Nguyệt San phát hành định kỳ vào mỗi đầu tháng
Nguyệt San Giao Mùa
P.ỌBox
378
Merrifield, Virginia
22116
USA
Số 231
Ngày 1 tháng 7 năm 2021
Home
|
Giao Mùa (Unicode)
|
Giao Mùa (Vietnet)
Những Số Cũ | Thư Ngỏ | Liên Lạc | ||
Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút: | Ðinh Trường Như (TK Trung Kỳ) |
Ban Biên Tập: |
Mạc Phương Ðình, Phan Thái Yên |
|
Chung Thủy, Nguyễn Thị Thanh Dương |
|
& TK Trung Kỳ |
Mọi bài vở đóng góp xin gửi về GiaoMua@hotmail.com
Copyright
2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors
++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
I . Thơ _______________________________________________________________________
1. Lưu Dấu Dưới Trời Quê | ______ Hàn Thiên Lương | |||||||||||||||||||||||||
2. Hè Và Nỗi Nhớ | ______ Kim Loan | |||||||||||||||||||||||||
3. Khung Trời Cali | ______ChinhNguyên/H.N.T. | |||||||||||||||||||||||||
4. Chiêm Bao Trắng | ______ Thanh Hà | |||||||||||||||||||||||||
5. Lủa Ðạn Bước Về | ______ Thylanthảo | |||||||||||||||||||||||||
6. Có Biết Chăng ? | ______Bạch Liên | |||||||||||||||||||||||||
7. Lời Dỗ Hư Vô | ______ Ngọc Long. | |||||||||||||||||||||||||
8. Khúc Tháng Sáu | ______ Tuyền Linh | |||||||||||||||||||||||||
9. Khói Bay Vào Trong Mắt |
______ Quách Như Nguyệt 10. Con Ðường Phượng Ðỏ |
|
______Phạm Ngọc Thái | 11. Cuối Xuân - Nhớ Phố Thương Rừng |
|
______Sông Cửu | 12. Biển Chiều Gọi Nhớ |
|
______ Viễn Phương | 13. Hạt Bụi với Sao Hôm |
|
______ Tình Hoài Hương
| 14. Những Giọt Nước Mắt |
|
______ Nguyễn Thị Thanh Dương. | 15. Em Người Quan Họ Sắc Tài |
|
______ Lê Miên Khương | 16. Tình Thơ Còn Mãi |
|
______ Ðặng Xuân Xuyến | 17. Hoài Xưa |
|
______ Nguyễn Chí Hiệp | |
II . Văn _______________________________________________________________________
1. Cúng Mẹ ___________ Nguyễn Thị Thanh Dương | 2. Khi Ðịnh Mệnh Cúi Nhìn ___________ Tình Hoài Hương |
3. Những Ngày Nắng Hiếm ___________ Phan Thái Yên |
4. Khoảnh Khắc Hoá Thành Thiên Thu ___________ Thanh Hà |
5. Trò Chuyện Với Khoảng Không Trước Mặt ___________ Tuyền Linh |
6. Hương Tháng Sáu ___________ Bạch Liên |
7.Người Dưng Nhưng Ðâu Phải Là Người Xa Lạ ! ___________ Nguyễn Bàng |
8.Một Thời Xưa Ấy ___________ ChinhNguyen /H.N.T. |
9.Tình Cha ___________ Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích |
10.Mùa Mưa Của Chúng Mình ___________ Kim Loan |
11.Giải Thoát ___________ Trần Thị Hiếu Thảo |
III . Trả Lời Bạn Ðọc__________________________________________________
1. Nhắn Tin/Trả Lời Bạn Ðọc _______ Ban Biên Tập |
I . Thơ __________________________________________________
II . Văn___________________________________________________________
Nguyễn Thị Thanh Dương
Tình Hoài Hương
Phan Thái Yên
4. Khoảnh Khắc Hoá Thành Thiên Thu Thanh Hà Thanh Hà 5. Trò Chuyện Với Khoảng Không Trước Mặt Tuyền Linh
Tuyền Linh Bạch Liên Bạch Liên 7. Người Dưng Nhưng Ðâu Phải Là Người Xa Lạ ! Nguyễn Bàng Nguyễn Bàng ChinhNguyen /H.N.T. ChinhNguyen /H.N.T. Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích Kim Loan Kim Loan Trần Thị Hiếu Thảo
( Viết thay chị V.T.M.)
Mẹ tôi quê Nam Ðịnh, thời con gái đã giỏi giang việc nhà và bán buôn, cô Ninh thường ra Hà Nội cất hàng về bán chợ quê, các đồ hàng xén cô mua ở tiệm mẹ anh Cừ và thế là cô quen anh Cừ, mỗi lần cô đến là anh cứ luẩn quẩn bên cô mà chẳng dám nói năng gì, cô Ninh hiểu ý chủ động tấn công anh công tử Hà Nội, lần đầu tiên rủ anh đi chơi bờ hồ, cô sốt ruột đợi anh ở ngoài đầu ngõ mãi anh Cừ mới thong thả ung dung từ trên gác bước xuống và ra gặp cô, anh mặc áo len, cổ quấn khăn quàng và đầu đội chiếc mũ nồi.
Cô Ninh đã phải kêu:
- Trời hôm nay mát mẻ có gió Ðông Bắc thổi về đâu mà anh khăn áo thế này?
- Tôi xin lỗi để cô đợi lâu, dù gió nào thì mẹ tôi cũng bảo nên mặc cho ấm khi đi ra đường, từ bé tôi đã quen thế rồi cô Ninh ạ..
Ngày anh Cừ đòi cưới cô Ninh chỉ một mình mẹ anh Cừ là vui vẻ chấp nhận, mẹ nào mà không hiểu con, bà biết con trai bà yếu đuối cả thể xác lẫn tinh thần, cô Ninh có đủ điều kiện, tư cách để chồng nương tựa.
Anh Cừ dáng nhỏ nhắn yếu đuối thư sinh con nhà giàu được cưng chiều từ bé.
Cô Ninh thì trái ngược hẳn, gái quê to cao lực lưỡng mạnh khỏe, cô hơn hẳn anh một cái đầu, hai vợ chồng đi bên nhau nhiều người không biết tưởng là hai ?dì cháu hay cũng là hai chị em dù cô Ninh kém anh Cừ 2 tuổi..
Cả họ hàng nhà anh Cừ đều phản đối, từ bà cô cho đến anh em anh Cừ, họ chê cô Ninh nhà quê ít học chữ nghĩa chưa đầy lá mít.
Khi cô Ninh về làm dâu nhà anh Cừ bà cô đã trêu chọc đứa cháu dâu khi cháu đang làm bếp:
- Cháu này, ở Hà Nội người Hà Nội mổ cá đằng lưng đấy nhé.
Cô Ninh chẳng lạ lẫm gì cách làm cá, ở quê mỗi khi nấu cơm làm cá cô vẫn mổ bụng cá và rửa sạch sẽ, nghe bà cô chồng nói cô Ninh ngây thơ tưởng dân Hà Nội làm thế và cô ngoan ngoãn vâng theo, mổ những con cá đằng lưng làm một phen trò cười cho nhà chồng. Họ càng cười càng thêm ghét cay ghét đắng con bé nhà quê được làm dâu nhà Hà Nội lại là nhà giàu sang.
Còn ông anh cả của chồng thì ghét cô ra mặt ?chơi trò ném đá, nhà anh cả và nhà vợ chồng cô Ninh ở cạnh nhau, từ sân nhà bên này anh ném gạch sang sân nhà em bên kia một ngày mấy bận, cô Ninh không chịu nổi sự phá đám của anh chồng bèn?dắt chồng đi thuê nhà nơi khác không thèm ở căn nhà mặt phố Hưng Ký của nhà chồng nữa. Cô yêu anh, cô đâu màng gì tới tiền của gia sản nhà anh.
Thời cuộc năm 1954 mẹ anh Cừ muốn lo cho các con đi Pháp nhưng anh Cừ đã nhanh chân theo vợ di cư vào Nam, lìa quê cha đất tổ, lìa cha mẹ anh em thân thuộc.Từ đấy anh Cừ nương nhờ vợ như trước đó anh từng được mẹ chở che.
Vào Nam anh Cừ thành một công chức còn cô Ninh lại xuôi ngược bán buôn, từ buôn bán nhỏ đến lớn. Họ xây được căn nhà 3 tầng lầu nơi các con sống từ nhỏ hay ra đời và lớn lên ở đây.
Ngày tôi lên 7 lên 8 học tiểu học mỗi lần bị bạn bè bắt nạt là tôi về mách mẹ, thế là mẹ tôi đến thẳng trường, không phải để gặp cô giáo mà để gặp đứa thủ phạm đã đánh tôi, bà hăm dọa thế nào mà từ đấy trở đi không đứa bạn nào dám ăn hiếp hay gây sự với tôi nữa
Chúng nó bảo nhau là mẹ tôi dữ lắm, mẹ tôi ?Bà Chằng?
