là chúng tôi đã lo đầy đủ, cháu Út vội vàng căng tấm vải nhựa ra trước mặt chị. Nhìn dòng chữ Welcome MRS. LUYEN THI LUU NGUYEN, chị nói :
- Cô đã nhìn thấy tấm bảng nầy rồi, nhưng đâu phải tên họ của cô. Bộ tụi bay đổi tên cô thành tên Mỹ rồi sao ?
- Thưa cô, vẫn là tên Nguyễn thị Lưu Luyến nhưng ở Mỹ viết không bỏ dấu lại đảo ngược tên họ thế đấy, con tôi giải thích.
- Bà Cố Tổ tao có sống dậy cũng không nhận ra, ở Mỹ cái gì cũng ngược đời. Nói xong, chị cười để lộ đôi hàm răng đen rức rức như hạt huyền. Nụ cười của chị thật hồn nhiên, cởi mở. Nhìn thấy hàm răng đen, đứa cháu ngoại tôi sợ hãi giấu mặt vào lòng mẹ.
Vào mùa Halloween, trẻ con ở Hoa Kỳ thường xem phim ma, phim quỷ hút máu người, Vampire, Dracula hoặc đi coi nhà ma có cả đầu lâu nhe răng trắng nhởn. Hôm nay, trước mặt nó là người phàm mắt thịt lại mang hàm răng đen, hỏi làm sao không sợ !
Chị tôi không biết cái sợ đích thực của thằng nhóc mà ngỡ rằng bà cô còn xa lạ.
Trong lúc ngồi đợi các con tôi đi lấy xe ngoài parking lot, chị moi trong bọc ny-lông lấy ra một miếng trầu tươi đã têm sẵn cùng miếng cau bỏ vào miệng nhai rào rạo. Ðứa cháu ngọai dù sợ nhưng lúc nào cũng hé mắt nhìn bà cô lạ lùng. Nó hỏi :
- Mommy, what's she eating ?
Mẹ nó lúng túng chẳng biết tiếng Anh gọi trầu là gì, đành trả lời :
- Bà ăn kẹo gum Việt Nam !
Lát sau, chị tôi thò tay vào túi xách lấy ra một cái chai trống không, có nắp vặn hẳn hoi. Chị mở nắp nhổ vào đó phần nước trầu dư. Thằng nhóc con hoảng hốt ôm chặt cổ mẹ. Con gái tôi vội hỏi :
- Chuyện gì thế con ?
Bé hớt hãi :
- Blood, blood !
Mọi người cười ồ. Chị tôi ngạc nhiên nhìn từ người nầy, qua người khác. Vợ tôi giải thích :
- Chị nhổ nước trầu mà cháu nhỏ tưởng chị ói ra máu.
Chị đưa tay vò đầu thằng bé rồi dùng khăn tay lau hai khoé miệng dính nước trầu đỏ tươi, chị phân trần :
- Cả ngày trên máy bay nhịn trầu, thèm không chịu nỗi. Tao có thể nhịn cơm vài ngày nhưng mà nhịn trầu một ngày là đủ thấy khùng rồi. Ðã vậy còn ngồi cùng ghế với con mẹ mũi lõ tóc vàng, cái mông to như chiếc thúng chai của mấy người làm biển. Cứ cách vài giờ là mụ ì ạch đi nhà xí. Mình có ngồi yên được đâu, vừa chợp mắt là mụ vỗ vỗ, mình phải đứng dậy. Tao đâu dám ngồi lỳ, không khéo cái mông dềnh dàng đó nó để cả vào mặt mình là nghẹt thở. Ăn cái ngữ gì mà to đến thế ! Cũng may là mình không cùng tiếng nói với mụ, khỏi sinh cãi vã. Cả nhà cười rộ trước lối kể chuyện mộc mạc, chân chất của dân miền quê .
Dù là vai chị nhưng tôi thương yêu và quý trọng chị như Mẹ. Tôi có hai người chị lớn đã có gia đình riêng. Chị là con gái thứ tư và tôi là trai út sinh sau đẻ muộn. Thuở ấy, gia đình tôi có chiếc thuyền buôn. Cha tôi cùng một số trai bạn thường xuyên xuôi Nam chở theo các loại đường mía. Lược về chở vải vóc hoặc đồ gốm. Mẹ tôi suốt ngày lo việc buôn bán, tiếp bạn hàng và điều khiển người làm tại các vựa, các chành. Chị hơn tôi tới mười tuổi lo quán xuyến công việc nhà. Dù có người giúp việc, song chị muốn tận tay chăm sóc tôi từ việc nhỏ đến việc lớn. Lên năm, sáu tuổi rồi mà tôi vẫn luôn làm nũng với chị. Tôi thích ngủ võng và thường bắt chị đưa hát ru trong những đêm hè. Chị nuôi dưỡng tâm hồn tôi lớn lên theo lời ru ngọt ngào của ca dao, truyện Kiều, Lục Vân Tiên đầy tình tự dân tộc. Mẹ là tiếng gọi đầu đời của tuổi thơ. Riêng tôi, chị là tiếng bập bẹ đầu tiên khi tôi chập chững bước đi.
Lúc tôi vừa lên tám, Mẹ lâm trọng binh qua đời. Thế là chị đóng vai người mẹ chăm sóc và nuôi nấng tôi suốt thời thơ ấu.
Năm hai mươi ba tuổi chị tôi yêu anh Vương Văn Ðỉnh, dáng người cao ráo có mái tóc bồng gợn sóng rất nghệ sĩ. Anh nói giỏi tiếng Pháp, xử dụng điêu luyện các loại đàn, sáo và cả harmonica.
Ngày anh Ðỉnh cho người mai mối đến dạm hỏi thì cha tôi đã hứa gã chị cho con trai ông Tú Bang, bạn học của cha từ thời trai trẻ. Người chồng tương lai của chị là một thầy giáo. Trước ngày chị tôi lên xe hoa, anh Ðỉnh đến nhà từ biệt chị ra đi. Ðể tránh đau khổ, anh quyết định bỏ quê vào Sài gòn tiếp tục con đường học vấn. Chị khóc trên vai anh và nước mắt anh cũng đầm đìa. Ngày đó tôi chưa hiểu gì về tình yêu nhưng tôi cảm thấy tội nghiệp cho hai người.
Ngày lễ Vu quy của chị, cha tôi tổ chức hai ngày nhóm họ đãi đằng bà con, bạn bè và khách hàng buôn bán với gia đình tôi từ xưa đến nay. Ðám rước dâu khá linh đình, với hai chiếc xe hơi màu đen bóng được trang trí hoa và dải lụa hồng rực rỡ. Bà con láng giềng trầm trồ khen cô dâu chú rể đẹp đôi.
Cha tôi rất hãnh diện và vui mừng vì đã chọn cho con gái mình người chồng xứng đáng. Chị tôi tuân lệnh cha theo chồng nhưng mang theo cõi lòng tan nát. Chị đã khóc suốt mấy đêm liền trước ngày cưới. Hình ảnh áo nảo, thất chí của anh Ðỉnh trong giờ chia tay vẫn chưa phai mờ trong lòng chị.
Chồng chị dạy học ở một trường khá xa, lâu lâu mới về thăm nhà. Chị nại cớ đứa em út còn nhỏ dại cần người chăm sóc và dạy dỗ, nên xin phép bên chồng được về nhà cha thường ngày.
* * *
Thời gian thấm thoát trôi qua một năm rồi hai năm chẳng có tin tức gì về anh Ðỉnh, đến một buổi sáng nọ có người mang đến trao cho chị tôi một bao thơ. Không biết thư nói gì , bỗng dưng chị òa khóc. Tôi chạy sà vào lòng chị. Chị ôm chặt lấy tôi thổn thức :
"Anh Ðỉnh của em không còn nữa. Anh ấy bị thương trên chiến trường về đến bệnh viện mới tắt thở. Anh gởi lại chiếc khăn tay của chị tặng ngày trước. Vừa nói chị vừa mở khăn ra, một dòng chữ viết nguệch ngoạc bằng máu : "Yêu Em trọn đời". Chị đưa chiếc khăn lên môi hôn mà nước mắt tuôn trào.
Ba tháng sau, chồng chị bị tử nạn trên đường đến trường khai giảng mùa học mới. Chưa đầy nửa năm chị tôi đã chịu hai cái tang đau đớn. Hình như nước mắt cạn nguồn và con tim tê dại, chị vùi đầu trong công việc và tập ăn trầu để lảng quên nỗi đau đang vò xé. Hai má chị ửng hồng và chân đi chếnh choáng vì say trầu.
Chị tôi nổi tiếng có hàm răng đẹp nhất làng. Răng chị trắng đều như những hạt ngọc. Nụ cười rạng rỡ, thu hút cảm tình của người xung quanh. Những ngày mới quen nhau, anh Ðỉnh thường nói với chị : "Mỗi khi em cười là mang nguồn hạnh phúc cho người đối diện". Một hôm, tôi vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện hàm răng chị trở thành màu đen nhánh. Tôi hỏi vì sao, chị bảo ăn trầu phải nhuộm răng đen. Lòng buồn vô hạn, tôi tiếc rẻ hàm răng trắng và giận chị suốt mấy ngày liền.
Chị tôi không còn yêu ai mà cũng chẳng chịu bước thêm bước nữa. Cha tôi nhiều lần khuyên nhủ, chị bảo: "Con dành phần đời còn lại để lo cho cha và cho em. Xin cha đừng ép uổng con nữạ" Từ ngày mẹ tôi mất, sức khoẻ cha tôi xuống một cách thê thảm. Ông không còn đủ sức vượt đường xa trên sóng nước bồng bềnh nên quyết định bỏ nghề.
Nhiều người xin mua lại chiếc thuyền nhưng cha tôi nhất định không bán, ông cho người kéo chiếc ghe đồ sộ lên bờ giữ lại làm vật kỷ niệm và cho tiền đám trai bạn làm công về quê tìm công việc làm ăn khác. Ba năm sau cha tôi qua đời. Ngôi nhà chỉ còn lại hai chị em tôi. * * *
Tôi lấy hai tuần lễ vacation đưa chị đi viếng những thắng cảnh nổi tiếng ở miền Tây Hoa Kỳ. Trước những kiến trúc tân kỳ, công trình xây dựng vĩ đại, tôi thấy chị không háo hức, thán phục hay xúc cảm. Hình như điều đó đối với chị chỉ là thứ yếu. Chị sang Mỹ với một niềm thiết tha là thăm tôi, gần gũi tôi để vơi đi niềm thương nhớ. Xa tôi đã mười hai năm, như người mẹ xa con, chị cô đơn, mong chờ và lo lắng.
Chỉ qua vài tuần lễ là chị đã gần gũi, chăm sóc và tắm rửa cho đứa cháu ngoại lên năm của tôi. Chẳng những hết sợ hãi mà cháu còn vạch miệng bà cô để xem hàm răng đen như xem vật lạ mỗi lần chị bồng nó. Bé hỏi :
- Sao răng bà màu đen ? Chị tôi chỉ cười rồi hôn lên má nó. Thế là nó dùng tay chùi lên vết trầu dính, nó chà xát làm nổi đỏ cả vùng da trên mặt nó. Cháu bé thích được bà cô dắt tay đi dạo bộ trong khu công viên cạnh nhà, nhưng lại sợ bà hôn làm vấy nước trầu lên má.
Con tôi đề nghị chị tẩy trắng hàm răng. Chị phản đối, lấy lý do không thể bỏ trầu.
Chúng cam đoan ăn trầu vẫn giữ được màu răng trắng, chỉ cần chịu khó đánh răng thường xuyên. Ngày này qua ngày nọ, mỗi đứa cháu một lời khuyên khiến chị tôi xiêu lòng. Con tôi vô cùng ngạc nhiên trước đôi hàm răng vẫn còn nguyên vẹn dù tuổi đời của chị đã ngoài bảy mươi.
Răng được tẩy trắng, dầu không bằng màu trắng óng ánh như thuở còn thanh xuân, nhưng đã trả lại cho chị nụ cười sáng sủa. Chị cười khoe đôi hàm răng trắng trông chị tươi mát như trẻ lại mười tuổi, thế nhưng lòng chị lại không vui. Nụ cười của chị bây giờ không còn tự nhiên nữa, gượng gạo và héo hắt. Tôi bắt gặp bất chợt lúc chị đang soi gương mà mắt còn ngấn lệ. Ngỡ là chị nhớ nhà nên tôi không lưu tâm lắm.
Ðêm đã về khuya, ngoài trời đổ mưa do ảnh hưởng cơn bão từ biển thổi vào, tôi đi kiểm soát các cửa sổ chợt nghe tiếng khóc thút thít trong phòng chị, tôi vội vàng gõ cửa vào. Ðèn bật sáng, chị đang ngồi khóc, tôi hỏi:
- Các cháu có làm điều gì phật ý chị không ?
Chị lắc đầu, rồi bảo tôi ngồi bên cạnh, chị tâm sự :
- Ngày Ðỉnh yêu chị, anh ấy đã hết mình bảo vệ đôi hàm răng đẹp của chị. Anh đã nhờ người mua kem và bàn chải đánh răng loại ngoại nhập cho chị dùng. Anh luôn nhắc nhở chị không được dùng răng cắn móng tay và cắn bất cứ vật gì có độ cứng. Có lần anh bảo
: "Anh quý đôi hàm răng em như quý sinh mạng của anh vậy". Anh Ðỉnh chết là lỗi ở chị. Nếu chị cưỡng lời cha không chịu về làm vợ người ta thì anh ấy đâu có bỏ quê vào Nam. Chị lại ôm mặt khóc.
Tôi khuyên chị nên quên đi, đã mấy chục năm rồi còn gì nữa mà lưu luyến, mà tự trách mình. Chị lau nước mắt rồi tiếp :
- Em đâu biết, mỗi lần bắt gặp nụ cười trong gương là lòng chị tái tê và ân hận bởi hình ảnh của Ðỉnh hiện ra với đôi mắt chan chứa tình yêu xen lẫn trách hờn. Hồi đó, chị muốn vào chùa xuống tóc đi tu, sau nghĩ lại mình còn cha già, em dại ai nuôi nấng, thuốc thang.
Vì vậy, chị quyết định nhuộm răng đen để chuộc lỗi đã không vẹn lời thề với Ðỉnh, đồng thời giấu đi những kỹ niệm đau buồn. Chị ngừng nói, lấy khăn thấm dòng lệ ướt nhòa trên má:
- Chị thương các em và các cháu nên chiều theo ý muốn tẩy bộ răng đen làm vui lòng mọi người. Nhưng có ngờ đâu, khi nhìn hàm răng trắng trở lại, lòng chị lại cảm thấy bứt rứt, bồn chồn. Những hình ảnh xa xưa lại hiện về khiến chị xót xa không cầm được nước mắt.
Ngày hôm sau, chị yêu cầu chúng tôi lấy vé máy bay tuần tới chị trở về Việt Nam. Cả nhà sững sốt. Visa cho đi sáu tháng, ở Mỹ chưa đầy bốn tháng chị lại đòi về. Các cháu năn nỉ cô ở lại và xin bỏ qua những gì thiếu sót. Chị ôm vai từng đứa rồi chậm rãi nói :
- Các con có lỗi lầm gì đâu, ngược lại, càng thương yêu và chăm sóc cô rất chu đáo .
Như cả nhà đều rõ, hàng năm, cô phải lo bốn cái giỗ. Một, giỗ ông Nội ngày 17 thángTư, hai, giỗ bà Nội ngày Rằm Tháng Chín, ba, giỗ chồng cô 12 tháng Tám và bốn...Ðến đây, bỗng dưng chị khựng lại, trước mấy đứa cháu chẳng biết gọi thế nào cho ổn. Tôi bèn đỡ lời chị :
- Ðó là ngày kỵ bác Ðỉnh, người yêu của cô trước khi lấy chồng đã hy sinh ngoài chiến trường. Bác Ðỉnh chết trước chồng cô ba tháng, như vậy chỉ còn hai tuần lễ nữa là đến ngày giỗ Bác ấy 14 tháng Năm. Tôi nhìn chị mà lòng bùi ngùi. Mối tình đầu của chị là anh Ðỉnh. Hai người đã dệt bao nhiêu mộng đẹp trong tương lai. Cũng bởi lễ giáo khắt khe mà cha tôi đã vô tình "chia uyên rẽ thúy". Người không thấu được tình cảm riêng tư của con gái mình mà đinh ninh rằng: "Môn đăng hộ đối là cơ sở bền vững cho hạnh phúc lứa đôi".
* * *
Chị tôi về lại quê nhà được một năm thì có điện thoại của cháu tôi báo chị lâm trọng bịnh đang hấp hối. Tôi lấy vé khẩn cấp bay về Việt Nam.
Gia đình của hai bà chị lớn đã có mặt đầy đủ. Chị tôi nằm thoi thóp trên giường bệnh.
Khuôn mặt chị gầy đi khá nhiều nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên hơn cả là hàm răng chị được nhuộm đen trở lại và hai chiếc răng cửa đã rụng từ bao giờ. Trực nhìn trên đầu giường chị nằm, có một chiếc hộp màu nâu đặt cạnh gối, tôi vội mở ra, hai chiếc răng cửa màu trắng bóng láng gói trong chiếc khăn tay có bốn chữ "Yêu Em trọn đời" của anh Ðỉnh viết bằng máu lúc anh bị thương ngoài mặt trận. Dưới đáy hộp là một mảnh giấy nhỏ của chị ghi lời yêu cầu: "Xin được đặt hộp nầy trên bàn thờ anh Vương văn Ðỉnh."
Chị tôi qua đời lúc trời vừa rạng sáng. Sau khi chôn cất và xây mộ hoàn tất, tôi mang hộp răng của chị đến nhà cháu anh Ðỉnh và xin được đặt bên di ảnh của người quá cố để trọn lời ước thệ năm xưa của anh chị.