Mỗi lần đứa bạn nào muốn đến nhà tôi chúng đều hỏi thăm tình hình:
- Ê Mai, chiều nay mẹ mày có nhà không?
- Có anh tao, hai đứa em tao và bố tao
- Ai cũng được miễn là không có mẹ mày, chiều tao đến nhà mày chơi nhá.
Tôi hãnh diện về người mẹ ?bà chằng? của mình vì được mẹ che chở an toàn và các bạn nể sợ, nhưng chỉ vài năm sau thì tôi hiểu cái danh từ ?mẹ bà chằng? chẳng hay ho gì mà trái ngược lại nên tôi mặc cảm lắm với bạn bè vì mẹ mình
Ngoài vóc dáng to cao, nét mặt mẹ cũng chẳng hiền, đôi chân mày đậm, đôi mắt hơi xếch Tướng tá này mà đi đánh ghen thì các cô bồ nhí của bố tôi ( nếu có) cũng phải chạy xa một đi không trở lại. Nhưng cũng may bố tôi chẳng bao giờ có ý định yêu thương ai ngoài mẹ, người con gái quê đã giáng tiếng sét ái tình dữ dội vào đời bố.
Ngày xưa ở quê quân ăn trộm cũng phải sợ mẹ tôi, nửa đêm chúng vào sân bắt trộm gà bị mẹ phát hiện đuổi theo đến cùng dù chúng đã biết điều ném trả lại những con gà để hối hả leo qua tường, mẹ leo không kịp nên tên trộm thoát nạn nhưng bầy gà đêm một phen hoảng sợ, gà xổ lồng bay tung toé và nhào nháo khắp sân.
Ở Sài Gòn có lần mẹ tôi bị cướp giật xâu chuỗi hột đeo trên cổ tại công trường Quách thị Trang, sợi giây đứt hột rơi tung toé xuống đất, không thể lấy được gì tên cướp bỏ chạy nhưng bà vẫn không tha tên cướp, bà huỳnh huỵch chạy theo và lấy cán dù kéo cổ tên cướp ngã lăn quay ra đường, bà giữ chặt nó rồi hô hoán mọi người bắt giao tới đồn cảnh sát sau đó bà mới thong thả lượm hột lên cho đến khi xâu chuỗi đầy đủ .
Lợi thế to con khỏe mạnh bà đã trấn áp tên cướp dễ như trò chơi trẻ con..
Nghe mẹ kể lại hai câu chuyện bắt trộm cướp này chúng tôi phục mẹ lắm và tôi đã dè dặt hỏi:
- Trộm cướp chưa lấy được món gì của mẹ sao mẹ không tha ?.làm phước còn truy đuổi đến cùng?
Mẹ quắc mắt mắng tôi:
- Mẹ chỉ làm phước cho người tử tế, quân bất lương thì nó phải trả gíả
Mẹ làm giàu từ hai bàn tay trắng nuôi chồng nuôi con sung sướng, lương của bố chỉ để nhà xài vặt, bố vẫn là công tử Hà Nội dù đã xa Hà Nội nhiêu năm, được mẹ hầu cơm hầu nước thương yêu và trân trọng.
Chắc đã quen được mẹ chiều lại đến vợ chiếu, bố kiểu cách và khó tính khác người.
Buổi sáng bố điểm tâm bằng tô phở nhưng phải là tô phở nóng, đến đúng lúc, nghĩa là khi bố ngồi vào bàn thì mẹ đã mua tô phở từ ngoài tiệm về đến nơi, không sớm hơn và không trễ hơn.
Tôi có lần phải đi mua phở về cho bố, bưng tô phở đặt trên cái đĩa mà tôi vẫn lóng cóng sợ tô phở nóng đổ ra tay, rón rén đi mãi mới về đến nhà tôi bị mẹ mắng ngay:
- Con ngủ ở tiệm phở hay sao mà lâu thế?
Dĩ nhiên tô phở ấy bố tôi không ăn vì là ?tô phở không đúng lúc?, bố thà nhịn đói chứ không ăn tô phở dù chỉ bớt nóng đi một chút. Thế là từ hôm ấy trở đi mẹ tôi ?độc quyền? đi mua phở cho bố điểm tâm.
Mẹ đã tự tin nói với các con :
- Thả bố chúng mày ra đường chẳng cô nào thèm nhặt, vì ai mà chiều nổi bố chúng mày ngoài mẹ .
Mỗi khi bố mẹ đi ra phố, bố chưa biết cầm dù che vợ là gì vì mẹ đã làm chuyện ấy, che cho bố khi trời nắng lúc trời mưa. Bố nói đùa với mẹ :
- Bà khỏi cần che ô che dù làm gì, tôi đi bên cạnh bà, bóng bà to lớn đủ che chắn cho tôi rồi.
Và bố cũng từng nửa đùa nửa thật trước mặt vợ con:
- Nếu bà chết trước thì tôi sẽ sống ra sao đây.
Mẹ gắt yêu:
- Ông đừng nói gỡ. Nhưng nếu thế thì tôi sẽ là người chết sau để lo cho ông đến khi mồ yên mả đẹp rồi tôi chết ngay lập tức cũng vui lòng..
Chúng tôi cũng ước nguyện như mẹ, bố khó tính thế chúng tôi không đứa nào dám gần, mẹ tuy cũng khó tính nhưng vẫn cởi mở và gần gũi các con.
Mẹ làm mấy nghề một lúc, cho vay lời, cầm chủ hội, bán vải, cầm cố đồ đạc nhà cửa, những nghề cần bản lĩnh này đã thích hợp với mẹ, hầu như không ai dám trây lì hay quỵt tiền nợ của mẹ.
Có một con nợ cầm căn nhà mặt tiền không có khả năng trả nợ, thay vì xiết nợ căn nhà nhưng mẹ đã thương cảm cho cảnh nhà người ấy sa cơ thất thế nên gia hạn thêm để giúp người ấy tiếp tục kinh doanh nơi căn nhà mặt tiền, tiếp tục trả góp cho mẹ.
Nhà bà Tư trong xóm lao động gần nhà mang nợ mẹ dai như đỉa đói, nợ cũ chưa dứt lại chồng thêm nợ mới, lần đó bà Tư sai hẹn không trả tiền lời, mẹ tưởng bị bà Tư qua mặt, mẹ tức giận xồng xộc đến nhà bà Tư định sẽ mắng cho bà ta một trận và từ giờ trở đi đừng hòng bén mảng đến nhà mẹ để vay tiền nữa.. Khi đến nơi thấy ông Tư nằm trên chiếc phản xiêu vẹo ở gian ngoài, mình đắp chiếc chăn cũ rách như tổ đỉa và rên hừ hừ, bên cạnh ông vài ba đứa trẻ mặt nhem nhuốc và ngơ ngác sợ hãi khi thấy người đàn bà lạ bước vào với vẻ mặt dữ dằn đòi gặp mẹ chúng thì mẹ tôi đã chạnh lòng.
Bà dịu giọng hỏi lũ trẻ:
- Mẹ chúng mày đâu?
Một đứa mếu máo đáp trong khi hai đứa còn lại thì đứng co rúm vào nhau :
- Má con đi qua nhà dì Hai mượn gạo chưa về.
Mẹ tôi quay về nhà và đến một cửa hàng gạo mua hẳn một tạ gạo nhờ chủ tiệm mang đến tận nhà bà Tư.
Mẹ bán vải bỏ sỉ, những xúc vải để đầy trong nhà không những anh chị em tôi muốn may gì thì may mà các bạn tôi đến chơi nhà, mẹ thấy đứa nào trầm trồ trước đống vải mới tinh đủ màu sắc mẹ tôi liền bảo:
- Cháu thích thì bác cho, bác cắt vải cháu may cái áo giống Mai nhé
Các bạn tôi thích mê, không phải chỉ thích vải mà thích cả mẹ tôi, trông tướng tá bà oai vệ như đàn ông mà sao dịu dàng hiền hậu thế.
Các bạn của anh tôi cũng được yêu chiều như thế, đến chơi nhà là được mẹ giữ lại nấu cơm cho ăn no nê mới ra về, các anh thân thiện và tự nhiên, có anh đến nhà tôi vừa vào đến cửa đã hỏi đùa:
- Mai ơi, nhà còn cơm nguội không cho anh ăn với
Mẹ tôi nghe được đã vồn vã:
- Sao lại thế cháu, để bác đặt nồi cơm điện mà ăn ngay cho nóng sốt chứ.
Các bạn thời tiểu học của tôi khi ấy còn bé dại tưởng mẹ tôi dữ dằn, chúng không hiểu sau cái nhan sắc đàn ông ?đáng sợ? ấy mẹ tôi là một phụ nữ giàu tình cảm rất đáng yêu. Các bạn của chúng tôi sau này đã hiểu thế, đã qúy mến mẹ biết bao.
Làm ăn mấy nghề như thế nhưng mẹ vẫn ôm đồm thêm khi có cơ hội, thấy một tiệm sửa xe gắn máy ở đường Hồng Thập Tự cần sang lại gía rẻ vì chủ tiệm đi xa mẹ đã sang lại ngay.
Anh chị em chúng tôi đều phản đối, nhà toàn phụ nữ, bố đi làm còn anh tôi đã là phi công bay bướm đời nào chịu làm anh thợ sửa xe gắn máy.. Bố tôi cũng răn đe cho có lệ vì biết mẹ đã quyết định là đâu vào đó khó mà thay đổi được:
- Nhà này không ai biết sửa xe gắn máy đâu nhé.
Mẹ gạt đi :
- Ông chỉ khéo lo, chưa biết thì làm cho biết, cả Sài Gòn này có bao nhiêu là xe gắn máy tha hồ kiếm tiền ông ạ.
Rồi mẹ nói đùa:
- Tôi mà có vốn to thì buôn cả tàu bè máy bay nữa đấy
Anh tôi nhận xét:
- Mẹ mà đi lính chắc cũng xông pha khắp 4 vùng chiến thuật, cũng lên cấp chỉ huy. ..
Những ngày đầu mẹ bảo chị em tôi thay phiên nhau lúc rỗi rảnh ra trông tiệm để ?câu khách? vì khách sửa xe toàn là đoàn ông, các anh khách hàng đến sửa xe đã gặp cô Mai, cô Lan cô Cúc và không thể nào không đến tiệm lần nữa khi xe bị hỏng. Mẹ tâm lý giỏi thật.
Chưa có tiệm sửa xe gắn máy nào ở Sài Gòn độc đáo như tiệm nhà tôi toàn là phụ nữ trông coi. Khi thì một bà gìa, khi thì cô thiếu nữ ra dáng nữ sinh bé bỏng thật dễ thương..
Nhưng người trông coi tiệm chủ yếu vẫn là mẹ, có các thợ chính thợ phụ sửa chữa hẳn hòi mà tay chân mẹ ít nhiều cũng dính dầu nhớt, dần dần mẹ thành thạo hầu hết những bệnh thông thường của xe gắn máy, khách mang xe đến tiệm sửa chỉ tả sơ sơ mẹ đã định xong bệnh chiếc xe và ra gía, gía cả phải chăng nên cửa tiệm càng được tín nhiệm đông khách.
Mẹ làm chủ hội, tính nhẩm mà vanh vách, hội non, hội gìa, tiền ai hốt hội, tiền ai đóng hội chết hội sống không sai sót bao giờ, nhiều khi tôi muốn giúp mẹ mang giấy bút ra cộng trừ chưa xong thì mẹ đã ra đáp số rồi
Không ngờ một người phụ nữ nhà quê ít học, chỉ xong bậc tiểu học trường làng mà lại tính toán nhanh nhẹn đến thế.
Anh cả tôi lái máy bay phi đoàn cảm tử, phi đoàn 219 chuyên chở lính biệt kích Mỹ. Phi cơ anh lái là một trong hai chiếc máy bay bị rơi trong một chuyến bay thả biệt kích Mỹ xuống vùng ngã ba biên giời Việt Miên Lào tháng Tư năm 1969. Anh mất tích không tìm thấy xác.
Mẹ tôi một thân một mình ra tận Ðà Nẵng vào phi đoàn để hỏi thăm tin tức của anh, mẹ không cho bố tôi đi vì sợ ông yếu sức yếu lòng không chịu đựng nổi nỗi đau này. Mẹ gánh vác cả nỗi đau cho bố..
Tin tức về con trai càng ngày càng mù mịt, ai cũng hiểu là máy bay rơi đồng nghĩa với phi công chết tan xác cùng với mảnh vụn máy bay trong bụi bờ nào đó, có người mẹ nào không đau đớn khi nghĩ đến từng mảnh vụn thịt xương con mình hoang lạnh nơi rừng sâu núi thẳm.
Mẹ tôi để hình anh Tùng trên bàn thờ hương khói, ngày máy bay rơi là ngày giỗ anh và thường than khóc gọi tên con : ?Tùng ơi, con ở đâu? Sao con chết thảm thế con ơỉ? rồi mẹ quay ra chửi từ đầu nguồn đến cuối nguồn vẫn là thằng Việt Cộng, mày vào xâm chiếm miền Nam Việt Nam con bà phải đi lính, mày bắn rơi máy bay con bà, mày giết con bà.?.
Mỗi năm cứ đến ngày giỗ anh Tùng là có vài đồng đội cùng phi đoàn 219 đến thắp nhang cho anh, nhìn thấy bạn của con, nhìn thấy những bộ quân phục như con mình đã từng mặc mẹ tôi và cả nhà lại rưng rưng nước mắt thương nhớ người thân của mình..
Biến cố 1975 mẹ chậm chân không đưa gia đình đi thoát như 1954, những nhà cửa tài sản kinh doanh của gia đình bị mất trắng chỉ còn lại căn nhà đang ở..
Mẹ tôi lại lặn lội bán buôn nhỏ ở chợ An Ðông để kiếm sống, mẹ ngồi giữa chợ đông bán gà vịt, công việc vất vả và nhếch nhác cả ngày.
Ðầu sóng ngọn gió nào cũng có mẹ xông pha. Ðúng như anh tôi đã nhận xét.
Vợ chồng con cái tôi đi diện HO đến Mỹ, gia đình em Lan đi vượt biển và đến Úc định cư, còn lại gia đình em Cúc ở lại với bố mẹ.
Bố tôi đã qua đời trước mẹ như mẹ và chúng tôi mong ước. Chúng tôi định bảo lãnh mẹ sang Mỹ hay Úc nhưng mẹ tôi từ chối và muốn ở với vợ chồng con gái út đến cuối đời..
****************
Hôm nay ngày lễ Vu Lan tôi đi chùa lễ Phật đọc kinh báo hiếu Vu Lan. Khi cài lên áo bông hồng trắng tôi lại ngậm ngùi thương nhớ mẹ.
Ðặt hoa qủa lên bàn thờ tôi cúng mẹ với tất cả niềm yêu thương và hãnh diện. Người mẹ nhà quê của chúng tôi chữ nghĩa không đầy lá mít đúng như các người bên nội tôi đã chê bai khinh thường, nhưng người mẹ ấy đã bôn ba tất bật cả cuộc đời để bao bọc nuôi nấng chồng con một cuộc sống ấm no và hạnh phúc
Bà nội tôi đã chọn không sai nàng dâu. Bà nội đã có một nàng dâu tuyệt vời..
----------
----------------------------
Khi Ðịnh Mệnh Cúi Nhìn
Phần Thứ Nhứt
Chương 6
Tình Vờ? Dật Dờ Vu Vơ
Tình Hoài Hương
***
Hồng Hạnh mơ màng nhìn lên trời cao, xao xuyến nghĩ về? sự học hành của ta chẳng biết lúc nào mới có ?bảng vàng ghi tên?, mà thời gian đã nuốt chững tuổi xanh, & sức lực hao gầy theo nhịp trời đổ cơn mưa gõ lóc cóc miết mãi trên dáng người ngây ngây lạnh. Hạnh ú ớ ngây ngô khờ câm khờ dại, cô bước thấp bước cao nơi con đường gập ghềnh thấp thoáng bóng hoàng hôn buông trên mái đầu lơ thơ tóc bay bay theo gió... khi cô nghĩ về Nam.
Chờ Hạnh ở tiệm Vĩnh Chấn, Nguyệt vui vẻ nói:
- Chúng ta hãy đi giải trí xí nghe. Anh em ta muốn nhờ mi là? Noel nầy Hạnh về Cầu Ðất có chút chuyện... Khổ quá, là như vầy nè... anh trai của tao ảnh, ảnh nhờ... tao nói với mi là... là...
- Là là là... Mi muốn cái gì, nói toạt móng heo ra đi. Mi cứ ấp a ấp úng, vòng vo tam quốc chí. Nghe phát mệt.
- Tụi nầy nhờ mi đóng vai... "tình hờ" của anh Minh, ừ! chỉ ?giả vờ? thôi. Tất cả bọn mình sẽ đi qua nhà bà vợ tương lai của ảnh, cho họ hàng nhà chị ấy đừng tưởng bở, đừng làm bộ, làm tịch, làm cao. Anh tao không có chị ấy, thì còn có khối người mê ảnh. Vì anh em nhà tao chịu hết nỗi gia đình họ ưa làm "ta đây" có giá rồi.
- Thôi đi má! Ðùa dai kiểu nầy hại tim lắm. Tui sợ bị ăn dao phay, bị tạt ác xít, mà nè tui tức là tui chả được "chấm mút" cái chi chi.
- Không sợ tao méc "ôn xã" của mi sao?
- Khi không mi bắt tao làm chuyện quân tử tàu. Mệt.
- Vì hạnh phúc của ảnh mà.