Trên chiếc Boeing 747 đưa tôi trở về Hoa Kỳ sum họp với gia đình mà lòng tôi lại cảm thấy cô đơn trống vắng vô hạn. Chị tôi mất rồi, miên viễn xa tôi rồi. Hình ảnh tươi mát của chị ngày nào, ân cần và chiều chuộng giờ đã thay vào ký ức tôi một bà già khô héo nằm bất động trên chiếc giường gỗ lim cũ kỹ của bảy mươi năm về trước trong ngôi nhà xưa mênh mông hiu quạnh. Chị bị bệnh mà tôi chẳng hề hay biết. Bỗng dưng tim tôi quặn thắt, nước mắt trào ra. Tôi ấm ức khóc và tự trách mình. Tôi muốn gào lên :
"Chị ơi, trái tim chị bao la quá, vĩ đại quá. Trọn cuộc đời chị đã dành cho em, mà em thì chưa có một ngày nào đền đáp công ơn."
Chị tôi đã trải qua bao tháng năm âm thầm ôm nỗi đau tình đầu dang dở, âm thầm chịu đựng trước những nghiệt ngã của cuộc đời. Và tình yêu của chị cũng âm thầm nhưng bền vững như dòng nước ngầm dưới đáy đại dương cuồn cuộn chảy năm nầy qua năm khác...
Ngày xưa, trong xóm tui không có gia đình nào nghèo như nhà Bà Năm, Hai ông bà tuổi khá cao, ông Năm thì mang trong người căn bệnh Lao phổi nên ho hen tối ngày, bà Năm có hơi khỏe hơn một chút, nên hàng ngày bà mang cái rổ tre ra chợ Gò Vấp, bà mua ít rau cải hoặc trái cây gì đó ở chợ đầu dưới, rồi bà lên chợ đầu trên chỗ gần Bưu điện hồi xưa để ngồi bán lại, tuy không có " lời lãi " bao nhiêu, nhưng cũng tạm đủ cho gia đình bà sống đắp đổi qua ngày, còn thằng Thành con bà nó tuy còn nhỏ tuổi nhưng, sức vóc cao ráo nên nó chạy xe ba gác đạp để kiếm tiền phụ giúp thêm cho gia đình.
***
Nói theo thuyết của nhà Phật, không biết bà Năm có "Nợ nần tiền kiếp" gì với cái đám "xây lố cố" tụi tui hay không, mà tại sao trong xóm thiếu gì nhà tụi tui không chọc phá, mà chỉ quanh đi quẩn lại phá bà Năm tối ngày, tui nghĩ lại chắc cũng một phần bà Năm hay nói nhiều, phần nữa mỗi khi bà la rầy thằng Thành việc gì đó, tụi tui xúm lại xem rồi "Chế thêm dầu vào lửa" cho bà chửi tiếp, khiến cả đám khoái chí cười vui thích thú, cũng chưa chịu dừng lại chỗ đó, đôi lúc tụi tui phá bà những chuyện lặt vặt khác nữa, một vài lần đầu bà không để ý, nhưng sự việc cứ lập đi lập lại hoài khiến bà nghi ngờ, bà nghiệm đi nghiệm lại cuối cùng bà cũng biết đám "Quỷ nhỏ" phá làng phá xóm chứ còn "Ai trồng khoai đất này".
***
Bữa nọ khi bán xong rổ hàng hóa, bà Năm mua đem về một ít thức ăn, để lo cho thằng Thành buổi cơm trưa, vừa bước chân vô nhà bà nhìn lên bàn thờ ông Năm (Ông mất được vài tháng), bà thấy cây đèn dầu Hoa kỳ ai đốt lên và vặn tim đèn cháy cao nghiệu, khói đen từ ngọn lửa của tim đèn bay lên giống như : "Ống khói tàu" khiến bà phát hoảng la lên:
- Chèn ơi, ai đốt đèn kiểu này cháy nhà có ngày chứ chẳng chơi đâu nha, phá gì phá dữ thần vậy.
Nghe tiếng bà Năm la, cô Sáu Láng mở cánh cửa sổ phía lưng nhà của cô, nó đối diện với trước nhà bà Năm, cô Sáu hỏi:
-Vụ gì đó chị Năm, nghe bà la tui hết hồn hết vía hà.
Bà Năm chỉ tay về hướng cây đèn dầu đang cháy cho cô Sáu thấy:
- Ðó cô Sáu coi đi, hồi sớm khi ra khỏi nhà tui tắt hết đèn đuốc, vậy mà giờ tự nhiên đèn cháy dữ dội luôn.
Biết bà Năm cũng hay nhớ trước quên sau, cô Sáu nói:
-Chị Năm nhớ kỹ đi, coi chừng chị quên tắt đó chứ ai mà phá kỳ cục như vậy .
Bà Năm quả quyết:
- Tui chờ thằng Thành đi khỏi nhà rồi tui mới đi bán, tui nhớ tắt đèn hết ráo mà, kể cả cây đèn dầu "Hột vịt" thờ ổng tui cũng thổi tắt luôn, tui sợ ba con mèo, con chuột nó leo lên làm đỗ đèn thì cháy nhà như không hà.
Cô Sáu nghe vậy, bèn nêu thắc mắc :
- Vậy ai làm ta?
Bà Năm nói không cần suy nghĩ:
- Ðám quỷ nhỏ xóm mình đó, chứ ai vô đây cô Sáu.
Ðang núp trong cái đường chẹt bên hông nhà bà Năm, khi nghe bà nghi ngờ như vậy, đám tụi tui ló đầu ra rồi làm bộ "Ngây thơ cụ", tui lên tiếng hỏi:
- Có chuyện gì vậy bà Năm.
Không nói không rằng, bà cầm chiếc guốc vong chọi về phía tụi tui, rồi bà nói:
- Mấy thằng bây phá chứ ai, bày đặt hỏi nữa hả, chơi gì chứ chơi vầy là nguy hiểm lắm đó, lỡ cháy nhà có phải khổ cả xóm không.
Nghe bà Năm rủa dữ quá, nhưng muốn cho bà hạ hỏa, tui làm bộ lái câu chuyện sang hướng khác, tui nói:
-Chèn ơi! Có khi nào bà mần cái gì đó khiến ông Năm giận hông , tui nghe nói người chết họ cũng linh thiêng lắm đó bà Năm, họ không vừa lòng chuyện gì họ hay làm những hiện tượng lạ, nhằm cho người nhà biết thái độ không vừa lòng đó .
Bà Năm đang chú ý thằng Cảnh, nhưng nghe tui "Ðế" vô chuyện huyền bí này, bà xoay qua nói:
- Ý thằng Phương bây nói, vụ cây đèn hôm nay là do ông Năm tự làm cháy hả, thôi đừng bá láp nữa bây ơi, tao không tin ba cái chuyện đó đâu.
Như cố "Thanh minh" sự trong sạch vô can của đám mình, thằng Cảnh cháu cậu Tư tắc xi lên tiếng :
- Bà Năm nghi oan cho tụi con quá, nãy giờ tụi con chơi đánh đáo phía sân nhà cô Ba Sao chứ có vô đây đâu, bà Năm hổng tin tụi con thề cho bà Năm coi.
Ðể chắc ăn, thằng Cảnh thề cho bà Tin, Cảnh nhà ta nhanh chóng giơ tay lên khỏi đầu rồi thề:
-Tụi con có làm vậy cho Chó cắn đi, rồi đó bà Năm tin chưa?
Tuy đang bực bội, bà Năm cũng bật lên tiếng cười:
- Thôi tao sợ tụi bây quá rồi, lần nào cũng thề kiểu này hết trơn á, có ngày đó nha mấy đứa, tao thấy con "Bẹc grê"nhà cô Năm má con Phương kế bên kìa, nó biết bây thề cũng có ngày nó táp sứt (dái) hết, lúc đó đừng kêu trời nghe chưa.
Chú Ba Thợ mộc, người hàng xóm kế bên nhà bà Năm đang cưa rọc mấy cây gỗ Dầu để làm đố cửa, nghe bà Năm rủa xả mấy đứa nhỏ như vậy, chú Ba nỗi máu tiếu lâm chú bèn ngưng tay rồi lên tiếng:
- Chèn ơi, bà Năm nói vậy tụi nghiệp mấy đứa, chó nhà con Phương mà cắn như bà nói thì tụi nhỏ bị mất giống hết sao.
Bà Năm chưa hết giận, nghe chú Ba thợ mộc bênh vực tụi tui bà tức khí nói lớn:
-Cũng Dượng Ba nữa, dượng cứ bênh tụi nó hoài, nó phá riết sao tui chịu được.
Thím Ba nghe bà Năm nói vậy, thím lấy tay vỗ nhẹ vô vai chú Ba rồi thím nói:
- Cái ông này, đừng có cà rỡn nữa, không khéo bà Năm nói ông "Bắt cầu" cho mấy đứa quậy bả cho coi.
Chú Ba làm bộ sửa sai, chú Ba nói :
- Tui biết rồi mình ơi, nói giỡn cho vui đó mà, thôi mấy đứa xin lỗi bà Năm đi.
Nói xong chú nháy con mắt lia lịa, ngầm ra hiệu cho đám tụi tui tìm cách hạ hỏa bà Năm cho yên chuyện.
Thằng Lạc Lớn nhanh miệng, nó vội tới trước mặt bà Năm lễ phép khoanh tay và cúi đầu để xin lỗi:
- Dạ con xin đại diện mấy đứa tụi nó, xin lỗi bà Năm, từ rày trở đi tụi con không dám phá phách bà Năm nữa.
Công nhận lời xin lỗi của thằng Lạc linh nghiệm vô cùng, bà Năm đang ở trạng thái giận dữ, khi thằng Lạc dứt lời, bà Năm cười tươi rói, bà vỗ vai thằng Lạc, bà nói:
- Cha chả , mấy đứa xin lỗi tao lần thứ mấy rồi nhớ không?
Tui xía cái miệng vô :
- Thì áng chừng năm sáu lần gì đó bà Năm ơi!.
Bà Năm cười gằn giọng:
- Hổng dám năm sáu lần đâu, tụi bây quậy tao cũng chục lần rồi đó, gần đây nhứt là lấy quần áo của thằng Thành độn mền vô rồi thả trên giường, tao tưởng nó còn ngủ nướng quất cho mấy roi, dè đâu "Hình nhân thế mạng" , mấy bây phá phách " Trời gần đất lỡ " chứ chẳng chơi à nghe.
Thằng Cảnh bước tới bên thờ ông Năm, nó thò tay tắt cây đèn dầu rồi nói:
Thôi tụi mình dìa đi, để bà Năm còn lo cơm nước cho thằng Thành nữa.
***
Chiều nọ khi cơm nước xong, cả đám tụi tui tụ tập trước hàng ba nhà chú Ba thợ mộc để tán dóc, sau một ngày làm việc vất vả chú ba ngồi lai rai xị rượu với dượng Sáu và chú Năm Hải trong xóm, còn mấy nhóc tỳ tụi tui thì ngồi coi thằng Mẫm và thằng Thành đấu cờ tướng, cờ thằng Mẫm mới dòm vô thấy đang thắng thế, nó đang "gáy" rân với thằng Thành, bổng thằng Cảnh xía vô chỉ nước đi cho thằng Thành, chỉ vài nước đi tiếp theo thì Mẫm bị Thành chiếu bí, tức tối vì bị thằng Cảnh phá đám, người ta hay nói câu "Bên ngoài thì sáng, bên trong thì quáng" ,vì đánh cờ Tướng thường thì kẻ ngồi bên ngoài lúc nào cũng nhìn bao quát hơn người đang chơi, nên họ giao kèo với nhau, cấm không cho người bên ngoài chỉ chỏ, nên thằng Mẫm trả thù liền, nó đứng dậy rồi đến trước cửa nhà bà Năm nó réo lên:
- Bà Năm ơi, ra đây con nói bà nghe vụ này hay lắm nè.
Ðang luu cui dọn dẹp dưới nhà, bà Năm đi lên nhà trên, rồi bà hỏi thằng Mẫm:
-Vụ gì nữa đây ông con, mấy ông tính phá gì nữa đây.
Mẫn nhanh chóng nói:
- Hổm rày bà khui lon hộp "Cốc tai" chưa.
Nghe Mẫm nói vậy, bà Năm nói:
-Phải cái lon trái cây thập cẩm thím Ba cho tao hôm trước phải không? Chưa khui đâu, mà có gì hông sao tự nhiên hôm nay lại hỏi nó vậy.
- Bà Năm cứ đem ra khui liền đi, sẳn có mấy thằng nó ở đây nè. Bà mần liền đi bà Năm.
Nể lời Mẫm vì chính tay nó cầm hộp "Cốc tai" này trao cho bà Năm cách đây mấy hôm, do thím Ba chị của Mẫm tặng cho bà Năm ăn lấy thảo, bà liền đi vô mang ra khui liền theo yêu cầu của thằng Mẫm.
Khi khui cái lon đồ hộp này, nó cứ bị trật vuột hoài không trơn tru như những lần bà khui các lon đồ hộp khác, bà mắng vốn với thằng Mẫm:
Chèn đéc ơi, sao cái lon này khui khó thấy tía luôn, đâu bây khui giùm tao cái coi.
Mẫm đón lấy cái lon đồ hộp và cái đồ khui, thay vì nó khui giùm cho bà Năm, đàng này nó đưa cho Thành con bà khui giúp,.
Thằng Thành ngắm nghía lon đồ hộp , bổng gương mặt nó châu lại, rồi nó nói:
- Nghi cái lon này giả mạo quá, sao cái nắp trong kẹt nó cộm cộm không như mấy lon đồ hộp bình thường.
Nó lật cái đít hộp lên so sánh với cái nắp phía trên, rồi nó quyết định khui dưới đáy cái hộp Cốc tai kia, chừng cái nắp được mở bung ra, thay vì có nước đường và các loại trái cây thập cẩm bên trong, đàng này nó thấy mấy đồng bạc chì nằm dưới đáy lon chìm trong nước lả.
Thằng Thành la lên:
-Ủa sao vầy nè, chỉ có tiền mà không có Cốc tai.
Bà Năm biết ngay nguyên nhân như thằng Thành mới la lên, bà nói:
-Rồi à. Quỷ sứ nó phá nữa rồi chứ ai.
Bà Năm chụp vai áo thằng Mẫm liền một khi, rồi bà truy vấn nó:
-Thằng Mẫm chắc chắn biết vụ này, ai làm nói mau.
Thằng Mẫm khai liền:
-Bà Năm hỏi thằng Cảnh, Thằng Lạc, thằng Phương kìa.
Nghe Mẫm bung cái bí mật ra, tụi tui đành khai thật...
Số là bữa nọ trưa Hè buồn quá, khi qua nhà bà Năm chơi với thằng Thành, tui với Thằng Lạc tình cờ thấy hộp Cốc tai sơn màu nhà binh bỏ trong tủ kiếng, tui khều thằng Lạc ra ngoài bàn tính với nó để "Chôm" cái lon đồ hộp kia ăn chơi.
Khi Thành đi công chuyện khỏi nhà, hai thằng tui rủ thêm thằng Cảnh quơ liền lon đồ hộp này khui ra thưởng thức liền, sau khi ăn xong, "Lòng chợt từ bi bất ngờ" .Thằng Lạc nó kéo tui lại bàn tính để tìm cách đền bồi lại lon đồ hộp cho bà Năm, vốn là người giỏi giang, thằng Lạc biết sử dụng mỏ hàn điện, nó lấy giấy nhám chà sạch nắp lon và cái thành miệng lon đồ hộp , sau đó đỗ nước lạnh và thả tiền cắc vô coi như mua và trả tiền cho bà Năm.
Thằng Lạc hàn khéo léo vô cùng , khi nắp lon kín lại nó dùng giấy nhám vuốt lại mối hàn cho đẹp, còn tui thì về nhà lấy miếng sơn màu nhà binh để sơn lại cái nắp hộp rồi trả về cho khổ chủ coi như không có chuyện gì xảy ra.
Sở dĩ thằng Mẫm méc bà Năm vì nó ức chuyện thằng Cảnh chỉ nước cờ chiếu bí nói trên. Khi nghe xong câu chuyện này bà Năm chẳng những không giận mà bà còn vui nữa là đàng khác , vì đám quỷ này phá phách dữ tợn, nhưng cũng đền bù thỏa đáng thì bà Năm đổi giận làm vui là chuyện bình thường .
***
Rồi cũng một sáng nọ, bà vừa lôi ổ bánh mỳ và miếng chả lụa nhỏ trong "Gạc măng rê" ra, bà dự định làm một ổ bánh mỳ nhét chả lụa cho Thành ăn để có sức đạp xe.
Khi đem bánh mỳ ra cái dĩa bàn, bà Năm mới phát hiện ra đám kiến bu đầy, bà chợt ngó bốn cái "Chén" kê chân gạc măng rê đã khô rang, bà nói :
- Sao kỳ cục vậy cà , sáng qua tui châm đầy nước hết mà mới có một bữa sao cạn sệt hết vậy cà.
Cũng không thắc mắc gì, bà bỏ ổ bánh mỳ nọ rồi bà lội bộ xuống xóm dưới, nơi gần hảng ép dầu Ðại nam (một phân xưởng ép dầu hột cao su để làm ra xà bông cục cu hảng Trương văn Bền ngày xưa )để mua ổ bánh mỳ khác.
Sáng hôm sau bà lại lôi trong Gạc măng rê cái nồi cơm nguội đjnh hâm lại cho Thành ăn với cá lóc kho, khi nhìn nồi cơm nguội bà lại thấy kiến bu đầy, cũng đưa mắt dòm lại bốn cái chén kê Gạc Măng Rê cũng "Cạn nhách" bà không nói không rằng qua nhà thím Ba xin tạm tô cơm nguội cho thằng Thành.
Các bạn biết sao không, phá riết không còn cái gì ghẹo bà Năm nữa, thằng Lạc nói mình rút hết nước mấy cái chén kê "Gạc măng rê" đi, cho bà kiến nó vô ăn đồ ăn của bà Năm vậy cũng vui.