- Thương họ hén. Nếu lỡ tao có bề gì, thì làm gì nhau nà?
- Bảo đảm có anh em bạn bè đi quanh mi mà.
- Ðể xem sao.
Vậy là Minh và hai em gái tới nhà cô, xin phép chị Tư cho Hồng Hạnh về Cầu Ðất "ăn giỗ bà cố". Chiếc xe đò chở mười sáu người lên đường về quê Nguyệt. Anh Minh năm nay khoảng hai chín tuổi, anh có những người bạn đã vào đời, người đi dạy học, người đi lính, người sinh viên: Biên, Thuật, Cư, Sĩ, Tòng, Phán, Hội. Thuyết, Tâm, An. Cùng với bảy cô gái nhỏ ưa quậy phá nghịch ngợm. Nên chuyện vui nổ dòn như bắp rang trong chiếc xe đò. Do có bàn tính trước nên bạn hữu xuống xe dưới đầu dốc. Cầu Ðất có độc nhứt một con đường cái quan. Quốc lộ chính nối liền thành phố Ðà Lạt với Ðơn Dương, Krông Pha, Ba Ngòi, Cam Ranh, và liên tỉnh miền Ðông. Xem ra khu phố nầy tuy nhỏ, nhưng không kém phần quan trọng! Phố chợ nằm trên quốc lộ chính 27 (nối dài với 1 A), cho nên ta đi lên đi xuống vài lần đã rõ mặt nhau. Cô vợ tương lai ở giữa phố, về phía tay phải. Nhà Minh an tọa trên dốc trái, nhích lên lưng đồi cao, đứng ngoài sân, Minh có thể nhìn thấy nhà bà xã tương lai Cầu Ðất.
Chỉ cần một giờ thôi, thì từ đầu dưới lên xóm trên đều biết tin giáo sư Minh, cùng bạn bè đông đủ về làng. Ở thôn xóm cần lao nầy người dân đa số đầu tắt mặt tối với ruộng vườn, nương rẫy. Một giáo sư tà tà về quê, liền được thiên hạ ngưỡng phục, y như quan Trạng về Làng vậy. Nhứt là anh ta "kề vai bá cổ" với con nhỏ thị thành mặt hoa da phấn. Nói ra thì mắc cỡ, xấu hỗ chết đi, Hồng Hạnh không đẹp đẽ cho lắm, chẳng qua cô ưa lấy le, muốn quậy tưng trời xí và ?ham dzuỉ thôi. Bọn Nguyệt chọn cô vì "lì", điếc, thì lấy gì sợ súng mà lo!
Hạnh dám cả gan vai ôm cánh ấp, (không đồng sàng dị mộng), hai người nũng nịu đi giữa lòng quốc lộ, nói chuyện "tìn...iêu", ríu ra ríu rít mắt liếc liếc lườm lườm giả bộ đưa tình, cho nó có phần hấp dẫn, đắm say. Run thấy mồ, nhưng Hạnh làm ra vẻ yêu đương mặn nồng, ỏng à ỏng ẹo nhoi nhoi cái đít vịt. Tay trái cô vờ quàng ra sau lưng túm đuôi áo veste của Minh, cho khỏi ngã dúi về phiá trước. Tay phải cô bèn nựng nựng cằm Minh, ?tát yêủ (tát quái) trước đám rước.
Phần Minh giả vờ cúi sát bên mái đầu cô ?âu ím?, anh xổ một tràng tiếng Thượng, tiếng Miên, Lào, Miến Ðiện, Ấn Ðộ? chi mô. Không ai hiểu ất giáp gì, nhưng cả nhóm lườm lườm nguýt nguýt, cười reo, cốt ý cho thiên hạ thấy, mà tức chơi cho bỏ ghét. Biên đọc thơ hài để trêu chọc bà xã Ðoan của Minh:
Ðoan đi đò đêm Ðông
Ðợi đò đến đời Ðoan đẫn đờ.
Ði đằng đuôi đâm, đập đổ đùng đùng
Ðấu đá đầu đỏ đầu đen
Ðiều đau đớn đó đã đền* đúng đắn *(đền bù)
Ðời Ðoan đun đẩy đều đặn
Ðùng đoàng đom đóm đảo điên, đáng đời.
Ðứt đuôi Ðoan đã đi đon
Ðủng đỉnh đâu đấy đèn đóm? đến đồng*! ?(*đến đồng ruộng: ngoẻo) (1)
Long cười khà khà, nổ một tràng:
- Giáo sư hỏi cả lớp:
- Ai có thể nêu ra hai sự kiện lớn trong cuộc đời của nhà thơ Anh tên là Milton?
Một nam sinh viên nhanh nhẩu phát biểu:
- Sau khi kết hôn, nhà thơ viết tác phẩm "Thiên đường đã mất".
Ðến khi vợ ông chết, thì ông viết tác phẩm "Thiên đường trở lại" (2)
Họ quậy phá "dễ xợ"! nhưng đã đóng kịch ta phải đóng cho trọn vở tuồng chớ. Thú thật cô níu rịt vạt áo của Minh, hết dám đi ngang qua nhà ?chị ấỷ lần thứ nhì, vì cô thấy những ?cái nhìn? nẩy lửa ném vào cặp tình hờ trên phố. Khuôn mặt họ nhà gái quê xệ đanh lại bên luống rau, ở góc đường, cuối ngõ. Có tiếng kêu gọi nhau ơi ới, xầm xì trò chuyện, họ ù té chạy đi báo tin với ?họ nhà vợ? anh Minh, y như báo tin bão khẩn cấp! Hạnh sợ bị ăn dao phay, bị tạt ác xít quá chừng. Ðám bạn gái, trai hộ tống phía sau hai người, họ không khỏi rùng mình ớn lạnh, le lưỡi trợn mắt, nổi da gà, dựng đứng lông mày lên, vì khiếp đảm.
Thôi nhé! Một lần dại thì vái tới già. Ham "dzui" có ngày lãnh thẹo, chết nghe con. Không có cái dại nào bằng cái dại nầy thật. Eo ơi! Cái lạnh bất chợt ập xuống vuốt sống lưng cô, như có ai lấy kim sắt to tướng đâm vô đốt xương sống chọc tủy ra, làm lưng buốt cóng đến rợn tóc gáy. Dĩ nhiên, người ta phải bảo vệ quyền tư hữu danh nhân Thôn Xóm chứ. Minh sinh ra, lớn khôn, thành nhân, thành tài từ nơi chôn rau cắt rốn nầy mà:
Trước đây con tưởng gặp thời
Chúa ban con được tìm người con yêu
Giờ đây thân xác tiêu điều
Ðời con phải chịu rất nhiều đắng cay (2)
Gia đình Nguyệt mời bạn về nhà thiếu hẳn cách tổ chức, vì đã hai giờ chiều mà bếp lạnh tro tàn. Bà Ngoại của Minh đau nằm một chỗ. Cha mẹ họ mất sớm, Minh là thanh niên mà phải quáng xuyến mọi việc trong gia đình, thì làm sao đàng hoàng tươm tất, (bằng có bàn tay phụ nữ lo chu toàn). Hai cô em gái còn non nớt của Minh đi học ở thành phố, mỗi tháng hai em? về quê thăm ngoại vài ba lần. Minh dạy học trường Tư ở Ðà Lạt và Cầu Ðất, anh hết chạy lên lại lóc xóc chạy xuống, vừa chăm sóc ngoại già, em dại, một chốn đôi quê, anh như gà trống nuôi con trong cảnh vườn trống nhà đơn. Ngoại già ở dưới quê lụm cụm, nên trăm sự Minh phải nhờ lối xóm đỡ đần sớm hôm trông coi ngoại khi tắt lửa tối đèn.
Kịp lúc đó mấy người bên nhà gái mời Minh qua nhà họ nói chuyện. Minh xanh mặt nhe! Như sực tỉnh cơn mơ, Minh đưa tiền cho cô em Thủy đi chợ mua: trứng vịt, thịt bò, thịt heo, rau quả về nấu cơm canh để ăn tạm, đúng là ngày Noel mà anh cho bạn và em ăn trứng vịt, thiệt "ọt rơ" nha. Giờ nầy còn lác đác vài hàng rau thịt sơ sài, ruồi bu tám lớp, thấy ghê! Cơm nước giao cho bọn học trò dé dé choi choi xíu xíu nầy lôi thôi quá! Ði chợ nấu ăn rì mò cái gì mà mãi đến hơn ba giờ chiều chưa có cơm ăn. Nguyệt là chị mà vụng về lười nhác, cô giao cho Thủy cặm cụi lò mò xào nấu. Bếp núc tối om, chật chội, khói tỏa mù mịt, mắt mũi cay xè. Chẳng ra làm sao cả! Mấy bạn thấy vậy liền túm tụm với nhau mỗi người một tay. Cuối cùng cơm canh cũng dọn lên bàn.
Ăn cơm dở dang thì Minh về, mặt mày anh ta tươi rói, vì "âm mưu kế hoạch" giả có bồ nhí đã thành đạt: Anh sẽ cưới vợ sớm hơn dự tính, nên anh cười nói huyên thuyên. Bỗng Minh im bặt, khi thấy mấy cô gái ngồi xù ra. Anh hỏi Nguyệt, Thủy. Vỡ lẽ ra anh mới biết là các cô nấu nồi cơm nhỏ xíu, chỉ vừa cho ấy anh kia ?xơỉ thôi. Nên bọn con gái đói meo, chờ nấu nồi khác. Minh cười, phân bua:
Con giờ như cá lòng tong
Sụt ba chục ký ốm nhong rã rời
Thế mà đâu hết nợ đời
Nấu cơm rửa chén trả bàỉ tí ti
Người đâu gặp gỡ làm chi
Ðể cho khổ thế, còn gì tuổi Xuân? (2)
- Vì vậy, tôi cần phải cưới người vợ đảm đang gấp. Tiện thể, xin cám ơn các cô em, các bạn tôi. Nhờ có bữa cơm đói meo nầy, mà chúng tôi mới có dịp xí xóa làm lành mí nhau, chúng tôi sẽ làm đám cưới sớm. Xin mời qúy vị ân nhân đến tham dự nhe:
Bảy cười ha hả:
- Khi đó thì toa đừng có than thở như thơ vui dưới đây nha:
Bông bốn bó, bị ?bá?
Bảo bèn bẹt bẻ bai* (*=vừa chê, vừa bắt bẻ. Nghĩa xưa: lả lướt, du dương)
Bông buồn bã biết bao!
Bông bều bệu bước buị* = (đi bụi đời)
Be bét bấu bíu bờm* = (?bờm?= tóc rũ rượi)
Bông biết Bảo bảnh bao
Bảo bảy bó bay bướm
Bao bà bu bám Bảo
Buồn bớt bạn? bèn bương*! = (*bỏ chạy)
Ba bên bốn bề buông
Bách bộ buồn bực, bởi:
Bông bị bệnh bạch biến* (*lang ben) (1)
Hoặc là giống như: hai ông chồng ngồi kể khổ với nhau về chuyện vợ con. Một ông rầu rĩ nói:
- Nhiều lúc tôi muốn chết quách cho rồi. Không biết trên thiên đường có đàn bà không nhỉ?
Ông kia trợn mắt:
- Vớ vẩn! Có đàn bà, thì sao còn gọi là thiên đường được!
Tòng khoát tay phản đối:
- Gác ?chiện? đó ?goả một bên. Hổng phải anh đi đã đời, rồi ?dìả đây ba ?goả chích chòe. Phải bồi ?goàn? thiệt hại ?dề dật? chất, tinh thần anh em chớ. Nội cái tội: Hôm qua, ?goả nói ?goả qua, mà sao ?goả hổng qua ăn ?cum dí? tụi tui cà? Rùi hôm nay ?goả nói hổng qua, mà sao ?goả lại mò qua nhà con ?dợ goả, để tạ ơn hè: Tạ ơn trời đàn bà vẫn còn đó
Ðể đàn ông vẫn còn có niềm vui
Chỉ đàn ông. Thôi chết quách cho rồi
Không đàn bà. Ôi chẳng thà tận thế. (2)
Họ vui vẻ cười đùa nhao nhao chọc phá nhau, mỗi người một câu:
- Coi ảnh xoa xoa hai tay ngon ơ ?dzậỷ. Làm gì có ?chiện? đi không ?dzìả rồi. Dễ ợt dzậy! Phải khao bọn nầy bữa nhậu cho quắc cần câu chớ:
- En (anh) đi náng (nướng) cá cho bợn (bọn) tui dậu (nhậu) lơi rơi (lai rai) cho tui tiếp tục:
Cho tôi hỏi đàn bà là chi rứa?
Là những gì rung động trái tim ta
Làm cho ta cảm thấy nổi da gà
Là gặp gỡ, xốn xang, là tiếng sét...
Là hợp gu vì cùng chung tính nết
Là âm thầm nhung nhớ lúc chia xa (2)
Thế là các anh cười ha hả đi mua rượu và mồi về, họ uống cho đã đời một bữa. Các cô chui vô phòng nằm chèo queo đợi nồi cơm sau vừa chín tới, thì họ ra ngồi chò hỏ dưới nhà bếp, ăn cơm với một món su su xào tôm khô, vậy mà ngon ơi là ngon. Hồng Hạnh không ân hận khi làm chuyện "ruồi bu" mà cho người khác có hạnh phúc, tưởng nên lắm. Cô nghĩ có lẽ do tính mình "lí lắc, lóc chóc, tành hanh, xí xọn, cao hứng" mà ra, chớ ta chẳng xinh đẹp quyến rũ, đào hoa đào hiếc gì lắm, để được hai anh Biên và Sĩ theo tán kỹ quá. Hồng Hạnh không thích họ vì mới gặp chưa bao lâu, họ tán vội tán vàng như kiểu chụp giựt món hàng sold không bằng. Rồi... giống người chuyên làm áp phe, anh nầy tán không được, bỏ đi, anh kia đến. Xí! Hạnh tiếc không có em Thơ nơi nầy, tính nó hồn nhiên thẳng thắng, thấy vậy chắc là nó quậy phá cho mà biết. Dẫu chưa vướng mấy bụi trần, Hồng Hạnh có cái nhìn chân thật, tâm hồn thẳng thắng riêng. Vì phép lịch sự cô phải xã giao vui vẻ xí, (tuy lòng cô băn khoăn) chớ trách họ đã vào đời, từng trãi qua kinh nghiệm sống, chết, và chiến đấu trên chíến trường, họ yêu cuồng sống vội giữa phong ba cuộc đời, nếu ai có ba trợn, hoặc nói năm ba chuyện tào lao chi đế, vẫn là thường.
Năm giờ chiều, trừ Minh ở lại thảo luận chương trình tổ chức hôn lễ sắp đến, tất cả bạn bè, em cháu, đều lên xe trở về Ðà Lạt. Ngồi phía trước cạnh bác tài xế, Hồng Hạnh nhìn lên bầu trời đầy mây xám giăng giăng, cô cảm thấy buồn buồn nhớ nhớ trong lòng. Hồng Hạnh tì tay lên cửa xe nhìn vu vơ xuống núi đồi trùng điệp. Thung lũng nầy có những con đường đất đỏ vòng lên vòng xuống, quanh năm chìm trong biển sương mù đọng suốt con đèo uốn lượn quanh co nhấp nhô thấp cao. Dãy đồi lồng lộng chập chùng, cao lớn tiếp nối hài hòa đẹp mắt lạ thường. Nhiều đám hoa dã qùy chen lấn lau sậy lô xô cùng mấy bụi sim mọc lô nhô chạy giật lùi sau những khúc ngoặt sau đồi mấy thông cao to nhọn hoắt.
Dân cư ở đây đa số làm vườn, làm rẫy, họ trồng từng đồi su su, rau cải, bắp sú, cà rốt, khoai tây, hoa, trái cây đủ loại dưới thung lũng hoặc lưng chừng các triền đồi. Họ cần cù nhẫn nại phá đồi làm nương rẫy từ tháng nầy qua năm khác. Họ tưới biết bao giọt mồ hôi trên luống đất hoang rừng, trở thành ruộng rau xanh tốt màu mỡ phì nhiêu. Những mái nhà tôn cũ, mới, nhấp nhô lẩn khuất, ẩn hiện dưới vòm cây ăn quả tỏa làn khói quấn qúit, bịn rịn ấm áp, gợi thèm nhớ bữa cơm chiều. Mấy bác nông thôn cần lao sớm tối quảy gánh trên vai, bước chân vững chãi đi lên đồi hoặc xuống dốc, nhịp nhàng uyển chuyển theo đôi thúng gióng đong đưa. Con chó vàng loăng quăng chạy theo mừng chủ trở về, sủa gâu gâu vài tiếng nó vặn hết cả người theo cái đuôi ngoắt lia ngoắt lịa. Bỗng chốc nó nhảy chồm lên người chủ, khiến bác nông thôn phải gỡ nón lá ra đập, đuổi nó đi.