Nghĩ và làm ngay, hai ngày liên tiếp thấy kiến cứ vô và chén nước kê chân thì cứ cạn, người ta nói "Ăn quen chồn đèn mắc bẫy",khi phá ngày thứ hai khiến bốn cái chén kê chân Gạc măng rê không còn chút nước, thấy bà Năm im re không có la lối như mọi lần, tụi tui nghĩ chắc bà chưa nghĩ đến đám quỷ nhỏ tụi tui phá phách.
Hôm sau bà Năm không ra chợ bán nữa, bà xin thím Ba thợ mộc cho phép ra sau bếp nhà thím Ba để rình nhằm bắt tại trận thủ phạm quậy phá hai hôm trước, cứ tưởng bà Năm đi vắng như mọi lần, tụi tui lẻn vô nhà bà rồi bổn cũ soạn lại, thằng Lạc lấy cái ống chích bằng thủy tinh cũ cũ bác Tư ba nó bỏ ra, đem qua nhà bà Năm rút cạn sạch mấy chén nước kê chân Gạc Măng rê, công việc sắp hoàn thành, bổng từ đâu hai cái nắp nồi gang bay vèo vô trúng ngay tủ chén kêu rầm rầm, thời may không đứa nào bị trúng "Chưởng" , bằng không cũng thương tích trầm trọng chứ chẳng phải chuyện chơi, tui với thằng Lạc vừa dọt chạy ra cửa trước thoát thân, bà Năm xuất hiện cản đường cùng cây đòn gánh trên tay và gương mặt hầm hầm thấy phát ớn.
- Bắt tại trận rồi nha, hèn chi mấy ngày nay kiến bò vô riết, bây phá quá tao chịu hết nổi rồi, hôm nay phải khệnh cho mỗi đứa một cây đòn gánh mới được.
Năn nỉ bà Năm thiếu điều muốn thụt lưỡi, bà mới chấp nhận không qua nhà méc với ba má tụi tui, nhưng phải bồi thường cho bà ổ bánh mỳ và nồi cơm nguội, chưa hết phải thêm tiền lời buổi chợ do bà mất sở hụi để rình rập bắt quả tang.
Hai đứa tui về đập con heo đất gom tiền qua gửi lại cho bà Năm, nhưng điều bất ngờ khiến tui với thằng Lạc ngỡ ngàng vô cùng, bà Năm không nhận tiền đền bồi, bà khuyên :
- Nói vậy thôi tao không có lấy tiền mấy bây đâu, từ giờ trở đi quậy phá gì cũng nên nghĩ đến hậu quả,,bây thì vui rồi còn bà Năm không vui khi bị đám kiến bò vô đồ ăn.
Nghe bà Năm nói vậy, hai đứa tui hổ thẹn lắm, tự hứa với lòng không phá phách nữa để bà Năm toàn tâm toàn ý kiếm tiền sinh sống.
Mấy mươi năm qua rồi, Bà Năm thành người Thiên cổ nơi miên viễn, còn đám bạn ngày xưa cùng phá phách với tui giờ tứ tán, lâu lâu tui còn gặp lại thằng Mẫm, thằng Lạc Lớn, còn mấy đứa bạn khác thì bặc tin từ đó đến giờ ....Buồn ơi là buồn .
Viết xong. 1.9.2020. 19h24pm
Hân hạnh giới thiệu sơ vài nét ..
Ðọc để biết một câu chuyện ...
Một cậu bé chừng 13 -14 tuổi mồ côi, cha mẹ chết trong chiến tranh? Cậu ham mê trốn nhà đi du lịch như thế nào? Và bị cha mẹ nuôi đánh phạt ra sao? Ðó cũng là mở ra tiền đề cuộc đổi đời của cậu bé sau này... với những tâm lý biến chuyển trong em (Năng). Và may mắn Năng gặp những người tốt giúp.
Chương Một
Những buổi chiều tát cá lội sông, lội sình, lội mương, lội ruộng. Hễ nghe tiếng còi xe lửa là Năng giật nảy người đứng ngóng. Nhất là khi tìm cá trên cánh đồng lũng xuống, mà đoàn tàu lại chạy trên đường rầy rần rật cao hơn. Năng ngẩn ngơ cứ đưa mắt nhìn đến khi đoàn tàu xa hút và mất dạng. Như có cái gì đó thê thảm, vui buồn trộn lẫn trong Năng kỳ dị?
Năng từ nhỏ mồ côi cha mẹ. Trong chiến tranh ?Ðược gọi hòa bình lập lại sau chiến thắng của Bắc Việt 1975.? Mẹ cha Năng đi làm ruộng từ làng Mỹ Chánh bị M79 nằm sót lại trên vùng cỏ, nên khi họ cuốc đất, đụng nó bung ra nổ và chết tươi họ. Năng phải đi lang thang, thấy Năng ai cũng muốn lượm về nuôi, song Năng không ở với ai được bao lâu. Tại Năng còn trong tính thích tự do ít nghe lời ai.
Ðến khi ngôi nhà Huy Huê này là giữ chân Năng khá lâu gần sáu năm trời rồi. Chủ nhà biết tánh Năng ham nuôi chim, nên cho Năng nuôi chim sáo. Ði đâu về Năng cũng chăm con chim ăn uống, Năng thương chim sáo, hơn cả bản thân mình!
Năng cũng được học hành, song cậu ít để ý thích thú nó bằng nuôi chim, tát cá. Ông Huy bà Huê thì không có con nên chiều Năng. Năng được yêu quý, lại muốn gì có nấy. Thỉnh thoảng Năng mới lùa bò thả xóm sông cho chúng ăn cỏ, khi ông chủ bận bịu. Hoàn toàn thì Năng vui chơi, tát cá, bắt dế, trèo cây, và đi học thôi. Tuy nhiên tiền thì không cho, lối sống ở đây con nít là như vậy. Ít khi cha mẹ cho tiền. Hơn nữa ông bà chủ nhà Huy Huê sợ cho tiền, Năng sẽ biến. Vậy đó mà Năng thầm mơ đi du lịch. Cứ nghe đoàn tàu còi hú chạy ngang qua, thì Năng thèm được ngồi trên đoàn tàu để đi đây đó, xem cảnh lạ thì thích biết mấy!
Một hôm bỗng nhiên Năng thích điều đó tới bến, đang tát cá, Năng suy nghĩ và tự nói:
?Có thể phải trốn đi một chuyến cho thỏa thích mới được chứ?
Sau đó Năng liền bỏ hết tôm cá, tại ao tù, nơi gần mương nhỏ, bên cạnh vài đám ruộng sình lầy, để đi theo ước vọng mình. Năng đánh bạo vào gần ga chờ đoàn tàu chợ. (Tàu chợ là tàu vẫn có khách, nhưng chở hàng hóa đi kèm với khách là phần nhiềụ) Khi Năng đến ga, thì đoàn tàu thấy lúc nãy hình như chạy qua lâu mất rồỉ Năng đưa mắt thất vọng hơi buồn, nhưng Năng biết điều này ?Chỉ người đợi tàu thôi. Tàu đâu đợi người!? Năng phải đành chờ chuyến tiếp theỏ
Nửa tiếng đợi, tàu chợ chuyến khác lại đến. Năng mừng rỡ. Như được dịp, được keo mới rồi. Năng phóng mình lẹ như con sóc lẻn vào boong ga. Năng luồng qua các toa tàu nhanh chóng còn hơn con sóc con, hoặc tựa như chim sáo nhỏ lanh! Rồi cũng chệnh choạng lắm, Năng mới tìm ra chỗ ngồi! Năng như những hành khách nghèo khổ, quần áo trông có vẻ cũ kỹ, hơi bẩn thỉu lôi thôi, nhệch nhạt. Năng biết thế, nhưng Năng không kịp thay đi liền mà! Hơn nữa nếu thay đồ đẹp thì khó cho việc ra đi? Năng đành chịu, đâu phải ai đi tàu cũng mặc nhiều đồ đẹp hết? Kệ xác Năng không lo. Cậu lo là phải đi được một chuyến du lịch thoải mái, Năng ao ước lâu rồi thôi! Nghĩ ngợi mông lung, dần hồi Năng tìm một vị trí đứng lên. Ði qua các song, khung cửa chạy ngược, Năng nhìn thích và mắt vui quá! Năng như mở ra tầm nhìn, không còn bó hẹp như ở nhà, cứ thôn rồi xã, cứ xã rồi thôn, quá nhàm đi mất! Giờ thì Năng hí hửng tha hồ ngắm mây bay gió thổi. Còn gì bằng! Năng thích chí vô cùng! Ðôi mắt ngọc như được giải phóng, say sưa thả vòng ngắm, buông xa ngút ngàn không giới hạn kiả!
Ðến bốn, năm ga chẳng ai để ý, kiếm soát viên không buồn hỏi Năng, chuyện nhà nghèo đi tàu lậu lúc này hơi bị nhiều. Nên các kiểm soát viên cũng xuê xoa, cho hoàn cảnh người nghèo khổ lúc này. Ðến lượt khi có một anh kiểm soát viên lại hỏi Năng:
- Vé đâu cậu bé cho tôi xem.
- Dạ em không có vé.
- Ô lạ thay. Vậy sao cậu đi, lên từ đâu?
- Dạ Phù Mỹ. Em thích đi tàu mà không có tiền từ lâu, anh cho em đi chứ. Làm ơn nhé anh?
- Vậy sao? Anh kiểm soát viên nói và cười. Nhìn Năng anh trêu thêm, nửa đùa nửa chân thật:
- Ba mẹ đâu mà không cho tiền? Trông em có vẻ đầy đủ và thông minh mà! Em tên gì?
- Em tên Năng, không có cha mẹ. Ba má mất hết rồi. Em chỉ ở với người ta nuôi thôi.
- Có thật không, hay muốn đi phá phách nhỏ Năng??
- Không đâu! Em không phá phách đâu, anh cho em đi đi. Từ lâu em thấy đoàn tàu đi qua, nghe nó hú là thích lắm, nhưng nay mới dám đi.
- Vậy sao? Làm em của anh thì đi miết không sao nhé. Cậu bé kháu khỉnh ơi?
- Anh không nói đùa chứ? Em thích đấy.
- Ðược không đùa đâu. Nếu em muốn.
- Thiệt nhé. Năng bảo thế, và đưa ánh mắt ngó trìu mến.
Lê Hải nở nụ cười nhìn Năng và nói tiếp:
- Hì. Anh đùa đó thôi, đi đi coi cho đã rồi về. Nếu khi nào cần tham quan hãy vào ga này. Hỏi con tàu nào có Lê Hải anh sẽ ra rước em?
- Cám ơn anh. Vậy nhé anh Hải.
- Ừ ngắm đi cho thỏa thích, có đói bụng báo anh hay, anh kêu tiếp viên cho em ít đồ ăn. Nghèo không phải là cái tội mà? Ðúng không em?
- Dạ? đúng. Xin cám ơn anh.
Hải nói tiếp:
- Ừ thôi, chút nữa sẽ ăn chung với anh đồ ăn sẽ đem tới. Em ăn, anh trả tiền nghen ?Bé ham học hỏi, thế giới địa hình?? hi hi. Lê Hải cười nheo mắt bảo thế và nhìn Năng kỹ thêm.
- Cám ơn anh nhiều. Nếu em đi nữa sẽ nói em kết nghĩa của anh nghen?
- Ừ vậy đó cho xong chuyện. Không ai hỏi thêm đâu. Lê Hải trả lời bởi thấy Năng dễ thương, có vẻ láu lỉnh bộn.
Lê Hải nói rồi bỏ đi làm, một đoạn qua những toa tàu khác, như sực nhớ một điều chi. Anh quay lại nói với Năng:
- Em ơi lát nữa tới ga Quảng Ngãi tàu dừng lại nửa tiếng để tránh tàu Vinh vô. Em có thể đi xuống dạo chơi thú vị lắm. Anh có thể cho em ít tiền mua một vài thứ gì đó ăn, để biết đặc sản nơi đó đây nha.
- Em xin cám ơn anh. Nhưng em đứng trên tàu nhìn cũng đủ rồi anh.
- Không bằng đâu cậu bé, đứng trên tàu cũng có bán đồ ăn, song thì không bằng ở dưới nớ đâu. Dễ gì có cơ hội cho em? Lâu lâu tàu mới dừng đó thôi. Nên đi cho biết, nghe lời anh đi.
- Hừm anh? Năng phản ứng.
- Ði trên tàu em chỉ đưa mắt nhìn chung chung thôi. Chưa đủ thích bằng cụ thể đâu cậu? Có dịp nào nên thử hết, mới là kêu đi du lịch chứ lị?
Lê Hải nói mà Năng thích nhìn vầng trán rộng, mái tóc bềnh bồng cùng với nước da nâu đen anh. Năng thấy anh đẹp lắm. Năng ước gì mình lớn, được đẹp cái phong độ như anh Hải.
Lê Hải nhìn Năng thêm. Anh rút tiền trong ví để đem ra một tờ giấy bạc 20 đồng bảo:
- Nhận tiền anh đi. Chỉ còn vài tuyến đường nữa là tới không bao lâu đâu. Anh đi làm công việc nhé.
- Dạ cám ơn anh. Năng gật đầu và đưa tay cầm lấy. Lê Hải dùng tay mình sờ đầu Năng nhè nhẹ như một lời chào tạm biệt rồi bước qua các toa khác. Năng đứng nhìn theo Lê Hải cho tới khuất bóng, anh lẫn trong đám người đang dạo đi trên boong tàu.
Ðến ga Quảng Ngãi người phát thanh viên của ga thông báo trên loa ?Tàu SP17 này sẽ dừng lại khoảng 30 phút có hơn? ?Vì tránh đường cho tàu khác đi. Xin lưu ý cho quý thân khách biết thông tin này. Chúng tôi. Xin cám ơn??
Hành khách lắng nghe một số xuống ga đi dạo. Năng hùa theo những dòng người đông đảo đó. Và Năng cũng như bao người toan đi kiếm các quày, chài, liều nhỏ bán thức ăn, họ mua ăn cho vui miệng. Năng tìm đến rất ư lòng thú vị? Ba món mà cậu lấy thích là bánh bao, bánh cam, và bánh cuốn cá biển hấp. Cùng với xirô dâu thơm. Lại ăn thêm được cây kem chuối. Năng ăn quá no nê bụng. Ðúng ra mỗi thứ Năng thưởng thức một chút thôi mà đủ no, chứ không phải Năng ăn là nhiều lắm. Và Năng cũng được ngắm nghía các gian hàng ở đây một cách lạ mắt.
Chẳng mấy chốc tàu lại có thêm khách mới cùng với khách cũ. Và con tàu tiến hành rong ruổi đi tiếp, khi nó đã tránh đường cho tàu Vinh xong.
Lên tàu lại Năng nhớ mãi người bán bánh bao và bánh cam. Năng chỉ mua bánh loại nhỏ thôi. Mà họ lầm đưa ra cậu bánh lớn. Khi nhận tiền Năng gởi, họ lại kêu ầm ĩ:
- ?E ê kìa nhỏ này, lộn rồi mèn ơi. Trời ơi mau mau đổi lại. Mau mau ê nhỏ??
May mà Năng chưa kịp nuốt? Hi hi. Năng nghĩ cũng vui đấy!
Vậy là coi như Năng thỏa thích chuyến đi từ Phù Mỹ ra tới Quảng Bình và vào trở về ngược lại. Năng thấy quê hương Việt Nam nơi nào cũng đẹp, cũng xinh. Con người Việt Nam cần cù lao động? Nhà cửa, nơi giàu nơi nghèo, con người cũng thế. Nơi mặc lành lẽ, nơi quần chằm áo vá. Tự nhiên gây trong lòng Năng cảm thương, xót xa. Xã hội mà, ai đâu giàu hết, ai đâu nghèo hết? Chính Năng thuộc vào tầng lớp nghèo khổ kia mà? Mặc dù Năng ở trong gia đình cũng khá, so với thôn quể Ði qua một cánh đồng thấy chú bé tát cá xách lồng chim chạy. Năng bất chợt nhớ lại, nhớ con chim trong lồng của mình ở nhà vô cùng. Nhưng Năng nói thầm chính mình:
"Tao nhớ mày và chủ nhà nữa, nhưng tao muốn đi chơi nghía cảnh tý nha, tao sẽ về mà chim sáo nhỏ ơi là?"
Năng đã được rong chơi trên tàu và vài sân ga một cuộc đi thú vị, để nhìn quanh cảnh thế giới từ xa. Chỉ con tàu lửa đi ra xa thôi, cũng đã thấy trời cao bể rộng thật?!
Chương Hai
Về lại nhà Năng bị hỏi tội. Năng đang thay đồ đi học và cũng nhớ trường, nhớ lớp hơn bốn ngày. Ðang mặc đồ chỉnh tề xong, chuẩn bị ra đường vui vẻ thì ba Huy, chủ nhà kêu giật lại. Vì ở nhà ba mẹ Huy, Huệ đã lo như nóng nước đổ gọng hơn mấy ngày. Năng mới về lại. Má Huê thì OK, riêng ba Huy còn giận tức lắm. Anh bảo:
- Không đi học hôm nay đâu, vào nhà đi.
- Dạ ba nóỉ
- Vào thay đồ đi, ra đây có chuyện. Ðể ba dạy mày đã Năng.
Năng lặng lẽ vào phòng thay đồ. Năng mặc lại quần đùi cũ, và chiếc áo thường tay cánh ở nhà. Năng ra đứng gần đó.
Huê. Vợ Huy nói:
- Thôi anh, con nó ham vui, nó về rồi anh cản làm chi. Nó nhớ trường nhớ lớp?
- Em binh nó quá mà. Nó vô lễ quá, đi phải thưa về trình chứ, ở với mình là con. Muốn đi đâu thì đi sao em? Ði thưa ắt về trình. Câu nói đắc đạo, mất cái đi thưa. Vô lễ lắm, anh chẳng thích.