Sát lề đường, cạnh trường Tiểu học Ða Lộc nơi bác tài ngừng xe, để châm thêm xăng nước, vài thanh niên mặc áo quần lao động, đầu đội nón vải màu đà, mang gùi thưa đựng đầy lá trà tươi, tay cậu ta cầm gậy trúc, miệng huýt sáo bản nhạc vui tươi. Họ đi với ba em bé nhảy bước chân chim cạnh bốn thiếu nữ. Các cô gái Ðà Lạt trạc tuổi mười tám đôi mươi có làn da trắng mịn, hai má thắm hồng, mắt ngời sáng, đẹp như hai em bé bầu bĩnh kia. Họ mang găng tay cao su, nón lá móc vào khuỷu tay. Họ mặc áo rộng thùng thình, quần đen bỏ trong đôi giày ống cao lấm lem đất đỏ, lưng đeo gùi đầy lá trà xanh nặng trĩu vai. Họ vẫn thảnh thơi bước đi, không chút nhọc nhằn, hình như không biết mỏi mệt, vất vả, dù đôi quai gùi thô cứng siết chặt vô vai. Các em bé và các cô cười khúc khích, hồn nhiên vô tư lự không bối rối. Họ cười khi thấy cậu thanh niên cỡi xe đạp chạy quá trớn từ trên triền đồi xuống đường, cậu ta giăng hai chân ra, thân hình xiêu vẹo qua một bên, cậu ta cố ghì chặt tay lái cho xe khỏi ngã, khi thả dốc.
Bác tài sẽ chạy thẳng về đường Cường Ðể, Hai Bà Trưng, Phan Ðình Phùng, Duy Tân, Nhà Chung sẽ là trạm sau cùng. Khi xe ngừng ở Duy Tân. Hồng Hạnh bỗng giật mình run rẩy như con chim nhỏ bị tên, khi cô thấy Nam và các cháu: Bảo, Quốc, Toàn, Thịnh, Tí... đứng chọn sách, mua đèn Noel. Anh xuất hiện bất ngờ, khiến Hồng Hạnh sững sờ quá sức, không thốt nên lời để nói bác tài cho cô xuống xe mà chạy đến bên họ. Hồng Hạnh ngẩn ngơ nhìn, trái tim cô bình an đột ngột nhảy tưng tưng, cơ mô không hề biết mỏi mệt đập thình thịch trong lồng ngực Hạnh mệt nhoài như muốn đứt hơi. Trái tim ơi! hãy nghỉ mệt một vài giây mừng rỡ đi nhe! Cho tôi bớt bồn chồn xao xuyến đến tận cùng tế bào run rẩy. Giữa buổi hoàng hôn chớm buông thả bức màn sương mỏng tanh xuống thành phố thấp thoáng hoa đèn, anh đến bất thần như mang theo làn gió xuân nồng say ấm áp, làm xôn xao tâm hồn Hạnh trào dâng mối xúc động choáng ngợp mãnh liệt.
Ðào, Yến, xuống xe ở dốc Minh Mạng, mấy chàng trai ngồi sau lưng Hồng Hạnh bỗng chồm người ra, họ huýt gió cười đùa, chỉ chỏ, xuýt xoa lung tung. Trong ngôi nhà bên phố có người con gái khá xinh đẹp, khiến cô ngẩng nhìn đăm đăm, và mến thích ngưỡng mộ. Hồng Hạnh không thể ngờ cuộc sống, tình yêu, hoài bão, tương lai hạnh phúc của mình, sẽ chạm trán gay gắt kinh khủng, đớn đau đột ngột, tóe lên thành suối nước mắt li ti, chảy hoài trên đôi má không cạn khô. Cả cô gái kia cũng không thể ngờ: Ðó là hai dòng giông bão thổi vô đời nhau:
*Nguyễn Phước Quyên Hà & *Trần Ngô Hồng Hạnh.
Do quá nể lời mời chị em Nguyệt, nên cô đến nhà Nguyệt chơi xí. Vô nhà bạn, Hạnh ngạc nhiên thấy Biên đã có mặt, anh chạy xe lambretta về trước. À thì ra, hai cô nể trọng người anh thúc bá của nó, nên nài nỉ Hạnh về nhà chơi tí mà. Ðã lâu, có vài lần đến nhà Nguyệt, cô tình cờ gặp Biên, Hạnh chào hỏi xã giao, thiệt chẳng có gì bận tâm. Thậm chí hồi sáng nầy hai người gặp nhau ở Cầu Ðất, vậy mà cô không nhớ Biên, Hồng Hạnh tự trách "mình kém cõi xã giao, tệ mạt trí nhớ thế, không biết". Hai nhỏ bạn kia làm cơm nhưng khóa cửa bếp, không cho Hạnh xuống phụ. Họ thật vụng về, khiến cô cảm thấy ngượng và mất tự nhiên, tự dưng cô cần cảnh giác, đề phòng mọi người. Nói chuyện với Biên chả vui vẻ, không có chuyện gì để nói! Mình đã kém cỏi, gặp phải... trường hợp càng kém cỏi tệ, không tế nhị chút nào, trách sao Hạnh khó chịu quá!
Biên mến thích Hồng Hạnh, điều đó thuộc lẽ tự nhiên qua cái nhìn Hạnh vô tình bắt gặp khi ngẩng nhìn Biên. Cái nhìn khác hẳn bạn trai cùng lớp, cái nhìn giống hệt Phú chứa đựng niềm cảm mến sâu sắc, âu yếm, đằm thắm dịu vợi! Hồng Hạnh hãnh diện về Nam, được anh ưu ái thương yêu. Cô càng được đẩy xa hơn khi biết chắc chắn có vài ba chàng trai thực sự mến mình. Ðã yêu Nam và được hồi đáp, Hồng Hạnh biết ?cái nhìn? Biên trìu mến dường nào, lúc mà Biên đột ngột đề nghị cô: ?cho phép anh nắm bàn tay em, để xem bóỉ. Dẫu bị từ chối, Biên vẫn vui vẻ bám riết ý định làm thầy bói... dở hơi kìa! Hồng Hạnh không chịu cho Biên điều đó, chỉ nói chuyện tào lao, tào khào, chẳng có đề tài gì vui vẻ, hấp dẫn.
Khi Nguyệt mở cửa lớn để dọn cơm lên bàn, bàn nầy dùng để tiếp khách, vừa học, cũng là nơi dùng ăn cơm. Hồng Hạnh vụt đứng lên nhứt định đòi đi về. Nguyệt thấy mặt bạn xù ra, biết Hồng Hạnh không bằng lòng, cô gái cười giả lả. Tiễn Hạnh ra tận ngõ:
- Tao biết mi không bằng lòng. Ðừng giận tao. Thông cảm tao ở thế kẹt. Nghe! Nếu tao không nhiệt tình tạo cơ hội cho ảnh gặp mi theo yêu cầu, ảnh trách tao không hưởng ứng. Dù tao đã giải thích điều gì, ảnh cũng không tin.
- Thông cảm mi kiểu nầy, có ngày chết tao à,
- Tao biết mi thừa bản lãnh. Của César ta trả về César rồi nhen.
- Chưa chắc à, bạn ơi!
- Anh Biên là người có tư cách, là lính chiến chỉ có vài ngày phép, ảnh không có thì giờ đi theo đuôi ai, tán hươu tán vượn dài dòng. Dù vậy, tao tin tưởng tình cảm của ảnh đối với mi rất đặc biệt, và chân thật. Hiểu không?
- Hiểu... quá đi chứ.
Nguyệt đẩy bạn ra khỏi cổng, cười tít mắt:
- Hiểu rồi đừng giận bọn tao. Chúc Noel vui vẻ.
- Hổng dám đâu.
***
Tình Hoài Hương
(Viết lại hoài niệm xa xôi... trìu mến tặng hai bạn nhỏ: Thu Nguyệt & Thanh Thủy)
(1) Sưu tầm
(2) thơ Vui: Tình Hoài Hương
Mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
Phần 1
Tôi thường bị khó ngủ lúc nửa đêm về sáng. Nằm mãi cũng không thành mộng nên tôi thường mò xuống bếp nói chuyện Sài Gòn với Quân trong lúc bạn tù cải tạo vẫn còn đắm chìm trong giấc ngủ mệt nhọc. Bếp lửa với tôi luôn luôn là một niềm vui. Sáng nay thì khác, trong bóng tối tôi lặng lẽ sắp xếp áo quần tấm đắp, tấm trải vào ba lô sửa soạn cho chuyến đi lao động xa trại với một nhóm bạn tù. Từ trên chòi canh ở sườn đồi phía bên kia đầm nước ngăn chia khu nhà cán bộ và trại tù tiếng kẻng báo tập thể dục vang lên phiền toái.
Màng hơi nước trắng đục che kín mặt đầm làm chiếc cầu tre bắc ngang qua trở nên mỏng manh và xa xôi hơn. Trên cầu bóng gã vệ binh lầm lũi bước theo vệt sáng của chiếc đèn bấm lắt lay như một bóng ma. Ngoài sân chỉ lèo tèo một nhóm nhỏ thật sự sắp hàng nhảy những động tác thể dục, số còn lại vẫn nằm trên chõng tre miệng hô to một, hai, ba, bốn rất ăn nhịp. Tiếng quát tháo của gã vệ binh từ phía đầu dãy trại khiến chúng tôi đành phải tiếc rẻ bỏ cơn ngủ nướng.
Mọi người lục tục xuống nhà ăn để lãnh nước sôi và phần ăn trưa chuẩn bị cho ngày lao động dài. Sau khi tập trung điểm danh ở hội trường, vệ binh dẫn chúng tôi ra vùng lao động. Họ canh gác, ngủ gà ngủ vịt ở đó rồi dẫn chúng tôi về lúc chiều tối. Những ngày này nhiệm vụ của trại là dọn c? trăm mẫu rẩy để chuẩn bị trồng khoai mì. Chỉ tiêu của nhóm bốn người chúng tôi là ra vùng Phước Bình, cách trại hơn hai mươi cây số, mỗi ngày tìm chặt và chất đầy hai chuỷn xe GMC cây khoai mì để làm giống. Hai mươi xe. Công việc sẽ rất vất vả nhưng niềm vui được đi xa trại đã làm tôi không ngủ được tối qua.
Trong bếp ba người bạn tù Bình, Việt, và Lập đang đấu láo với ?anh nuơỉ Quân chờ lãnh gạo.
Việt xòe tay nhanh nhảu.
- Mười ngày lao động cọng với hai ngày đường là mười hai. Với tiêu chuẩn mười lăm ký gạo một tháng, như vậy mỗi đứa tao sẽ được lãnh sáu ký. Chịu chưa!? Ðong đi!
Hắn hả miệng cười, dang rộng miệng bao cát trước mặt Quân như người ăn xin. Quân cự nự.
- Thằng này khôn tổ mẹ! Tiêu chuẩn trại là mười lăm ký lương thực chớ không phải mười lăm ký gạo. Mầy có nhớ là bao nhiêu lần bắp nấu, khoai mì, bột mì, bo bo tụi mình phải nhai một tháng không?
Tôi giảng hòa.
- Thôi, ăn gian không được thì bỏ! Ðong cho tụi tao mỗi đứa ba ký được rồi. Ðào mót khoai mì ngoài rẫy của dân cũng dư sức mưu sinh.
Chờ cho nhóm xách gạo ra khỏi bếp, Quân khều tôi lại đưa cho khúc xôi nấu ống lồ ô. Quân nháy mắt cười đểu.
- Vậy là tao phải đi rẩy thăm người đẹp miền cao một mình rồi phải không!?
- Mầy liệu hồn. Vệ binh bắt được là mút chỉ, hết ra trại luôn.
Thỉnh thoảng tôi và Quân lén lội suối qua khu rẩy Thượng tìm nấm mèo và chặt cây xá xị về nấu. Có lần bóng dáng người đàn bà Thượng còn trẻ đang làm rẫy đã làm chùng chân hai gã đàn ông gần ba năm xa phố xa nhà. Hai đứa ngồi lại dưới bóng cái chòi nhỏ giữa rẫy lúa gợi chuyện với người người đàn ông Thượng đứng tuổi đang chẻ lồ ô đan thúng. Không dám nhìn lâu cặp vú nâu bóng cong lửng của người đàn bà Thượng, tôi quay lưng lại hỏi thăm chuyện nuong rẫy.
Câu chuyện trở nên đậm đà khi người đàn ông Thượng cho biết đã đi lính g?n hai mươi năm ở tiểu khu Phước Long. Mấy năm sau này người lính Thượng về gác nhà ông Ðại Tá ở đường Trần hoàng Quân, Sài Gòn. Sau bảy lăm, sống ở thị xã Phước Bình, bộ đội lui tới rầy rà quá nên dẫn gia đình về đây từ mùa rẫy năm ngoái. Người cha gọi cô con gái vào bắt lửa lên nấu xôi. Dồn nếp vào ống lồ ô tươi chèn kín bằng lá chuối, người đàn bà đặt ống tre bốn mươi lăm độ trên bếp lửa, thỉnh thoảng xoay ống cho lửa nướng đều. Xôi nấu ống lồ ô ăn rất dẻo và để dành được lâu. Tôi và Quân phải nài nỉ mãi hai cha con mới chịu lấy tiền xôi. Từ đó người lính Thượng già đã trở thành bạn vong niên.
Quân đứng nhìn bếp lửa bập bùng, nói như phân bua.
- Mầy có đồng ý với tao là nếu không có Sài Gòn để về thì cái nhà sàn ngoài rẫy kia với cô gái Thượng vú sừng trâu đó cũng ngon lành gấp mấy lần sống lây lất trong cái trại cải tạo nầy không?
Quân còn độc thân. Không Quân, phi công phản lực F5. Người yêu theo gia đình đi Mỹ năm bảy lăm.
- Dĩ nhiên là tụi mình ai cũng còn Sài Gòn để về. Tạm thời ăn bo bo, trồng khoai mì cho nhân dân, dòm lén vú con gái Thượng, tối nằm mơ Sài Gòn chờ ngày về. Thế nào ngày đó cũng tới.
Quân đưa thêm mấy cục đường tán nhắc tôi nhớ ghé bệnh xá gặp bác sĩ Lãng để hắn đưa mấy tên thuốc cần mua cho anh Minh.
Lúc chúng tôi tới hội trường cạnh khu nhà cán bộ thì một người vệ binh cầm súng đang đứng chờ. Dáng hắn lơ đãng, ba lô trên nền đất. Bình nói nhỏ.
- May quá thằng Chanh đi theo mình chớ không phải thằng Hùng.
Hùng là tên bộ đội người Hải Phòng vẫn thường ba hoa không giấu giếm cái quá khứ du đãng trộm cắp hàng hóa từ các tàu buôn Ba Lan, Tiệp Khắc ở bến cảng Hải Phòng những năm cuối cuộc chiến. Lúc mới về trại, hắn vẫn thường hống hách kiếm chuyện trói cải tạo viên vào gốc cây hoặc để nằm trên nền đất không cựa quậy được hằng nửa ngày trời. Sau lần bị bộ đội gốc miền Nam chận đánh phải đi nằm bệnh xá cả tháng, hắn đã bỏ bớt thói du đãng nhưng vẫn không được ai ưa.
Dừng lại ở đầu con dốc dẫn vào tỉnh lộ 10, người vệ binh vắn tắt về kỷ luật chúng tôi phải tuân theo trong thời gian lao động xa trại. Phía dưới chân đồi từ mấy dãy trại, cải tạo viên với cuốc xẻng trên vai, áo lính bạc màu, lục tục bước qua cầu đi về phía hội trường. Ðoàn người lê bước ngoằn ngoèo như con rắn bò buồn bã. Một ngày nữa. Một ngày dài lao động nữa trong đời người cải tạo đang bắt đầu. Sức mạnh nào đã giúp bạn thức dậy sáng nay? Cơn mơ nào sẽ giúp anh mớm sức cho ngày sắp tới? Những cơn mơ có khác nhau nhưng tôi biết chắc tất cả chúng ta ai cũng đã mơ giấc mơ đẹp đêm qua. Mơ trở về nhà. Bếp lửa. Con thơ. Vợ hiền. Gối chăn. Cơn mơ rất người đã làm bạn thức giấc nửa đêm, tiếc rẻ nỗi giật động bơ vơ mệt nhoài. Xin tạ ơn trời chúng ta vẫn còn một giấc mơ để sống. Từng ngày.
Gần hai năm trước, vùng đồi rẫy gần tám cây số dọc theo tỉnh lộ 10 này đã bao phủ bởi một màu xanh đặc của từng cánh rừng lồ ô bạt ngàn nối tiếp nhau. Ðoàn xe motolova cũ kỹ bít bùng chật như nêm, chở chúng tôi chuyển trại từ Long Khánh lên. Trời mới nửa chiều mà đã nhá nhem tối bởi tàng lá rừng đan đặc che kín trên đầu. Sức người đã làm con đường mòn trở thành đường cái quan. Dọc theo phía triền cao của con đường nối tiếp nhau những cánh rẫy đã gặt xong mùa đầu. Vài tháng tới đây sẽ tràn một màu xanh non của bắp sắn. Bên triền thấp những dãy trại dựa sâu vào lưng đồi tìm kiếm sự chở che của đất. Màu mái tranh chen lẫn với màu đỏ của mái lá trung quân khiến tôi trong một giây ngắn ngủi tưởng mình đang đi trong rừng thu miền Ðông Bắc nước Mỹ. Ðôi má cô sinh viên trường đại học Providence đỏ thơm như trái mận chín.
Chúng tôi đã dựng nhà cho mình, cho cán bộ vệ binh, dựng hội trường, nhà khách, nhà bếp, nhà kho. Chúng tôi đã gắng sức gầy dựng cho mình những tiện nghi tối thiểu để sống còn với bất ổn, với thường trực tai ương đến từ người từ trời. Lúa bắp rau đậu tỉa trồng chăm bón thâu hoạch về phải cân đong cho nhà nước, đổi lại là mười lăm ký lương thực một tháng và một năm vài lần có được chút thịt nhân mấy ngày lễ tết.
Khu bệnh xá trung đoàn là hai dãy nhà tranh nằm không xa ngã ba trên đường đi Phước Bình phía tay phải và Bù Gia Mập phía trái. Vệ binh Chanh đồng ý cho chúng tôi ghé lại bệnh xá. Hắn chỉ tay về phía dãy nhà dành cho cán bộ.