Năng đến ra đứng một góc gần bên mẹ Huê. Huê nhìn Năng, Huê thương tâm bảo thêm:
- Nhưng nó về rồi Anh Huy nà.
- Ðể tôi phạt nó mới được. Em đừng cản trở.
- Tội nó mà. Còn nhỏ ham chơi dại thôi anh?
- Măng không uốn tre uốn đâu lại, để tôi. Em lui đi.
- Thôi em xin anh.
- Ðã bảo lui ra. Anh dạy nó chứ có làm gì đâu mà em xin?
- Mình nuôi sáu năm rồi như con. Anh đánh nó em chịu không nổi.
- ?Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho ngàỏ Anh đang làm chuyện này. Em giang ra, anh năn nỉ mà, đừng làm anh bực tới em luôn.
- Ừ anh nhớ nương tay kẻo mang tội đó nha.
- Lui hoặc vào buồng đi, để anh trị? Nói sao em chậm thế? Anh có giết nó đâu mà em lo?
Nàng Huê lui ra ghé thăm coi bò. Nàng cho thêm rơm vào, chúng ăn nhỏn nhoẻn, nhìn thương cho đôi mắt hai con bò, như thương đôi mắt Năng bướng bỉnh kia, nhưng hiền lành đang bị phạt kiả
Trong nhà Huy đang hỏi tội Năng.
- Sao mà đi không nói cho ba má hay hỡi Năng?
- Con thích đi du lịch nhưng sợ ba má không cho. Nên con liều một chuyến con xin lỗi. Con xin lỗi ba má nhiều.
- Cả gan nghen đánh mày mới được. Ba Huy quất roi vô mông Năng, trong chiếc quần đùi sờn cũ Năng càng thấy đau lắm. Năng đã nằm sấp xuống cho ba Huy đánh.
Huy quất vào mông ba lần roi mây, anh lấy từ góc chuồng bò. Roi mây Huy để dành mỗi khi mùa cày ruộng, anh dùng đánh hoặc quơ quào hăm dọa bò, cho chúng đi kịp nhanh. Nhưng bây giờ Huy lấy ra đánh Năng. Huy cho là trị tội Năng.
- Ðau quá ba ơi, ba ơi đau quá, quá đau ba ơi. Năng xuýt xoa lấy tay sờ mông quần và rướm nước mắt.
- Không than, không kêu. Phải nhớ không được làm điều gì, mà không nói ba mẹ nha. Rất thương con đã cho con bắt sáo, nuôi chim trong nhà. Thì chỉ lo học hành thôi, con phải biết thân và công ơn chứ?
- Phịch, phịch, phịch?
- Ôi cha. Ðau quá ba ơi. Dạ con biết, nên con ở với ba má lâu mà.
- Mày dễ phản lắm đó. Tao phải cho mày theo vào rừng mấy hôm, đi với tao để khôn hơn.
- Chi vậy ba? Năng vẫn còn nằm nghéo cổ hỏi ba Huy, như đầy vẻ sợ sệt.
- Rừng tạo con người dũng mạnh, khôn lớn hơn, như núi sừng sững hơn, nhưng có cả gan góc hối hận hơn, cứ đi theo ba rồi biết.
- Dạ. Nhưng ba ơỉ
- Không nhưng gì hết, hãy đứng lên đã. Chờ kế hoạch mới của ba.
- Ba ơi cho con xin lỗi. Nhưng?
- Không có gì đâu. Lo lắng chi?
- Con cứ sợ điều chi đó.
- Ừ thôi được rồỉ Vậy đứng lên đi.
Năng đứng dậy, phủi tay nằm dính đất hoặc bụi bám. Năng đã vòng tay cám ơn:
- Con xin cám ơn ba tha.
Vừa lúc vợ Huê vào. Huy lại nói:
- Mai tôi dẫn nó đi rừng, em ở nhà thả bò hay cột gì chúng cũng được.
- Chi vậy anh?
- Tôi đi săn ong muốn dẫn nó đi chơi, không có gì em đừng ngại.
- Ba ơi. Ba thương con với. Năng tha thiết bảo thế.
- Ðã nói không có gì đâu. Yên tâm đi. Huy trả lời.
- Ừ được, anh đừng làm quá nghen! Huê tỏ ra ngờ vực khuyên chồng.
- Tôi vẫn thương nó. Mà phải làm cho nó biết thôỉ Huy trả lời.
- Anh ơi là?? Huê nói tới đó rồi ngưng.
- Em khỏi lo. Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho ngào. Ông bà ta bảo thế em ơỉ
- Bây giờ câu đó coi không còn giá trị, coi chừng lỗi thời anh Huy.
- Không khi nào mà lỗi thời cả, những câu vàng ngọc khuôn thước đó. Em cũng nên hiểu lấy chứ?
Huy nói và đi cất roi mây lại nơi cũ, ở góc chuồng bò anh trở vào, Huy nghe tiếng Huê.
- Dạ. Anh ơỉ
- Có gì mà anh ơi, anh ơi hoài vậy. Chuyện nhỏ như hạt gạo, mà có chi em hốt hoảng chứ? Yên chí đi mà. Anh không rảnh để nghe em than đâu.
- Em hiểu nhưng mà...
Huê nói như trả lời cụt, vì sợ chồng, nên Huê lẩn thẩn, lẩn tha không dám hỏi gì thêm. Huê chỉ nhìn thằng con bị đánh phạt nặng đòn mà thương?
Thằng bé lém lét còn nhìn ba Huy liếc má Huê. Bé vừa sợ vừa thương má. Huy đã bỏ đi làm một cái gì đó rồi. Còn lại Năng nhìn má Huê, má con như thông cảm nhau lắm. Huê đến sờ đầu con trai, rồi đi lấy khoai môn mới nấu đổ trong rổ đưa Năng ăn với mình, song Năng chỉ lắc đầu. Huê vội đi lấy chai dầu nhị thiên đường thoa cái đoạn, vùng mông đau thằng bé?
Năng nhìn mẹ Huê kính yêu bảo:
- Con cám ơn mẹ.
- Mẹ thương con lắm Năng. Chắc đau lắm hả con.
- Dạ đau lắm mẹ.
Chương Ba
Sau đó thì Huy dẫn Năng vào rừng xa, hai cha con kiếm săn ong khá lâu. Năng cũng rất thích thú khi đi rừng với bố. Thế giới rừng cũng quả đáng yêu và huyền bí, Năng cảm nhận. Rồi ba Huy bảo:
- Ðói bụng chưa Năng?
- Dạ đói. Năng thành thật.
- Vậy thì ăn cơm với ba đi.
- Dạ.
Hai cha con bẻ vài tảng lá rừng, để ngồi lót ăn cơm. Rừng cũng có những tảng lá rộng và to lắm. Năng vẫn không biết lá tên gì? Cậu cũng chưa kịp hỏi ba. Mặt trời xuyên qua lá, lớn có nhỏ có, đổ xuống trên mái tóc ba và vai áo. Năng trông trong chốc lát, Năng thấy nó đẹp tuyệt vời vô cùng, rồi nó biến đi đâu mất trơn kỳ lạ... Chỉ còn mát rượi bóng râm đổ xuống, nơi hai cha con ngồi ăn. Cậu cố nhìn hình thái đó, nhưng không thấy nữả
Ăn xong cơm Huy bảo:
- Ðưa tay đây cho ba.
- Chi vậy ba?
- Ba cần, không hỏi chỉ Ba không giết con đâu.
Năng đưa tay, cậu bé nhìn Huy đầy lo sợ.
- Ba cột tay con, coi như hình phạt con bỏ nhà đi đó. Cột con ở đây ba hôm, ba sẽ trở lại. Phạt con mà cũng tập con gan góc dũng cảm, cả hối hận đó, nhiều thứ đó trong bài học. Cho con nhớ đờỉ!
- Không, ba ơi con sợ thú rừng.
- Không sao, cả rừng này không có gì nguy hiểm đâu. Cho con nhớ đời. Cho con trưởng thành hơn.
- Không, ba ơi con lạy mà, con không làm vậy nữa đâu.
- Cứ để ba làm đừng la. Chuyện cũng nhỏ thôi mà.
- Ba ơi, ba ơi!
- Ðó con có nghe không? Không ai giúp con đâu. Ba sẽ giúp con thôi.
- Ba ơi, ba ơi, con lạy mà thả con ra! Ba ơi, ba ơi!
Năng cứ nói, Huy cứ làm, Huy cột tay Năng và cột Năng vào thân cây không to lắm. Bởi Năng còn bé nhỏ, nên Huy làm gọn gàng như trò chơỉ Huy lại bảo mau:
- Xong rồi đó mới ăn chưa đói đâu, có đói cũng để nhớ đời. Ba hôm nữa, ba sẽ tới thả con về đi học lại. Cố gắng nhé.
- Ba ơi, ba ơỉ Con không muốn. Ba ơi, con không muốn, con không b? a.
Thằng bé nói như muốn lạt hơi chữ cuối. Huy nghe nhưng giả vờ như không, anh bỏ đi xuống núi. Huy đi như tỉnh bơ, không có gì để anh phải lắng nghe!
Năng kêu mãi ba ơi, ba ơi rồi khóc. Chỉ còn hốc đá nghe. Năng tung tẩy mạnh, song Huy cột chặt cứng quá. Năng đành chịu thua. Bậm gan mà Năng chảy nước mắt khóc, rồi hết rướm khóc, rơi vào im lặng. Cậu lại nhìn trời, nhìn rừng. Ánh nắng chiều trong rừng nhưng sao lại chói chang, cũng đi ngang qua rồi biến mất lẹ quá. Năng như chưa kịp nhìn đủ. Lòng Năng giờ nghe trống rỗng mơ hồ, mà xốn xang? Năng như chìm vào giấc mộng, rồi cũng nhanh chóng trở về với thực tế. Suối vẫn chảy róc rách đâu đây, đâu đó chim xanh vẫn vỗ cánh, xa nhành bay đi, ong thì vẫn bay cao vù vù, bền chí đi tìm hút mật, chỉ mình là không duy chuyển được. Năng nghĩ và đành buồn.
Rồi mệt mỏi ngày thứ hai, Năng vẫn cố la lên:
- Cứu, cứu giùm tôỉ Trời ơỉ cứu giùm tôỉ Trờỉ
Có người đi đi rừng, đúng hơn là một vị thiền sư. Là một thầy tu, tăng tu, lắng tai nghe âm vang động, bèn dần hồi tiến về phía âm thanh phát ra. Nắng lại xuất hiện nhẹ nhàng, dìu dịu đi theo chân ông. Vị tăng thấy một em bé bị cột, vội thật động tâm liền tới hỏi:
- Sao lại thế này. Ôi. Nam- Mô-A- Di-Ðà -Phật
- Con bị cha mẹ nuôi phạt, con muốn mở trói giùm con. Làm ơn! Năng trả lời nhanh.
- Mà sao con bị phạt? Vị thiền sư hỏi. Mắt vị không rời sóng mũi và nhơn trung của Năng.
- Con tự bỏ nhà đi chu du, không báo rồi về lại. Năng trả lời.
- Vậy có gì ghê gớm sao phạt hình phạt này? Ði và có về mà? Nam-Mô-A-Di-Phật. Vị thầy chắp tay xá, như một tình yêu cầu nguyện của môn phái mình.
- Vậy nên mở cho con. Con chịu không nổi nữa, đau quá.
- Ừa, Nam-Mô-A-Di-Ðà, ta mở đây. Người thầy tu lẹ làng mở trói ra cho Năng.
Năng đưa mắt nhìn vị thiền sư kỹ hơn, như xúc động, lấy tay bái, rồi quỳ xuống tạ ơn:
- Cám ơn thầy đức rộng từ tâm. Con sẽ không quên? Cho con đi.
- Vâng nhớ ta là đủ rồi. Vị thầy tu nhìn lại Năng, và ông nhìn chiếc dây trói, ông bức ném qua một bên kia.
- Nam-Mô-A-Di- Ðà? Ông niệm tay vẫn để trước ngực, vẻ ông thành kính bề trên.
- Ðội ơn ngài.
Năng sợ ba mình đến, nên cậu bé xa người thầy tu mở trói ngay tức khắc, không nói lâu hơn. Năng đi thật nhanh nhẹn khuất bóng, Năng vẫy tay chào tạm biệt, chỉ còn một dấu hiệu. Người thầy tu còn nhìn theo bóng Năng xa dần trong rừng. Ông tự thấy lòng nhẹ nhõm, không biết vì đâu. Rồi ông đi với công việc tọa thiền của mình nơi rừng rú. Thầy cứ đi qua các nẻo, gió rừng như rít, hú gọi miên man?
Năng xuống hố đi tìm nước uống trước tiên, sau tìm cây sung một vài trái trong rừng ăn cho đỡ đói. Năng ăn rồi thèm nhìn những lũng vạt nắng trong rừng huyền ảo và kỳ dị kia. Năng ước gì có máy ảnh, sẽ săn chụp vài ?pổ để lấy làm chiến tích đẹp, nhưng dễ gì có? Ðúng là mình cóc mà đòi leo thang, người nghèo rớt mồng tơi, mà đòi làm sang kiểu cách, tuổi nhỏ mà đòi làm việc cao? là Năng đây! ?Rõ là thằng nhỏ Năng quá hư!? Năng tự nói rồi cười buồn luyến thoáng bâng quơ, cho óc tưởng tượng ?siêu việt?của mình. Bất chợt? Năng nhìn thêm vài loài hoa rừng. Hoa loa kèn vàng, hoa kèn trắng, xanh, và hoa như đuôi chồn mọc tím đâu đó cũng có, qua đối diện bên cây sung chỗ không xa mấy, nhưng lại là nơi đất khô cứng hơn chắc, vị thế nó như vậy, nó không ẩm ướt như nơi cây sung bìa rừng nhỉ? Lúc này coi như có lẽ đã đủ rồi không còn tâm trạng thưởng thức nữa. Năng chỉ đưa mắt phóng tầm nhìn ngắm xa đỡ thích chí một chút. Nhưng mà nói vậy thôi, chứ hoa thì kỳ lạ lắm, nó vốn lôi cuốn làm Năng vẫn muốn tò mò tới hít ngửi, hoa lá ấy một tý chứ, rồi sẽ bỏ đi tìm một chỗ ngồi mới được chứ? Bất chợt lần thứ hai cậu lại đụng phải một loài hoa kế bên nữa. Ðúng ra loài hoa giống hoa mà không phải là hoa, hình thức nó như một cái muỗng phểu cuống cong, trông khá khéo léo và đẹp như muỗng nhỏ của các bà bán dầu đậu lạc, hoặc là bán rượu ở các quán để đong đổ vào hũ, hay bình chai miệng bị túm xíu đó. Nó còn có nắp mở hơ hớ phía trên trông rất ngộ ngộ dễ thương nữa. Năng say đắm nhìn những cánh, lá, nhành, đốt, cuống, và thân cây chúng rất lâu.
Xong Năng về lại gốc sung ngồi nghỉ, một hồi đủ chuyện Năng đã bắt gặp trong rừng. Rồi Năng phải tự nghĩ một điều mới lạ hay vô cùng. Năng nói với lòng mình hiện tại thêm:
"Hay là ta phải đi thôi, xa thôi, ba nuôi ta có thương ta, nhưng tánh tình, khí chất sao quái gỡ quá, nỡ coi mạng ta rẻ hơn bèo! Mẹ nuôi thì thương mà lệ thuộc. Thôi ta không về nữa đâu, sẽ tìm chốn khác mà đi, đi cho chắc hơn?" Ði từ nơi rừng nàỷ
Cậu nói và thấy chú sóc chuyền cành vui vui. Năng đứng lên nhìn thì nó chạy mất, thấy một con chim gõ kiến tìm mồi thấy Năng, nó cũng cuốn bay nhanh, thấy một con nhím trẻ nó cũng cúp đuôi trốn, thấy một con thỏ dại chạy ngang, nó gặp Năng vội lẹ tìm nơi trú ẩn? Loài thú trong rừng đa phần nhát vô cùng. Rừng cũng thú vị cho Năng. Năng có cảm giác yêu quý hồi hộp đan chen?
Năng chợt nghĩ ra đời mình hẩm hiu, côi cút, mất tự dỏ Cậu muốn đi tìm lại Lê Hải, người mà Năng đã gặp trên tàu lần đó- Anh đã nhận và dặn Năng rồi kia mà! Và Năng có ý muốn xin anh ta giúp cho Năng cuộc sống, hơn là về với gia đình ba Huy. Ba Huy quá gắt gỏng, quá sát phạt, cột mình! Ba Huy làm một việc giáo huấn lạ kỳ, chẳng hề thương tiếc ta. Mẹ Huê có thương ta nhưng giúp được gì, chỉ chống trả yếu ớt...
Năng nặng lòng suy nghĩ, muốn hoàn toàn thay đổi ý định. Năng quyết ra đi. Tuy lòng còn bịn rịn, đọng ở nơi đây: ao, hồ, sông, suối, như níu chân Năng. Cái xứ sở Mỹ Trinh địa thế núi cao và bùn lầy có đủ ấy. Cái xứ có người cha mẹ nuôi, cùng bè bạn, đã cưu mang mình trên những năm tháng ? Nhưng, than ôi! Năng muốn vứt bỏ nó. Vì có lẽ phải chia tay. Cậu muốn đi dần theo hướng về dưới chân núi.
Và đợi sao ngày tắt hẳn, trời kia bắt đầu lấp lánh. Có đêm đã về tớỉ Năng rời khỏi núỉ Xóm làng đang chìm ngủ trong đêm. Năng né con đường về thôn nhà, Năng rẽ trái theo đường một thôn khác Trực Ðạo. Năng lội dọc theo đường rầy Trực Ðạo, để tiến về ga của Phù Mỹ- Mỹ Hòả Cách xa chừng 12 cây số.
Ban đêm Năng vẫn cắm cúi đi và chạy về ga. Bởi cậu đã thay đổi thái độ hoàn toàn chẳng mảy may? Năng dứt khoát cuối cùng là mạnh tiến ra đi. Năng đi cả chạy, thôi thúc, xen kẽ? Thỉnh thoảng, Năng ngoái cổ nhìn lại phía sau mờ mịt không có bóng người. Ðêm thật kỳ bí hùng vĩ, cả lạnh lùng nặng nề, nó như theo chân Năng phía saủ
Chương Bốn
Ðến ga Năng chờ đợi không bao lâu cùng với hành khách. Tàu đến liền Năng thấy may mắn không còn chờ đợi như lần trước. Năng phóng lên tàu như một mũi tên liền tìm toa ngồi. Năng nhìn và cũng giúp một bà mẹ già, khi bà xách hai giỏ xách, bà đi lẹt khẹt khó khăn, một giỏ xách có trái mít hơi bự, và một xách lát bí, bầu, khoai, sắn chi đó. Bà nhờ Năng đưa tay phụ kéo, nên lên toa được nhanh gọn. Bà nhìn Năng như ném cái cám ơn chân thành một thằng bé mau lẹ. Năng hiểu. Năng đưa mắt nhìn bà, nhìn mọi người chung quanh, rồi cũng vui vẻ ung dung hơn, nhưng trong lòng Năng sâu kín lại vẫn phiền âu chút đỉnh...
Ðoạn khá lâu thấy một một chị nhân viên có gương mặt hiền lành, chị ăn mặc theo nữ kiểm soát viên thật dễ thương. Tóc dài chị vấn cao. Nước hoa chị cũng thơm phức. Năng vội hỏi:
- Chị ơi, em muốn tìm anh Lê Hải.
- Em là ai, tìm anh Lê Hải?
- Anh ấy nhận em là em nuôi. Em muốn theo anh ta về nhà ở.
Hiền nhìn từ đầu đến chân Năng và nói:
- Ba mẹ em đâu?
- Em không có ba má. Ba má vì khai thác ruộng hoang, đụng mìn của chiến tranh còn sót lại nổ đã chết...
- Vậy sao?
- Em đi lang bang nhiều người nuôi, nhưng bây giờ em muốn về với anh Hải. Lần trước em đi. Anh ấy nói nếu em cần, anh ấy nhận?
- Thật anh Hải nói thế không?
- Dạ thật.
- Chị là vợ anh Hải đây, sao chị chưa nghe anh ấy nói.
- Em không biết nữa. Năng có vẻ lấm lét một chút.
- Hôm nay anh ấy không đi, không phải chuyến ảnh. Thôi theo chị về coi, anh ấy sẽ nói sao. Ðươc không?
- Dạ được chứ. Em xin cám ơn chị.
- Ngồi xuống đi, tới ga nhà chị sẽ kêu. Chị đi làm công sự nhé. À em tên gì?
- Năng, Trần Công Năng.
- Tên đẹp đó nha, mặt mày có vẻ khổ tý. Mà tư chất cũng khá thông minh đó. Nên chắc anh Hải chịu.
Hiền nói và cười, vui vui bước đi, qua toa khác.
Tàu cứ vận hành chạy rần rật trên đường ray, nó dừng ở các ga đón khách chờ đợi và hàng hóa, theo quy định giờ giấc. Và tàu lại tiếp tục chạy theo đường ray ga, rần rật như thế, khi có hiệu lịnh xuất bến. Năng hết nhìn khách thì nhìn cảnh vật, hết nhìn cảnh vật lại nhìn nhân viên. Những kẻ bán hàng rong trên toa tàu, những kẻ khuân vác buôn bán than củi lem luốc v.v? Năng cũng thấy tội nghiệp và thương họ làm sao! Riêng phần mình tuy một quyết định mới mẻ táo bạo, nhưng lòng Năng giờ có vẻ buồn hơn vui. Năng cũng không biết lý do là tại làm sao? Lạ nhỉ vì đâu? Nhưng rồi cậu cũng ráng gượng vui đổi chiều, để gặp lại anh Hải. Buồn quá biết đâu anh Hải không nhận nữa thì chết? Lỡ cơ hội biết đâu mà về? Năng cảm thông với chính mình và cũng yêu lấy bản thân mình? Cậu cố gắng muốn trọn vẹn trong mơ ước. Nhưng thói đời, có lẽ ai xa quê hương, mà không từng bịn rịn nơi mình từng chung sống cơ chứ?
Ði qua các trạm ga tới Nha Trang, Tháp Chàm, Phan Thiết, Mường Mán, Bình Thuận với những ga lẻ nữả Rồi cũng đến Sài Gòn. Ðã tới ga nhà. Hiền đưa dẫn Năng ra rời tàu, xuống bến.
Hải hôm nay đi đón vợ. Ðến cỗng chợt thấy Năng. Lê Hải không tin vào mắt mình. Hiền lại reo lên liền:
- Ổ Có con trai tìm nè.
- Ồ em Năng. Hải đi tới cầm tay Năng.
Anh vui vẻ ngạc nhiên hỏi thêm:
- Năng đấy à, sao em tìm được cô thế, và sao em biết Năng. Hiền em?
Lê Hải có mái tóc quăn đẹp tự nhiên mà Hiền thích nhất. Cô nhìn chồng, cả Năng cũng đang nhìn mái tóc bay bướm của anh.
- Chuyện như phim mà anh. Năng nói anh chấp nhận nếu nó muốn về ở. Em đem về thế thôỉ Hiền vui vẻ kể chuyện gọn.
- Ừa cám ơn vợ Hiền của anh. Anh gặp cậu bé lần trước, bé muốn đi du lịch trên tàu chơi, mà không có tiền anh tha cho, rồi cũng có nói nửa đùa nửa thật, nếu về ở với anh, anh sẽ nuôi thế thôi. Giờ em đồng ý chứ Hiền?
- Em cũng thấy nên giúp nếu như vì hoàn cảnh, em ấy đã thích anh. Hiền đáp.
- Hoan hô em. Hải nói mừng rỡ thêm.
Năng đứng im bẽn lẽn nghe lòng vui có chút hồi hộp. Tay Năng thì đã tay không rồi, Năng không có xách gì cả? Năng đứng sát Hiền, gần chạm cái xách tay ?xịn? Hiền đang mang trên vai.
- Thôi về nhà đi hãy tính. Hải bảo.
Hiền gật đầu nhìn Năng, như ra hiệu cho Năng biết Anh Hải đã gặp lại, chấp thuận rồi. Năng nhìn hai người Hải, Hiền như xúc động, tỏ lòng biết ơn và đi theo họ.
Họ cả ba rời khỏi nơi hành khách và cả những phòng đợi ở ga tàu, họ về nhà. Cả ba như một gia đình đi xa về vậy...
Nhà của Hải và Hiền gần ga nên đi bộ chẳng mấy chốc, qua ba con ngõ hẻm đầu, hai con hẻm sau thì đụng tới nhà họ ở phía góc trái.
Năng được chỉ nơi tắm rửa. Xong. Hải nói:
- Năng ở trong nhà anh chị, thì phải tốt, phải học giỏi em nhé. Muốn đi đâu anh chị cũng cho cả, song phải học hành là trên hết, không học anh đuổi đi đó. Nhớ nghen.
Năng lắng nghe. Hải nói tiếp:
- Anh chưa có con, có con em vẫn ở đây. Muốn nên người thì nghe lời anh. Sau này em trở thành kỷ sư, bác sĩ về làng cũng không muộn. Coi như đã ?nhập môn" vào nhà anh chị rồi nha! Nhớ phải chấp nhận những gì anh đã dặn nha.
- Dạ. Năng chỉ nói tiếng một. Khi lắng tai nghe Hải dạy.
Năng được Hải chỉ giao một phòng. Có đầy sách Năng rất thích. Cái gì ở đây trông cũng đẹp mắt, sạnh sẽ mới toanh hơn ở quê, nhà cửa thơm phức, lạ lùng? Và Hiền sau đó, cô đi làm giấy nhận nuôi chịu trách nhiệm, xin cho Năng đi học, nhập học tiếp v.v?
Chương Năm
Trong lúc đó chốn quê nhà đã xảy ra; Huy đi lên núi tìm thì không thấy Năng. Dây trói đã bị bứt mở chứ không phải là dao rựa cắt. Huy nghĩ Năng rất là mạnh, vùng vẫy. Huy có cảm giác hơi hối hận vì cột Năng ba ngày anh mới lên núi. Hay là hùm beo đã cướp đi thây thằng nhỏ. Không tin, vào việc nghi ngờ này lắm. Nhưng Huy bỗng thấy thương tâm. Huy mãi gọi tên khi đi kiếm:
- Năng, Năng ơi, ba đây, ba đi tìm con đây. Năng Năng ơi, ba đây, ba đi tìm con đây.
Huy cứ gọi mãi như thế nhiều lần, cứ bước đi trên những con đường quanh co, khúc quẹo lối rẽ, lỗ hang, lối mòn chân núỉ có đủ.
Trả lời cho Huy chỉ là những cơn gió va vào lá rừng rồi xao lãng, nghe trông lạnh ngắt. Ngoài ra không còn tiếng động tĩnh gì. Huy dần mò kiếm khắp nơi cả buổi chiều trên rừng, cũng chỉ tiếng chồn chạy qua, thỏ chạy lại, sóc phóng cao, chim nhảy xuống, nhím bung tới, bìm bịp lui về, mất hút trong lùm cây. Chỉ còn đá nhẵn của rừng im ỉm trong nước róc rách thêm buồn. Nắng rừng hôm nay như yếu ớt, xuyên qua các mãng cây xanh, mè nheo các cành cây héo rũ, đáp trên vầng trán anh như chọc ghẹo niềm đau Huy thêm? Huy vẫn như không tìm ra dấu vết nào của Năng. Huy lại, đến khi tối rồi phải quay về. Vào nhà Huy bảo vợ:
- Thằng Năng đi đâu mất tôi tìm chả thấy. Cả ngày nay tôi mệt lả.
- Ông ác quá biết đâu cọp beo tha sống mạng nó rồi. Em nói mà anh không nghe lời em. Giờ nói gì nữa? Huê bực mình, nên lúc thì kêu anh lúc thì kêu ông.
- Không có cọp beo đâu, nó tự mở trói hay ai giúp nó thôi. Ðể từ từ tôi tìm, để từ từ nó về? Có thể em ơi.
- Chắc nó không về nữa đâu. Vì nó khiếp anh đó?
- Nó thương con chim sáo sậu nó nuôi. Thế nào nó cũng trở về mà.
- Em không nghĩ vậy đâu.
- Cứ tin đi đã.
Cả mười ngày, rồi nửa tháng. Năng vẫn không về.
Sau đó Huy bỏ công mấy ngày đi tàu. Vì lần trước Năng về nói đi tàu nên Huy hằng mong sẽ tìm gặp ở đó. Nhưng Huy không thấy bóng dáng nó trên tàu chợ. Thấy chú bé nào nho nhỏ phía sau giống, Huy cũng ráng nhìn cho tận mặt thì lại hóa lạ, không phải nó. Huy lại chưng hửng thất vọng, soi lại niềm đau chính mình?! Có lẽ Huy mơ, mơ ước sảng, nên cứ nhìn mãi, hễ ai ngang tuổi với Năng thì anh cứ dán mắt cả phía sau lưng và trước mặt kẻ đó! Biết lầm hay không lầm, Huy vẫn cố thực hiện? Nên nhiều người ngạc nhiên cứ tưởng Huy là một người mất trí, tâm hồn lạng quạng, có vẻ hỗn độn mê lầm chi đó. Nhưng Huy biết mình không phải vậy, chỉ vì anh đang cố tìm đứa con nuôi...
Xong kết quả không được gì? Không khả quan chi cả. Sự việc lại trả về sự thật, anh chả tìm ra. Huy phải từ giã nhiều ga, nhiều con tàu, rồi về lại quê nhà! Lòng Huy buồn thiu thỉu như kẻ ngậm dấm, lúc trái thời không thích?
- Thua em ơi. Anh không tìm ra.
- Thì em nói rồi. Nó chết trong rừng rồi tìm gì nữa.
- Có thể nào như vậy?
- Có thể và không có thể gì anh? Cả trường nó nhôn nhao anh giết nó trong rừng đó.
- Tôi dẫn nó đi đâu ai thấy? Mới sáng tinh mơ.
- Hôm bữa bạn nó hỏi. Tôi nói anh đem phạt nó trong rừng rậm, núi caỏ
- Vậy lỗi do em.
- Còn gì nữa. Anh làm thế, tôi phải nói thật. Chứ biết làm cách nào hơn.
- Thôi để từ từ lắng xuống. Anh thật sự hối hận?
- Ðến chết anh không chuộc được lỗi này. Anh biết, nếu nó chết rồi.
- Anh biết, cũng rất khổ tâm mà.
- Nó ở với mình lâu lắm đó. Vì chiến tranh nên nó mới mồ côi.
- Hậu quả của chiến tranh mìn mỏ thôi.
- Ừa cũng từ chiến tranh mà ra. Biết bao người phải chết trong mìn bom, nằm trong lòng đất. Bỏ con thơ hoặc vợ dại, ở lại mồ côi. Em thật thấy tội nghiệp?
- Bởi vậy người ta mới nói chiến tranh đi đôi với tội ác.
- Anh hôm bữa gần đây cũng sắp bị đụng trái bom bi...
- Thôi nói chiến tranh là sợ, không nói nữa. Bây giờ mình mất con, chỉ nói mất con thôi.
Nàng nói tiếp:
- Lạy trời cho con tôi tên Năng. Ở nơi nào cũng được mong bình yên trở lại một ngày. Huê tha thiết nói lên như vậy.
- Anh cũng hằng mong như thế mỗi đêm. Mong trời thương linh ứng chứ biết làm sao.
- Anh thật đáng trách. Anh hiểu thì đã muộn. Nhưng anh đâu có ngờ như vậy? Ðúng không?
- Là như thế đó em! Huy trả lời nhìn Huê thật kỹ, rất chạnh lòng nơi mình.
- Nói gì nói anh vẫn mang trọng tội. Anh biết chứ?
- Anh biết? Và không có gì đền bù được nếu nó đã chết oan em ơi. Huy đau khổ nói lên điều đó nữa.
Huê chỉ biết lắc đầu trong đau đớn, lòng càng thương hại nghĩ đến Năng.
Chương Sáu
Thời gian lặng lẽ trôi qua từ một cậu bé bỏ nhà cha mẹ nuôi ở Mỹ Trinh đi. Và cậu cố gắng đèn sách miệt mài như lời ba Hải dạy. Năng ít bạn bè, hầu như không có luôn. Chỉ lo thui thủi học, thỉnh thoảng chơi banh một mình trong một góc khu vườn nhà, trông Năng rất dễ thương. Thời gian còn lại, Năng hầu hết trong phòng nghiên cứu một mình học. Và học đến ốm người luôn!
Ba má nuôi Năng là những người thích chuộng võ nghệ. Nên họ thường luyện võ cho nhau những ngày rảnh, không đi tàu. Hơn nữa Hải, Hiền cũng muốn thủ vài ngón, nếu có kẻ uy hiếp, hay nghịch ngợm nào trên tàu, hoặc họ côn đồ trở ngược gây rối loạn, phá phách mình v.v... Thì Hải, Hiền tự mình sẽ có cách với họ. Vâng đúng thế! Phòng bệnh hơn chữa bịnh. Lý do đó khiến anh chị vẫn học lấy vài chiêu phòng thân. Năng thấy ba má luyện võ thì thích chí lắm, nhưng chưa dám hỏi ba Hải để học. Cậu chỉ lo chăm chú tập trung bên học tập của mình thôi. ?Con đường đi ta nên chọn một đường đi thẳng cho đạt đã.? Không thể ôm đồm nhiều việc? Năng trộm nghĩ ra thế, vừa với cán cân mình nắm? Và hình như đó cũng là một câu nói hay ?anh? đọc ở đâu rồi!
Và lần ấy ba má Hải Hiền rủ đi du lịch. Năng đều lắc đầu bảo:
- Con đi hết rồi, con không thích nữả
- Ði chứ con. Má Hiền bảo.
- Con đi vài lần đủ rồi. Năng trả lời.
- Con cần học thế giới học. Con là khám phá học mà! Hải khuyến khích Năng.
- Cám ơn ba má có nhã ý, nhưng ba má cứ đi. Chúc ba má vui ? Sapa, Ðà Lạt? Quê con, có núi có rừng, có thung lũng có hố sâu. Con coi như đã có.
- Mỗi nơi mỗi khác mà con. Không giống đâủ Hiền bảo.
- Con thấy đủ rồi, và con muốn học thôi.
Một bữa cơm trong gia đình. Họ vừa ăn vừa nói chuyện vui như thế.
Sau đó thì cha mẹ đi chơi du lịch một vài điểm xa họ thích. Riêng Năng ở nhà ngoan như cô con gái thiếu niên, biết chăm sóc hoa cho ba Hải, mấy ngọn Hải Ðường, Hoa Lan, Hoa Diệp Thảo, Hoa Mẫu Ðơn, Hoa Lay Ơn. Biết dọn dẹp phụ giúp má Hiền. Cuối tuần Năng dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, thời gian còn lại chỉ học và học. Trời như đã dành cho phần số. Năng hiếu động nhưng có sự thay đổi khác xưa. Chăm học, ngoan ngoản lạ lùng. Như ai chưa từng thấy ở Năng như vậy!
Chẳng bao lâu Năng đã cầm trong tay thủ khoa trong kỳ dự lễ tốt nghiệp của trường PTTH- NVT. Hải rất vui mừng tự hào. Họ vẫn không có con trẻ. Song Năng là niềm vui lớn, đủ nhất của họ rồỉ
Năng tiếp tục học đại học y cũng tại thành phố Sài Gòn?
Vậy mà ở chốn quê nhà tìm lâu không thấy tin tức Năng. Nên Huy vì lòng thương nhớ Năng, anh nói với vợ Huê:
- Em ơi mình nên lập bàn thờ đi, để con nó có ấm cúng và cũng gây cho nó nấm mồ nho nhỏ kẻo tội cho linh hồn.
- Ðồng ý với anh.
Hai vợ chồng lập ngôi mộ sau vườn. Hay cúng bái hoa hương quả thương tiếc Năng quá nhiều. Vào những chiều ảm đạm gió rét, hay xuân tươi, hay qua thu lịch lãm, hoặc hè oai bức nóng ran, v.v? Lịch trình họ bao giờ cúng bái, vẫn luôn thực hiện đầy đủ?
Cứ nhìn những tờ lịch trôi qua. Nhìn mỗi chiều về con tàu đi ngang là Huy đứng lặng người nhìn. Cũng chính những con tàu này mà làm Năng hâm mộ. Rồi chính con tàu này anh đã phạt Năng, rồi mất đứa con? Vậy mà Huy thích nhìn những con tàu đi trên đường rầy kia mới lạ chứ! Như thấy nó vừa quen, vừa lạ mỗi khi anh phóng tầm nhìn?
Huy còn thấy tội làm sao, khi nhìn lại vào con chim sáo sậu, mấy mùa vắng bóng chủ nhân? Nó như buồn nhớ Năng và muốn hỏi điều chi, vướng chí trong lòng nó chắc...
**
Thời gian thắm thoát. Có những thứ không ngờ lại đến. Nhưng nói cho cùng vẫn là sự biến thiên trong vũ trụ thôi. Móc quỹ thời gian tám năm thì cậu bé Năng đã ra trường và làm việc tại một bịnh viện nhi đồng thành phố tên Sao Maỉ Năng được một bác sĩ tên Nhuận, làm việc lâu năm với chức vụ Phó Tổng giám đốc bịnh viện nhi đồng SM yêu thích Năng vô cùng. Ông kiến nghị rồi mời đến nhà chơi, ông có dự định gả con gái cho Năng. Bởi ông Nhuận nhận thấy Năng thông minh, hoạt bát, lanh lẹ, hiếu hạnh? Lại còn đẹp trai, trẻ tuổi nữả
Năng nhớ lần đầu tiên theo bác sĩ Nhuận chàng đến, Năng đi thật rụt rè.
- Vô nhà đi con. Bác sĩ Nhuận giục.
Một ngôi biệt thự quá sang đối với Năng nhìn, anh không dám bước mạnh vào nhà, ngập ngừng mãi là phải. Bác sĩ Nhuận đã kêu lên vài tiếng nhanh hơn:
- Vào đây. Vào đây đi, ngại ngần gì? Trời ơi nhà không có ai cả. Chỉ có một Linh- Con gái bác đó thôi. Còn bác gái thì thường sang Pháp thăm chị ruột rồi.
Năng bước mạnh chân vào hơn lúc nãy một tý. Linh đứng ra đón:
- Chào anh. Mời anh vô nhà ngồi... Anh có thể dùng nước trái cây, hay coffee với ba cho vui.
- Cám ơn cô. Anh cám ơn em. Năng ấp úng hai kiểu nói cô và em, rồi hết sức lúng túng khi nhìn Linh.
Nhuận như cất vật gì xong từ bịnh viện mang về, để trong một phòng riêng có liên quan đến nghề nghiệp. Trở ra nơi phòng khách. Nhuận bảo:
- Ồ Linh đang học năm cuối 12 đó con. Bác cũng có ý cho Linh đi vào y khoa. Hai bác có một Linh độc nhất.
Bác sĩ Nhuận nói thêm:
- Cứ tự nhiên đã tới nhà bác rồi. Còn chi ngại ngùng Năng. Dùng chút coffee đi. Coi như thăm nhà bác lần đầu đi. Nhưng cứ tưởng lần thứ mười đi. Bác sĩ Nhuận nói và cởi mở nụ cười trông rất thoáng.
- Dạ cháu xin cám ơn. Năng làm thinh một chút, rồi vẫn nhút nhát đáp lời.
- Thôi ra đây. Ra đây nào. Nơi lý tưởng uống coffee hơn, của bác nè.
- Dạ. Năng đáp nhỏ.
Hai người bước vô phòng khách chung, rồi vòng ra một phòng giải trí riêng của bác sĩ Nhuận. Bác sĩ Nhuận đi trước Năng bước theo sau. Hai người đến ngồi xuống một cái bàn có bốn chiếc ghế mây nhỏ nơi. Họ nhìn hướng ra sân vườn ăn thông mát mẻ. Bác sĩ Nhuận đã cố ý thiết kế chiếc bàn ở đó như vậy.
Linh hiểu ý ba. Cô bưng hai ly coffee sang để ở bàn. Cô trở về phòng mình.
Năng thoáng nhìn nhà rất nhiều phòng. Cấu trúc nhà khung kiểu rất đẹp?
Bác sĩ Nhuận vui vẻ bảo:
- Bác đi làm về thư thả hay uống ly coffee một chút, để nghĩ việc gì đã làm được trong ngày. Sau đó thì bác thích đọc nhật báo tin tức. Rảnh bác nghiên cứu thêm về sách y khoa, những tân tiến và những thành tích bất ngờ, của các bác sĩ giỏi bốn phương. Hoặc thế giới y học nổi đám nổi đình. v.v? Lâu lâu cũng đọc một vài tiểu luận triết lý, hoặc sách triết về nhân sinh?
- Bác thật tuyệt. Cuộc sống thật tuyệt luôn.
Bác Sĩ Nhuận người trạc tuổi ba Huy, cha nuôi Năng ở dưới quê. Tuy nhiên, ông là một bác sĩ trông ra còn trẻ, đẹp trai, phong độ nhiều. Với trạc tuổi đó cũng đã gợi cho Năng nhớ về ba Huy, má Huê như một kỷ niệm. Nhưng chàng chẳng dám nhớ nhiều, đành cắt ngang?
**
Sau đó thì anh đến nhiều lần, được bác sĩ Nhuận mời, còn được Linh mến mộ rồi đi chơi chung với cô cho có bạn. Linh thèm ánh nắng, gió cát bên ngoài. Ở trong nhà miết... Dù nhà lầu hay biệt thư, nhiều phòng ốc xinh đẹp, có phòng giải trí riêng đi nữa, Linh cũng cảm thấy rõ chán như thường...
Những lần học hành mỏi mệt. Từ độ quen biết Năng. Linh thường đưa cậu đi chơi, trò chuyện, đi mua sắm, nói chuyện vặt? Vui thỏa thích như bạn bè?
Lần đó như thân lắm. Ngồi trong một công viên Linh nghe. Năng kể chuyện đời tư về anh:
- Anh mồ côi cha mẹ, anh ở rất nhiều nơi. Cuối cùng anh về ở với ba má Hải Hiền, anh đã cố gắng học, dốc lực học?
Linh nghe như được nghe từ bao giờ, cô cảm động cầm tay Năng và nói:
- Tội nghiệp anh quá, em không thể ngờ.
- Chính anh còn không ngờ anh, được ngồi bên em như hôm nay.
- Mỗi người đều có phần số. Em đã yêu anh, em yêu luôn nghĩ cuộc đời anh.
- Cám ơn em.
Linh đang ngồi suy nghĩ điều chi thêm. Năng hỏi:
- Em nghĩ gì thế.
- Ðố anh đó nói đi.
- Khó nghĩ quá em?
- Anh ơi. Nếu chúng ta yêu nhau anh có muốn cưới em không?
- Nếu em cho phép anh nghĩ đến điều đó thì còn gì bằng em nhỉ? Em hỏi thì dư mất.
- Vậy chúng ta cưới nhau nhé.
- Thiệt không đó hay cho anh đi ảo.
- Em thương anh quá nên nói thiệt mà. Chỉ sợ anh cười em thôi. Hi hi.
- Làm sao anh cười được khi lòng em dành hết cho anh. Anh vui lắm khi lòng Linh, hồn nhiên mà thành thật với anh chứ?
- Người ta nói thật thà cha đứa dại, và sự thật mất lòng mà. ?Sự thật con đẻ của kẻ ngủ? Hi hi.
- Em lại ứng dụng sai, không phải trường họp mình.
- Em đùa mà chẳng biết đâu được?
Linh chớp mắt nhanh nhìn anh. Năng nói hơi thở thêm dồn, song anh ráng bình tĩnh bảo:
- Ðược làm chồng em còn gì bằng. Chỉ sợ em muốn anh làm bạn bè lâu năm không kết thúc cùng anh thôi. Còn nếu như em nói, thì anh cứ ngỡ không khác gì, mình nằm mơ trong mộng.
- Ôi thiệt đó chớ mơ trong mộng gì anh? Duyên nợ ông tơ bà nguyệt xe rồi phải chịu thôi. Ðúng không anh nè?
Năng nhìn Linh say đắm mà không nói, rồi anh mỉm cười thật tươi.
- Ðây là lần thứ ba, em đi chơi với anh. Em cần nói thiệt. Linh mỉm cười, tay nàng chấn ngang đụng chong mày mình.
Chàng lại thú thiệt luôn:
Anh cảm động trước tấm chân tình em lắm. Anh nguyện sẽ được người chồng tốt bên em. Nếu như dây tơ hồng có ông tơ bà nguyệt trồng cho chỉ điểm? Hi hi.
- Còn em, chắc em cũng phải là người vợ tốt bên anh nữa chứ. Ngay ánh mắt đầu tiên em, em đã thích anh rồi. Linh bảo và nhìn khắng khít chàng hơn.
- Chứ không phải chê anh cù lần xấu trai sao?
- Làm sao mà anh cù lần và xấu trai kia chứ. Ðiển trai loại nhất đó.
- Thiệt không?
- Còn hỏi đố nữa.
- Vậy mà anh còn sợ chưa xứng với công chúa này chứ.
- Hoàng tử đẹp hơn công chúa kìa.
- Tại công chúa yêu nên thấy đẹp thôi chứ. Thiệt hoàng tử quê mùa một cục như đất quê đó chứ.
Ðã bác sĩ nhưng Năng nói chuyện rất khôi hài, huyên thuyên, và tùy lúc anh cao hứng nữa. Làm Linh thêm yêu thích lắm! Nàng trả lời cười rất lạ, dễ thương lắm:
- Hổng dám đâu. Ðất quê nhưng vốn quý đó... Không có đất, không ai có thể mà sống được.
- Vậy ?cục đất? vẫn quý nha.
- Dĩ nhiên rồi anh yêu, cục đất quý mà?
Nàng nói đưa tay vuốt chiếc mũi chàng. Cô nhìn thật sâu vào mắt đen nhánh mơ huyền của Năng. Năng nhìn vào Linh thương quá, anh lấy tay cô xuống, hôn cả hai bàn tay đẹp, và cườm cổ tay cô. Linh thật sung sướng hơn nữả và cô nhận lấỷ
Một đoạn cả hai lại thấy lòng vui hết sức, cười rúc ra rúc rích... như trẻ thơ được quà. Rồi họ băng qua những con đường đi bách bộ đẹp nhất của Sài Gòn. Ðâu đó tiếng chim trong vườn ai hót lanh lảnh?
Chương Bảy
Thế là sau đó không bao lâu được biết Linh. Bác sĩ Nhuận cũng đã biết mối tình của con gái ông và Năng. Phần Năng, chàng cũng mau lẹ về thưa lại ba má Hải, Hiền. Ba má Hải Hiền vui tiến hành đám cưới cho Năng và Linh tại một nhà thờ rồi lớn ở Sài Gòn. (Trước khi đưa Năng về nhà mình thăm chơi, là bác sĩ Nhuận đã có ý định để giới thiệu, tạo cơ duyên cho Năng và Linh rồi!)
Ba Linh cho hai đứa căn nhà riêng. Ông mua liền. Tiền của bác sĩ Nhuận thì tiêu đâu cho hết. Ông chỉ trích làm từ thiện mà thôi! Ông là một Phó Tổng giám đốc bịnh viện nhi đồng SM. Ông trợ lý điều hành giỏi đội ngũ bác sĩ, y sĩ, y tá, nhân viên, hộ tá v.v... Bác sĩ Nhuận là một bác sĩ giỏi riêng, tay nghề đã cứu biết bao trẻ em trước cái chết sốt nóng, bị đe dọa mà sống lại. Ông được yêu quý, uy tín, được nhận bao tình thương ân huệ từ nhiều gia đình dành cho ông. Bác sĩ Nhuận đang kỳ vọng truyền nghề cho Năng rất nhiều. Mặc cho rằng sự giỏi giang không ai học cho nhiều, và chỉ dẫn hết được? Nhưng ông kỳ vọng Năng ở mức độ cao. Sự thông minh, năng nổ, chân thành và cầu tiến của Năng!
Vậy mà một đêm rất lạ sau đó, sau khi lấy vợ. Năng nằm mơ thấy ba nuôi anh đau nặng thập tử nhất sanh. Huy nói:
- Tôi không ở đời lâu với bà nữa. Tôi buồn phiền vì làm cho thằng Năng chết trong rừng. Có thể cọp beo tha rồi. Vậy bà ở lại tự chăm sóc lấy bản thân. Tôi cũng đi gặp nó ở linh hồn thế giới bên kia ấy.
- Không sao đâu! Ông cứ uống thuốc và tâm bình lại. Tôi không muốn ông ra đi bỏ tôi.
- Thì tôi vẫn uống đây chứ. Chỉ sợ bác sĩ chê, tại không tìm ra bịnh tôi.
- Bác sĩ nói ông buồn phiền thôi, không có bịnh chi ngặt nghèo cả. Hãy buông xuôi bỏ hết lụy phiền. Biết đâu nó sống sót, có ngày về, mình gặp lại.
- Bà nói như mơ không bằng, nhưng sao tôi buồn quá? Vì tôi không nghe lời bà mà đánh nó đau rồi. Còn dẫn bỏ vô rừng?
Huy nói rồi bỗng dưng ông khóc tự nhiên, sụt sùi có nước mắt nghèn nghẹn muốn tuôn ra. Bà Huê thấy vậy nắm chặt tay ông bảo:
- Vui lên ông. Con ở đâu đó nếu trời thương nó sẽ tìm về. Tôi nghĩ nó không phải là đứa không có nghĩa. Mấy lần ông đánh đau, nó cứ nhìn tôi, và tôi thấy nó không tỏ ra mất dạy, Năng là đứa trẻ tốt đó.
- Mong một ngày trời thương còn sống sót ở đâu nó về, dù giàu nghèo, hay sang hèn. Ba Huy nói thế, ông buồn bã nói thêm.
- Bà chắc cũng trông như tôi chứ.
- Như ông. Và hơn ông nữả
- Biết đâu sau nàỷ
Tỉnh lại giấc mơ. Năng bàng hoàng thấy thương ba mẹ Huy Huê nghèo khổ dưới quê lạ lùng. Năng xúc động vô bờ?
Sau giấc mơ anh đem ra nói với vợ Thùy Linh cô đang ngồi học, cô phải bỏ qua thời gian lắng tai nghe anh, Linh chăm chú nghe anh toàn bộ. Năng kể về câu chuyện giấc mơ này. Mà sự thật cuộc sống của Ba Huy và má Huê là một phần bức tranh như giấc mơ của Năng vậy.
Một hôm nữa. Năng nói thêm với Linh:
- Em ơi, anh bây giờ đã có một sự nghiệp công danh. Có em, vợ hiền đẹp. Có ba Hải, có má Hiền vun đắp yêu thương. Có gia đình bên vợ quý mến. Nhưng?
- Nhưng gì anh?
Năng vì xúc động và cố nói thêm hơn:
- Nhưng anh không bao giờ quên được chốn quê anh từng sống. Ngày đó, anh từng tát cá, bắt dế, đẩy nhủi, chăn trâu, chăn bò. Vậy anh muốn em cùng anh về một chuyến nơi anh từng sống nhé... Anh đã mơ thấy kể với em đó. Bây giờ anh có một ý mới, được không em Linh?
- Sao lại không? Ðược lắm, tốt lắm chứ! Chúng ta nên đi. Em có ý muốn nói với anh điều đó lâu rồi, mà chưa kịp.
- Cám ơn em nghĩ. Năng hôn vợ như biết ơn.
Tuy lớn và có gia đình nhưng Năng làm gì cũng không quên hỏi ý kiến ba mẹ Hải, Hiền. Giờ tánh tình Năng kỹ lưỡng, lại sâu sắc vô cùng nên má Hiền, ba Hải quý thương lắm. Lúc nhân đưa Linh về ba má Hải Hiền thăm chơi một ngày, anh liền muốn thưa. Nói vậy thôi, hai đứa phải chờ đợi, sau một hồi ba má luyện võ xong. Hình như là một sở thích ba Hải má Hiền, lúc rảnh rổi, khi thời gian họ có để ôn học. Ðúng là ?Văn ôn võ luyện là thế đó.? Dù tuổi họ trung niên, đã bước xa vòng tuổi thanh niên. Năng hiểu, điều tập dợt võ thuật đâu có thừa trong đời, cũng là thế ưu tiên, thế mạnh của một bộ môn thể thao nữa. Ðợi họ xong. Năng trình bày:
- Ba má con dẫn vợ con về đây. Con có chuyện muốn thưa.
- Chuyện gì con? Hiền hỏi dò xét.
Má Hiền là một người tuổi vào bốn mươi, nhưng tay chân còn khỏe, các cơ bắp thêm mạnh săn chắc nịch. Nhìn vào, ai cũng biết dân mê thể thao có hạng, hoặc dân mê luyện võ nghệ thường xuyên lắm. Còn ba Hải thì khó nhìn thấy những điều như má Hiền hơn. Chắc bao nhiêu cái đẹp, cái chắc, cái vạm vỡ, cái đong đầy má Hiền dành chiếm hết rồỉ Hay ông trời chỉ dành riêng cho má thôi. Riêng còn mái tóc đẹp bay bướm và thân hình cao ráo dong dảy phong độ của Ba Hải thì luôn còn nơi ba. Năng và Thùy Linh đôi lúc nghĩ vậỷ
Năng tiếp tục thưa với họ:
- Công ơn ba má nuôi con từ đó đến giờ, ăn học thành tài và cũng đã có vợ. Công ơn ba má sánh tựa trời cao bể rộng, con biết, con nhờ. Nhưng nay con? Con muốn về chốn xưa, thăm lại ba Huy má Huê ở quê, lúc con ngặt nghèo thời ấỷ Vậy ba má nghĩ thế nào?
- Wow. À hay lắm! Tuyệt chiêu chứ? Nên đi đi phải lắm, ba má có ý nghĩ chưa kịp thảo luận với hai đứa đó thôi? Ba Hải trầm trồ khen, chặc lưỡi đôi ba lần, có vẻ mê thích thành ý này của Năng.
- Má cũng định nhắc Năng, nhưng để Năng có một ngày tự nghĩ ra, ý thức đến. Hôm nay thật đúng thời điểm lắm. Dẫn vợ về làng, đưa cô Thắm về làng tốt nha.
Hiền lại giỡn trong tựa một bài hát. ?Cô Thắm Về Làng? nhạc của Hoàng Thi Thơ. Má Hiền lúc vui, hay nói chuyện kèm điển tích. Linh nghe má Hiền bông đùa thì cười, vì nàng biết bài hát đó.
Ba Hải nói tiếp:
- Nếu đi. Con chọn đi cách nào Năng nhỉ?
- Chắc con đưa vợ con đi máy bay thôi. Ra đến Quy Nhơn sẽ đi taxi về làng.
- Cũng rất tốt đó. Còn khi về thì sẽ đưa Linh đi tàu để nhớ lại thuở hàn vi của con nghen.
- Ô ý kiến ba hay quá, con chưa nghĩ tới. Ba có sự phát minh.
- Ha ha. Phải nghĩ chứ con. Hải mạnh miệng nói thế.
- Ba con lúc nào cũng là number one mà. Hiền chọc chồng, Hiền phá cười thêm.
- Thì vậy chứ. Hải nhún vai thích thú thêm với vợ.
- Em thích đi tàu. Linh chen vào như biết mình tự do, có thể phát biểu, hoặc muốn nói.
- Hãy đợi chuyến về nha em. Năng nhìn vợ trả lời.
Chàng nói thêm khi đưa mắt về nơi ba Hải:
- Vậy là chiều nay bốc vé. Mai tụi con đi đó nha ba.
- Xốp dẻo quá sao? Ừa thôi phải xốp dẻo đi! Mong chuyến đi vui vẻ gặp may mắn. Ba Hải xin chúc mừng.
- Cám ơn ba mẹ có sự chúc mừng đến con hai con. Năng nói và vui vẻ nhiều trong lòng anh.
Má Hiền bảo thêm:
- Good luck. Good luck 100% nha.
Tự nhiên ngẫm nghĩ Hải lại bảo:
- Ồ mà làm gì có máy bay đi về Quy Nhơn con, thông thường họ chỉ định gọi như vậy cho oai với thành phố Quy Nhơn thôi. Máy bay chỉ đến đáp nơi địa phận Phù Cát. Gọi là phi trường Phù Cát đó. Cách Quy Nhơn không xa lắm thôi. Hình như khoảng 24 km. Không ấy thì con đi xe taxi về đó thăm chơi một hai thắng cảnh Qui Nhơn cho biết. Từ từ sau đó về quê cũng được mà. Coi như con đưa vợ con một chuyến holiday, hay vacation, ở Qui Nhơn đi. Thành phố này có nhiều thắng cảnh ngắm cũng được lắm. Như là Bãi Biển Vầng Trăng Khuyết, Bãi Tắm Hoàng Hậu, Cù Lao Xanh hoặc đến Chợ Lớn Quy Nhơn, Du lịch Gềnh Ráng, hoặc các nơi trang nghiêm Nhà Thờ Nhọn, Tổ Ðình Chùa Long Khánh. Tham quan cho biết hay cầu nguyện nơi đó một cái gì cũng nên.
- Dạ con sẽ tính theo ý ba hay đó.
- Thì kế hoạch cứ lên như vậy đi. Tỉnh nhà nơi con thì đi thăm các vùng lân cận của thủ phủ một chút.
- Trân trọng ý kiến ba, và chắc con đem Linh đi chơi như thế luôn theo phương hướng đó.
- Ô tuyệt vời quá đấy chứ. Vậy đề nghị, hôm nay đi ăn nhà hàng với hai con đi em? Hải đề nghị nhìn Hiền đứng đó.
- Ðồng ý ngay. Có nói gì đâu anh? Hiền đáp.
- Con hoan hô ba một sáng kiến nữa. Vậy cả nhà đi nha. ?Không thể bỏ qua cơ hội/ để trở thành lỗi thời
Con người như cánh dơi/ Phải khôn nhận thế thờị? là những câu nói hay nhất, mọi nơi mọi lúc hiện nay. Ha ha.
- Nhất trí. Ba Hải nói và đưa tay lên vỗ thành tiếng.
Hiền cười theo chồng:
- Nhất trí.
- Nhất trí, 100% mà.
Ba má Hiền Hải kẻ nói trước người nói sau kề. Họ như vui vẻ, mạnh mẽ. Và họ cũng biết mình phải làm gì tiếp theo.
Ba Hải má Hiền lo thay đổi đồ luyện võ, rồi chỉn chu thêm quần áo chút đỉnh, khi ra đường. Năng, Linh ngồi đợi. Trong nhà có hồ cá ba Hải nuôi gần đó, nước được thay hoài, nên nhìn trong veo đẹp mắt. Còn những con cá kia như nghe được câu chuyện họ thú vị hay sao? Mà con nào con nấy vẫy vẫy cái đuôi bơi lội nhiều vòng, đảo lên lộn xuống rất ngoạn mục, với san hô ghép tạỏ Ôi còn nữa, những con mắt chúng, mặt mày chúng, cả vây đuôi chúng như tươi tỉnh, hấp dẫn lạ thường ghể Khi con người vui tươi thì nhìn cảnh vật với một nét riêng hơn. Ngồi đợi dư thời gian Năng lại cứ hôn lên tóc Linh, và cầm tay nàng trong đôi tay mình, anh như muốn nâng niu đôi tay nàng hơn. Thùy Linh lại mắc cỡ e dè, cô bứt tay Năng ra, cô đi nhìn hồ cá cho gần hơn, rồi đi nhìn mấy cánh hoa của ba mẹ trong vườn bông nhỏ, mà ba Hải chăm chuốt hằng ngày. Lê Hải thì chỉnh tề sớm xong, ra đang ngắm hồ cá đợi Hiền. Tý rồi anh cũng bước theo cùng vợ Hiền đã ?xuất chiêủ bên cạnh rồỉ Một tí tắt ba má Hải, Hiền đã ra nơi phòng khách gặp vợ chồng Năng Linh?
Sau đó Năng đưa vợ Linh và ba má Hải Hiền vào một nhà hàng anh đã chọn. Họ chung vui, họ thưởng thức những món ăn trong sum vầy mà ít khi có dịp, hoặc mỗi khi họ có dịp gặp nhau để vui mừng?
Chương Tám
Sau đó vài hôm Năng cùng Linh chuẩn bị đồ đạc đi ra phi trường. Nói là chuẩn bị thế, nhưng họ có gì chuẩn bị. Con cái không có, nhà cửa để đó chứ bưng đem đi đâu mà chuẩn bị? Chuẩn bị tư tưởng thôi.
Và họ ra phi trường đúng giờ. Linh đi bên Năng. Chiếc máy bay họ chọn là hãng Việt Nam Airlines mang biển số VN1578. Ngồi trên máy bay Linh suy nghĩ mông lung. Lần đầu tiên cô đi máy bay về vùng quê với bao cảm xúc ập dâng khó tả. Thùy Linh là gia đình của gái gốc Hậu Giang. Ông bà nội là người Hậu Giang, nhưng ba của nàng sinh ra và trưởng thành trên đất Sài Gòn. Tuy nhiên sông nước Hậu Giang đối với nàng không lạ. Nhưng về làng quê của người chồng Năng, đất PM Bình Ðịnh chàng từng sống, nơi chàng mồ côi từ thuở nhỏ. Ðối với Năng là khó quên, và đối với nàng Linh thì lạ lắm, niềm khao khát vô biên, muốn biết! Cứ vậy mà Thùy Linh tựa vai chồng trong hồi họp, trong đi đứng, chờ đợỉ Rồi xét khám, rồi lên boong, rồi ngồi vào ghế v.v? Nàng cứ muốn tựa vào chàng trong bao cảm xúc mơ hồ nghĩ đến quê hương chàng, nhiều hơn là nàng đứng không, riêng lẻ một mình? Nàng dâu Thùy Linh này không biết tại sao cảm giác nhiều dâng trào ấy? Nàng có nghe đâu đó câu nói rất nổi tiếng ?Phụ Nữ Việt Nam luôn lấy quê hương người chồng làm trọng và hằng tâm tưởng nhớ.? Thùy Linh vẩn vơ suy nghĩ câu nói này có đúng không nhỉ? Nhưng sao nàng lại lấy câu hay đó, để chế ngự vào lòng mình thấp thỏm?
Tích tắc máy bay cất cánh. Tựa như chưa hết giấc ngủ trưa ngắn là đến địa cứ Phù Cát, vì chỉ hơn có nửa tiếng đồng hồ. Chiếc máy bay từ từ hạ cánh vùng đất thấp, dần tiến vào phi đạo, đường hạ cánh bay hiện ra rồi máy bay đáp dứt hẳn luôn. Người phát thanh viên nói một tràng dài của thủ tục và chúc mừng. Tất cả hành khách đứng lên rời ghế, thứ tự đi xuống. Năng, Linh cũng đi xuống như họ.
Năng đưa nàng xuống rời máy bay như bao hành khách. Ra lối exit rẽ tìm taxi về khách sạn của Thành Phố Quy Nhơn nhanh nhất như lòng ước ao. Năng cùng vợ Linh tìm phòng ngơi nghỉ chút. Họ đến khách sạn tên gọi ?Ðầm Thị Nạỉ Thủ tục giờ cũng đơn giản mau lẹ. Chàng hỏi nàng:
- Em mệt không Linh?
- Không, em không mệt nhưng em hồi hộp? Em muốn đi tắm chút nha.
- Ðược nhưng nghe anh nói tý đã?
- Gì anh yêu?
- Anh muốn em nghỉ một đêm khách sạn- Hotel ở đây cho khỏe, mai mình hãy đi thăm một vài thắng cảnh nơi đây như ba Hải nói. Coi như mình đi du lịch thành phố này nữa đó em. Rồi thong thả thoải mái anh sẽ đưa em về vùng quê đó sau nghen em.
- Em muốn tắm rửa xong mình đi ngay. Khi nào ta muốn đi tham quan chẳng được. Em chỉ muốn về quê anh trước.
- Nôn vậy sao Linh?
- Vâng em nôn, nhưng còn tùy anh.
- Anh cũng nôn chỉ sợ em mệt.
- Ðâu mệt gì anh Năng? Sài Gòn bay ra đây có hơn nửa tiếng, em thấy khỏe mà.
- Vậy thì chuẩn bị anh kêu taxi đi nha. Khoảng 20 phút sau nhé. Còn quang cảnh Quy Nhơn chờ dịp khác nhé.
- Dạ. Ðúng vậy anh yêu. Linh đáp.
Im một chốc nàng nói thêm:
- Chỉ cần anh chờ em tắm chút thôi, với lại rồi mình đi lòng vòng bằng xe taxi, thì như đã thấy thành phố Quy Nhơn một phần rồi anh.
OK em! Năng hiểu ý Linh chàng gật đầu, rồi lấy phone gọi taxi. Chàng bảo:
- Chờ vợ chàng chừng 20 phút sau sẽ đến. Chàng và nàng sẽ chuẩn bị xong để rờỉ?
Chàng biết nàng là thế giới của đàn bà, hễ đi đâu tý là về ưa tắm vậy thôi. Chắc là nhớ nước, chứ mình mẩy có chi đâu là cần tắm. Chắc chắn là không có một hội bụi nhỏ dính trong người mà! Nhớ nước và thèm như nhớ nụ hôn người yêu sao? Chàng cắc cớ nghĩ và mỉm cười tự mình.
Thế rồi Năng, Linh rời khách sạn, trả chìa khóa phòng, cùng với chi phí thanh toán trong ngày và chào tạm biệt. Phòng tiếp tân cũng quấn quít chào hai vị khách hết sức ?xịn.? Nghỉ chưa được nửa tiếng vẫn trả tiền ngọt theo một đêm hơn, không hề nói chi, lại còn rất vui vẻ ra phết! Cứ một năm mà họ gặp khách như vầy hết, là họ như đang ở trong thế giới thần tiên?
Linh vừa tắm xong, cô cảm giác thêm mát rượi, cô ôm nhẹ chồng ra khỏi khách sạn. Trời chiều như chưa ngã bóng? Taxi chạy qua những con đường tuy không nhiều nhưng nàng có thể thấy được; một thành phố Quy Nhơn không sầm uất lắm, nghiêng về vẻ thanh lịch dịu dàng như nàng thơ, và im lặng mơ mộng nhiều hơn nô nức? Thành phố đã có nhiều vườn hoa rải rác. Ðâu đó trong thành phố này, những dãy phố nàng vẫn nhìn thấy vài con bướm lượn bay vòng thật dễ thương!
Trong khách sạn có taxi sẵn tiện lợi. Thế là sau hồi nói chuyện của Năng với chủ tài taxi, chiếc taxi đó đã đưa hai người ra xa vùng thành thị của Quy Nhơn, để về miền quê, tĩnh lặng hơn nữả Taxi có máy chỉ đường, nhưng Năng luôn theo dõi hướng mắt về phía trước taxi đến. Còn Linh mãi nhìn những cảnh tượng lướt qua. Nào con suối, dòng sông, làng chợ, đền miếu, trường học, chợ huyện, chợ làng v.v? Vùng làng của Mỹ Trinh cứ tiến dần, như gần lần rõ ra, con số giờ ngắn lại hơn. Thời gian là chờ đợi, nhưng thời gian luôn không phụ bạc, luôn đem lại cho người ta hy vọng ước muốn cuối cùng. Chờ đến cỗng trường học năm xưa. Bây giờ thay đổi, song Năng kịp nhận ra nói:
- Ôi được rồi. Theo ý tôi, anh cho dừng lại đi đến đậu vào trường học năm xưa của tôi đó. Chúng ta đi bách bộ cho thú một tý nha.
- Thưa đậu đó thì tốt. Nhưng còn xa. Vả lại đường đi giờ tốt lắm có thể đến gần nhà được thôi. Máy đã chỉ báo rõ mà.
Chủ tài xế nói thế nhưng đã cho xe dừng nhẹ lại nơi cổng trường. Anh ta là một cậu tài xế trạc hai bảy, hai tám nhưng trông chững chạc lắm như ngoài tuổi ba mươi. Anh nói năng cũng vừa đủ, có thể được gọi là nói ít ỏi thì đúng hơn.
- Ô vậy thì cho đi tiếp đi. Coi ra anh rành quá há.
- Dạ cũng đoán được vì nghề dạy nghề thôi anh.
Năng, Linh định đều phải xuống xe, cả chủ taxi đi theo cùng. Thường taxi là với thủ tục: ?Khách đâu tài xế đó với những chuyến đi xạ? Ngoại trừ có ý riêng thì họ khách cho taxi biết. Nhưng không họ vẫn ngồi và đi tiếp theo ý kiến mới đưa ra của bác tài.
Năng đưa Linh về lại làng xưa của mình. Linh vô cùng bỡ ngỡ khi đi qua bao hai cái miếu đình một đồng ruộng, một con đê, bóng chiều đã xuống thấp. Năng thấy thương cho quê hương quá, một tình quê hương trổi dậy trong lòng anh, nó ôm lấy ngập choàng trái tim chàng háo hức?!
Về Linh, nàng thấy yêu quê chàng lạ lùng, nàng bùi ngùi trong nhiều cung bậc của cảm xúc, trong từng cơn gió, từng ngọn cỏ, đọt dừa, ngọn trẻ Như thầm thì chia sẻ những hân hoan mới lạ. Như đang hỏi nói với nàng. ?Linh ơi. Nàng ơi. Nàng một nàng dâu từ đâu đến?? Linh cảm giác như đi từ hiện thực sang lãng mạn...!
Ðến khi bắt đầu chạy chậm hơn, gặp một ngôi nhà. Năng gõ vào vai người lái taxi bảo:
- Ô này này. Nhà này anh taxi ơi. Tôi nhớ rồi. Linh em hãy theo anh. Ðúng chính xác rồi đó em.
- Phải không anh? Chỉ Thùy Linh hỏi lại. Người taxi thì làm thinh. Nhưng anh đã cho xe dừng hẳn lại trước nhà.
Linh hỏi tiếp lần nữa:
- Ðúng không anh Năng?
Năng nhìn hàng cau đã lên cao muốn già đi mất. Một vài cảnh tượng hơi khang khác. Nhưng làm sao Năng quên được ngôi nhà của ba má nuôi anh. Dù họ có thay đổi một vài thứ.
- Chắc chắn rồi đó em. Năng trả lời quả quyết.
Người tài xế vẫn làm thinh đưa mắt nhìn cảnh vật. Anh thì biết khoảng vùng này, nhưng ở đây vẫn chưa có địa chỉ số nhà, chỉ là địa chỉ xóm, thôn ấp mà thôi.
Trong nhà Huy, Huê thấy hai người lạ hoắc, và sang đi bên một anh taxi, có đội mũ taxi. Thì hai vợ chồng nhìn ra như muốn nín thở, họ theo dõi có vẻ hồi hộp. Năng, Linh tiến dần vào nhà. Năng sốt sắng mở lời chào:
- Chào ba má có nhận ra con là ai không?
- Chẳng lẽ là thằng Năng đây sao bà ơi! Huy nói.
- Dạ con là Năng đây. Hơn mười bốn năm xa cách bây giờ con về. Không biết ba má có nhận được con không chứ?
- Làm sao không nhận được. Trời ơi có thật con về không? Hay là mơ vậy Năng?
- Thật đây không mơ đâu. Ðây là vợ con, và đây là chủ xe taxi. Con về bằng da bằng thịt mà?
- Nhìn con chắc lẽ nên người lắm, ba mừng. Ba cứ nghĩ con chết lỗi của ba. Ôi trời đất ơi, còn thương quá? Ông Huy nói và chắp tay chụm xá đất trời.
- Không sao ba. Con vẫn sống ăn học giờ có vợ, mới về lại đây nè. Thời gian trôi nhanh vùn vụt.
Quay sang Năng hỏi:
- Má thì OK. Chỉ có ba sao ba ốm, nông nỗi thế này?
- Ba hối hận nên không vui, không ăn uống được chi cả, thất thường lắm.
- Tội cho ba quá.
- Nếu con không về. Ba nghĩ buồn sẽ chết không bao lâu nữa bỏ má con đó. Trời ơi trời còn thương, trời còn thương? Ông đã nói hai lần tiếng mấy tiếng ?trời còn thương? như nhấn mạnh trong một khoảnh khắc đầy vẻ xúc động?
Ông dành nói tiếp:
- Nhìn con chắc là bác sĩ hay kỷ sư.
- Dạ con đã là bác sĩ, vợ con còn đang đi học bác sĩ.
- Sướng hã.
- Con được một gia đình nuôi, con cố ăn học không ham chơi như lúc nhỏ ba má ơi. Cũng lạ ghể
Năng nói đến đây, cười hồn nhiên.
- Ba nhớ ba đánh con mấy trận chỉ vì thương con thôi.
- Con biết và con cũng ráng mà học, có thể.
- Vậy là nên xóa bỏ bàn thờ đi bà. Con nên lên chùa gần đây để tạ ơn. Ba má lên đó cầu hoài cho con đó. À cha mẹ nuôi con, quê họ ở đâu vậy? Huy hỏi.
- Quê gốc ở Quảng Nam nhưng họ đã vô Sài Gòn lâu rồi. Năng đáp.
Huy, Huê đưa Năng ra góc nhà. Năng thấy bàn thờ có nấm mồ đắp để cứu linh hồn siêu thoát cho Năng. Năng cảm động vô cùng, không nói gì nhiều được. Anh chỉ biết nói:
- Con biết ơn ba má nhiều, nhiều lắm.
- Mèn ơi! như tiểu thuyết, Huê bảo.
Năng chu đáo:
- Nếu ba má có ý, giờ con muốn đi lễ chùa liền được.
Sau đó họ đi lễ chùa hết bằng taxi qua một cái đồi nhỏ nữa. Quang cảnh buổi chiều hoàng hôn như sắp về, chùa nằm dưới rặng chân núi, trông đẹp cùng thanh lịch và nghiêm trang quá, tuy chùa không lớn lắm. Khi lên chùa Năng không ngờ gặp lại sư thầy năm xưa đó sao. Anh nghèn nghẹn cám ơn, và như không dám tin vào thực tế:
- Dạ con là Năng năm xưa thầy cứu con, thầy cứu con. Trời ơi! Trời ơỉ Năng ngạc nhiên đến hoảng hốt.
- Vậy sao? Thì ra Năng là con của ông bà Huy Huê? Vị thầy hỏi thế.
- Vâng Năng đó. Má Huê trả lời.
- Thật là nhiều duyên gộp thành. Năm xưa chưa có chùa này. Lúc đó tôi đi tọa thiền trong rừng rậm, núi cao và gặp cậu này. Thì ra chuyện như huyền bí quá. Thế nào rồi cũng vui vẻ hết rồỉ Vị tăng sư nói trong ung dung đĩnh đạt.
- Ðây là vợ con ở Sài Gòn ra. Năng bảo.
- Hãy vào lễ Phật hết đi. Ba Huy khuyên.
Họ đi vào khu chánh điện chùa lễ Phật.
Lễ Phật xong. Năng bảo:
- Con nghĩ là con sẽ đầu tư cho chùa cất lớn hơn, đúc thêm tượng hơn, con hứa. Ðể cho bá tánh đến cầu nguyện cho cuộc sống tâm linh, tất cả vạn vật, thư thái an bình...
- Bác sĩ mà nói chuyện Phật pháp hay quá?
- Vì con ơn thầy, nên khi rảnh tùy duyên con hay học, đọc Phật pháp và thấy rất mầu nhiệm, lại chân lý? Khoa học vẫn không lý giải hết được thuộc về tâm linh, thầy ạ.
- Con siêu nhân và vĩ đại.
- Bình thường thôi vẫn nghĩ ra mà thầy.
- Thấy vậy không bình thường đâu. Phải có kiến thức và quá trình nổ lực học hỏi, mới có tri thức, nhận diện ra được.
- Con mong thầy lập một chùa ở Mỹ Chánh, vì ba mẹ ruột con từ đó. Con muốn nghĩ lại tất cả những đấng sinh thành.
- Mỹ Chánh cũng đã có chùa, nhưng còn sơ sài lắm!
- Vậy nên? Con sẽ nổ lực đóng góp. Con hứa.
- Khó kiếm một người như con lắm, chí hiếu chí tình. Mong có được người vợ hiền chia sớt.
- Dạ con muốn chia sớt cùng anh ấy. Linh đứng hồi nãy giờ nghe vẻ xúc động. Giờ nàng muốn cất giọng chia sẻ.
- Cô ấy lấy con không phải vì sự nghiệp con đâu. Mà là cuộc đời con đó. Năng bảo thế.
- Mừng cho con quá, đầy đức hạnh. Thầy Tuệ Thanh sờ vai Năng, gởi qua một lời tắm tắt khen như thế.
Một đoạn họ hàn huyên mừng mừng buồn buồn. Rồi lại phải chia tay, thì giờ trôi qua cũng trên nửa tiếng. Rời chùa lòng hai bên còn bịn rịn. Mà đời này cuộc gặp gỡ nào lại không tạm chia tay, hay vĩnh viễn chia tay? Người thì đôi khi thay đổi, nhưng cảnh trí thì ít nhạt nhòa, đọng lại. Xưa nay vẫn chứ!
Ðể cho Năng trao đổi nói chuyện với tăng thầy Tuệ Thanh chứ? Huy, Huê chỉ nghe thôi, đâu cần nói. Với lại Tuệ Thanh, mỗi tháng họ đều gặp một lần. Họ đến đây cúng bái, lễ chùa cầu tự, thường mà! Giờ thì họ chỉ dành cho Năng và thầy Tuệ Thanh giao lưu tạo ra duyên phận, ôn lại duyên phận hai người họ?
Sau đó, cả đoàn chia tay nơi chùa thật sự, chia tay tăng, chia tay thầy Tuệ Thanh. Trong lòng Năng lưu luyến thành kính biết ơn. Thầy Tuệ Thanh có những bồn chồn bùi ngùi không kém, dù lòng thầy tu, luôn tự tại, an nhiên rất tĩnh...
Rồi Năng lại chợt nghĩ lại thầy tăng Tuệ Thanh ngày ấy, hôm nay và bây giờ. Thời gian qua nhiều biến đổi. Hình thể thầy cũng thay đổi nhiều. Tiếng nói thầy bây giờ đượm buồn, chậm rãi yêu thương, không còn nhanh nhảu, vang vọng ngọt ngào như xưa, lúc thầy còn tuổi, trẻ trung sung mãn gặp trên rừng. Duyên phận Năng gặp thầy từ dạo đó...!
Chỉ duy một điều đôi mắt thầy ít khác, đôi mắt thầy luôn trong sáng và ánh lên một niềm tin. Cho con người một niềm tin ở chân lý vĩnh cữu nào đó v.v? Năng cảm giác nhớ nhung về hoài niệm, nhớ lại chính mình lúc xưa.
Tiếng chuông lại đúng dịp ngân lên, đúng giờ chiều, vọng về chiều. Tiếng chuông như đánh thức những tâm hồn lạc loài, muốn gội sạch những linh hồn hoen ố mờ mịt, như nhắn gởi loài người và cùng ai. Cùng bao sinh vật, sinh linh trên trái đất này, một chút gì để yêu thương ràng rịt nhaủ!
Họ nghe như thấu hiểu trong cảm nhận: Hạnh phúc và khổ đau. Hội ngộ và ly tán. Chia tay và gặp lại. Mọi thứ về trong máu thịt họ?
Nhưng rồi họ đã phải ra về, để lại Tăng. Thầy Tuệ Thanh làm công sự của chùa. Như chờ phật tử viếng chùa trong dịp lễ vía, cầu tự, chiêm bái v.v?
**
Về lại gia đình Huy Huê. Năng nói:
- Con quyết định cho ba má về thành phố con mua nhà cho ba má ở. Con sớm hôm chăm sóc, gần gũi hơn.
- Thương ba mẹ. Mỗi năm về thăm là ba mẹ vui rồi. Ba mẹ sống trong làng quen, không thể đi xa con à. Bờ tre, gốc mía, con sông, con đìa, lạch mương, bờ rạch, ao sâu, giếng cạn v.v? Tất cả ba má già lại nhớ nó lắm, khó đi lắm con à.
Huê nói thêm:
- Con hiếu tử lắm. Từ nay ba Huy sẽ vui mà ăn cơm, ngủ ngon lại, phục hồi sức khỏe dần. Con cứ về thành phố cùng vợ làm việc. Ba má ở đây đi chùa cầu nguyện cho tụi con. Ừa để má nấu gì ăn đi nhé Năng?
- Ô cực lắm má ơi. Mình đi nhà hàng hết đi. Giờ tân tiến ở đâu cũng có nhà hàng hết rồi má. Ðông người, má lụi cụi con không thích đâu.
- Anh Năng nói đúng đó ba má, con đề nghị ba má chấp nhận ý ảnh đi. Linh như nói thêm ủng hộ chồng.
- Vậy thì chần chừ gì nữa ta đi thôi nha. Năng tán đồng cùng vợ.
Năng ra hiệu bằng cái nhìn. Người tài xế hiểu, anh ra lái xe tận sát nhà để rước họ đi.
- Mời lên xe nhé vui quá đó. Tài xế cầm chiếc chìa khóa thảy thảy trong tay và nói nghề, lòng vui như quá cỡ bên Năng. Sau lời tài xế mời. Năng nói thêm:
- Anh cứ cho chúng tôi thoải mái tôi bao tiền thời gian. Chứ không tính cây số đâu. Anh đừng lo, vào thị trấn đến nhà hàng Vĩnh Lợi, một nhà hàng nổi tiếng cơm chay ở đây nhé. Chắc anh làm nghề taxi và biết?
- Vâng tôi biết.
- Tôi mới đọc báo kỹ, tìm hiểu sơ qua thị trấn hôm nay. Chứ tôi chưa bao giờ đến, khi xa mười bốn năm rồi trôi qua.
- Nhà hàng này làm thức ăn chay khá lắm, chất lượng.
Huy và Huê đã ngồi trên xe mà cứ tưởng như mơ. Thì ra họ cũng được phước phần quá.
Xóm làng đang xì xầm về Năng, với tiếng còi tàu năm xưa. Họ bàn tán khi xe chạy qua mặt, và họ biết. Quần chúng họ rất là tài giỏi, luôn là những thám tử tài ba loại một đó. Lòng người luôn muốn khám phá, thông tin mới lạ.
Taxi đã chở hai cặp vợ chồng tiến về khách sạn. Anh tài xế vui lây quá, lòng rộn ràng anh mở băng tần CD có bài hát cổ nhạc dao duyên ?Rước Tình Về Với Quê Hương? với giọng ca sáng sủa, sang sảng và tròn trịa của Minh Cảnh, cùng với nữ nghệ sĩ Thanh Kim Huệ với tiếng hát êm đềm dìu dặt ân tình, và láy thả đẹp mơ mê hồn. Ai nấy vui vẻ lắng lòng nghe theo ?ý bác tài đã chọn.? Bài hát vừa dứt xong chắc là bác tài canh đúng. Họ cũng vừa đến nơi hàng Vĩnh Lợi. Năm vị ngồi lại nơi một chiếc bàn tròn đặc biệt nhất. Ai nấy cũng muốn thưởng thức một ngày như vui trọng đại nữa. Năng nói chuyện thêm với ba má:
- Mỗi năm Năng đều về thăm, và đem nhiều thuốc men làm từ thiện, gởi vào chùa để cho người nghèo khó. Trường trại năm xưa con học, cũng sẽ được trang bị thêm nhiều máy móc, con bỏ tiền ra mua để cung cấp thiết bị dụng cụ cho nhà trường. Cho các em đi sâu vào thực tiễn ứng dụng, hơn là lý thuyết trên chữ nghĩa. Con còn vận động nhiều bác sĩ giàu có nổi tiếng khác, cùng giúp cho quê hương con. Của tiếng nói chung ?Lá lành phải đùm lá rách? ?chia sớt nỗi niềm? ?người giàu không nên sống ích kỷ? của hiện giờ. Mục đích con theo đuổi sẽ là như thế.
Linh ngồi nghe. Nàng nói:
- Em kết hợp một kế hoạch, có một khu giải trí dưỡng sinh bậc nhất của huyện. Em sẽ vận động gọi, nhiều nơi giúp đỡ đóng góp cho. Em có dì Liên bên Pháp thích đóng góp cho từ thiện. Nhưng có lẽ ba má, anh và em chính.
- Em Linh của anh. Năng chậm lại rồi tiếp tục nói thêm:
- Linh một viên ngọc trong đời. Anh luôn nâng niu, biết ơn và biết quý giá bậc nhất em. Vì Linh hiểu mọi ước vọng anh, luôn tham gia ủng hộ, chia sẻ cùng anh. Anh thật cảm động. Ông trời đã bù cho anh. Và anh thật may mắn có em?
- Ông trời không phụ lòng Năng. Má chúc mừng hai con.
Má Huê nói, chồng Huy ngồi gật gù. Người tài xe cứ ngồi nghe, và anh cứ chừng nhìn khách qua lại bên ngoài khung cửa thấp thoáng...
Ngay cả tìm lại cha mẹ ruột của Năng, Linh cũng đề nghị tìm kiếm và xây mồ cao, mả đẹp, sau đó. Vậy thử hỏi Linh không phải là viên ngọc trong đời anh thì còn ngôn từ nào để chỉ cho em xứng đáng hơn!
Năng nghĩ thế!
Rồi Năng lại chợt nghĩ lại Thầy- Tăng Tuệ Thanh ngày ấy và bây giờ. Thời gian qua nhiều biến đổi. Hình thể thầy cũng thay đổi nhiềủ Tiếng nói thầy đượm buồn, chậm rãi yêu thương, không còn nhanh nhảu, vang vọng ngọt ngào như xưa. Lúc thầy còn tuổi trẻ trung, sung mãn gặp trên rừng. Chỉ duy một điều đôi mắt thầy ít khác. Ðôi mắt thầy luôn trong sáng, ánh lên như tin một niềm tin đâu đó, ở chân lý vĩnh cữu nào đó v.v? Năng cảm giác, nhớ nhung về hoài niệm, nhớ lại chính mình lúc đó. Như cuốn phim quay ngược về dĩ vãng. Năng cuộn trọn yêu thương trong tuổi thơ, và chàng như lật ra từng trang sách một của cuộc đời mình?
Cuộc nói chuyện họ tạm khép lại. Năng cũng khép lại bao suy nghĩ. Anh đang phải coi thực đơn, và ghi giấy, ký dấu hiệu yêu cầu, để cho họ đem ra những thứ anh chọn lựa.
Khoảng 15 phút sau các món hàng đem ra đầy đủ. Họ lần lượt thưởng thức hương vị. Trong năm người đều cảm thấy vui hết. Họ đang ăn tiệc lớn trong lòng họ, cùng với những thức ăn thật tuyệt vời trước mặt, dù thức ăn chay, không mặn. Nhưng lòng họ mặn, của vị muối mặn, của quê hương nhà hàng Vĩnh Lợi này. */ *
Viết 2012 -------
Nguyệt San Giao Muà xin cám ơn những thân hữu đã dóng góp bài vở cho Nguyệt San Giao Muà số 222 . Một số bài khác sẽ được đăng dần vào số tớị Mong mỏi sẽ nhận được những sáng tác của các bạn bốn phương để cho Nguyệt San Giao Muà thêm phần hương sắc trong tương laị
2) Ðể rút ra danh sách của NSGM (unsubscribe),
xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
3. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về:
GiaoMua@hotmail.com
4. Mọi bài vở, đóng góp, xin gửi về:
GiaoMua@hotmail.com
Nguyệt San Giao Muà
Homepage: http://www.GiaoMua.com
Thể lệ gửi bài cho Nguyệt San Giao Muà:
Mong bạn gửi Bài cho GM theo cách này là tốt nhất :
1. Dùng mẫu chữ Vietnet (VIQR) hay Unicode
2. Viết Hoa chữ đầu của bài và bút hiệụ Ví dụ: Giọt Mưa Trên Lácủa NS Phạm Duy
3. Gửi bài ngay trong email (không kèm file), để cho BBT khỏi mất công download xuống để đọc
4. Gửi tất cả các bài trong 1 tháng 1 lần trong1 email, nếu tiện.
5. Bài vở xin gửi đến trước ngày 25 mỗi tháng
6. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com
Cám ơn bạn rất nhiều, vì nhân sự có hạn, BBT không thể ngồi đánh máy lại từng đề bài hay bút hiệụ
P.O . Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA
Trang Nhà