- Mấy anh thăm bạn xong thì qua tìm tôi ở bên đó. Ðừng ở lâu quá, còn phải đi gần hai chục cây số nữa mới tới chợ Phước Bình.
Bác sĩ Lãng đã thức dậy từ sớm đang sửa soạn món ăn nổi tiếng của hắn, bánh mì khô hấp hơi ăn với nước mắm mỡ hành. Với anh chàng bác sĩ tốt nghiệp trường Y Khoa Huế này, cái gì cũng phải từ tốn nghệ thuật.
- Bánh mì Hàng Xanh đó, món này phải ăn nóng mới ngon. Hấp mỗi lần một hai miếng thôi, ăn xong miếng này rồi chờ hấp miếng mới chớ không...
Bình cười cướp lời.
- ... bánh mì trở lại nguyên bổn của nó là bánh mì phơi khô 100 ngày!
Lập cự nự.
- Cái thằng này! Ðã cho ăn rồi còn chê, không nhớ ơn ?cách mạng? gì cả!
Việt nhìn quanh.
- Ðốc Tiến đâu rồi đốc Lãng?
Anh Minh từ trong phòng vừa ho xụ xụ vừa nói.
- Hai thằng suốt ngày cãi nhau chuyện trường Huế, trường Sài Gòn. Tao bực quá, đuổi hết một đứa rồi.
Lãng móc trong túi áo anh Minh tiền và miếng giấy có tên mấy thứ thuốc trụ sinh đưa cho tôi.
- Bệnh chớ cái mỏ còn nhọn lắm. Thằng Tiến nó dọt đi quán Ba Cô từ hồi sớm rồi. Ði kiếm mua cà phê thiệt cho thằng chả đó, chê không chịu uống cà phê gạo rang.
Tôi vỗ vai anh Minh.
- Ráng thuốc men vô cho ngon lành vài bữa vợ lên thăm, thằng Lãng nó cho mượn phòng ở bệnh xá tha hồ mà làm ăn.
Lãng nhắc tôi.
- Mầy ráng kiếm cho ra mấy thứ thuốc trong toa đồng thời kiếm cho được một ống tiêm cỡ lớn và kim dài để tao hút nước trong phổi ra cho ảnh.
Nhìn ánh mắt của Lãng tôi biết là bằng mọi cách tôi phải tìm cho ra thuốc và ống tiêm càng sớm càng tốt.
- Chiều mai mầy nhớ canh chuyến xe chở mì, mua được thuốc tao sẽ gởi theo xe.
Vừa ra khỏi bệnh xá Lập, vì làm ở lò rèn không đi lao động ngoài, tò mò hỏi ngay quán Ba Cô ở đâu.
Mới hơn tháng nay trên khoảng đường gần hai cây số về phía Bù Gia Mập, ba người đàn bà trẻ từ Sài Gòn lên mở quán bán cho mấy toán thợ lâm nghiệp để kiếm sống. Khám phá ra địa điểm và ai là chủ quán đã là tin sốt dẻo và vui cho tất cả chúng tôi. Cách đây vài tuần, tôi và hai bạn tù đánh liều làm việc thật nhanh xong chỉ tiêu sớm xách rựa băng rừng đi tìm quán Ba Cô. Vừa kịp nhận ra ba cô chủ quán chỉ có cái nhan sắc rất bình thường lũ chúng tôi đã choáng ngợp bởi nỗi rung động của một tình cảm rất thân thuộc đậm đà - quán cà phê và nhạc tình. Bài hát không quen những năm về trước, buổi chiều hôm đó sao nghe như tiếng lòng mình. Thành phố buồn nhớ không em. Ngày chúa nhật ngày của đôi mình. Thành phố nào vừa đi đã mỏi...
Trên đường đi Phước Bình cách bệnh xá chỉ vài cây số là làng Phước Thành, căn cứ tiếp liệu của dân cải tạo. Hầu hết dân trong làng gốc người Quảng Nam. Những người dân nghèo cùng cực vùng Thăng Bình, Chợ Ðược đã theo kế hoạch dinh điền của Tổng Thống Diệm khăn gói lên đây lập nghiệp mấy chục năm trước. Ði ngang qua một bộng dầu, Việt xin người vệ binh vào mua bánh đậu. Dân trong làng đem đậu phụng tới đây để ép lấy dầu phụng. Bã đậu sau đó được ép lại thành bánh để nuôi heo. Ðối với dân cải tạo chúng tôi bánh đậu là nguồn dinh dưỡng rẻ tiền mà hữu hiệu. Bỏ vào chút muối kho với nước thế là có ngay món ăn bổ dưỡng. Hai cô gái nhỏ khoảng mười hai mười ba nói chuyện với nhau, giọng rặc tiếng Quãng.
- Bán rẻ rẻ cho mấy chú tù binh.
Trong hoàn cảnh của mình tôi thà chấp nhận hai tiếng tù binh hơn cải tạo. Những người cọng sản cùn mòn đó đã chẳng cải được gì trong đầu óc chúng tôi. Việt vẫn giấu kỷ cuốn All Quiet On The Western Front để học lén tiếng Anh. Giúp Việt đọc, tôi xạo để hắn học cho nhanh.
- Gần tới đoạn hấp dẫn rồi đó. Ráng đi. Tới đoạn tụi nó đem bánh mì lội qua sông để kiếm chị em ta là mầy hết biết luôn.
Con người trong cùng cực có thể làm nhiều chuyện khó ngờ để sống còn. Trên vùng rừng núi miền Ðông này và biết bao nhiêu vùng rừng núi khác trong Nam ngoài Bắc, sự cùng cực thua nhục đã là cái giá chúng tôi phải trả làm người lính thất trận. Cái giá quá đắt cho chuyện được thua giữa anh em trong nhà.
Gồng gánh ra tới chợ Phước Bình thì trời đã quá trưa. Chia nhau khúc xôi nấu ống lồ ô. Tôi ăn vội cho đỡ đói rồi xin phép đi tìm mua thuốc trụ sinh cho anh Minh. Người vệ binh tốt bụng chỉ tay về phía nhà lồng chợ.
- Tôi thường mua ký ninh ở trong đó. Thuốc hiếm có lẽ phải theo người ta đi vào nhà mới có. Ði cho lẹ lên, cịn mấy cây số nữa mới tới khu trồng mì.
Thuốc trụ sinh kiếm ra dễ hơn tôi nghĩ nhưng cái ống tiêm lớn thì quá hiếm hoi. Người đàn bà buôn thuốc tây dẫn tôi đi gần hết khu phố chợ mà vẫn chưa tìm ra được.
Ch? ta vừa đi vừa càu nhàu.
- Hồi đó quăng không ai thèm lượm giờ thì quý như vàng, thắp đuốc kiếm không ra. Cái thời gì đâu.
Cuối cùng chị dẫn tôi vào nhà một người đang hành nghề y tá.
- Ông này hồi xưa là Trung sĩ Quân y. Ổng mà không có là tôi chịu thua luôn.
Sau khi nghe tôi kể chuyện bác sĩ Lãng điều trị cho Minh, người Trung sĩ Quân y Ng?y im lặng vào nhà sau đem ra hai ống tiêm lớn và gần một tá kim chích dài.
- Tôi có giữ cũng không biết sử dụng, nhờ anh đưa cho bác sĩ để ổng cứu người.
Anh từ chối nhận tiền còn ân cần đưa cho tôi gói thuốc Sài Gòn Giải Phóng và nhờ đem về cho bác sĩ Lãng một gói. Bắt tay từ giã người lính quân y Ngụy mà tôi nghe tiếng mình khản lạc vì nỗi xúc động trào dâng. Nỗi vui nhen ấm lòng như một ngày nắng hiếm hoi giữa đông dài.
Ở đầu dốc, người vệ binh và ba bạn tù đang kiên nhẫn ngồi chờ. Chanh cầm súng chỉ về phía con lộ đất đỏ cắt ngang khu rừng cao su.
- Ráng đi hết con đường này khoảng bốn cây số nữa là tới khu lấy gốc mì.
Nơi chúng tôi tạm trú trong mười ngày tới là khu xóm nhỏ ở bìa một khu làng yên tĩnh. Màu ngói cũ kỹ của mái nhà ẩn hiện sau hàng xoài xanh là chứng tích cuối cùng của sự trù phú mà giờ đây chỉ còn là âm vang trong chắc lưỡi, trong câu nói ngậm ngùi bắt đầu bằng hai tiếng... hồi đó.
.
*Tuỳ Bút
Ðời người dẫu có mong manh
Ðôi khi khoảnh khắc hoá thành thiên thu ( TH )
Gom nhặt ký ức về ?Saigon của tôỉ ngày xưa.
Ngày tháng... 1975
Ðầu năm 1975, tết âm lịch xong chị em tôi trở lại Saigon để bắt đầu chuẩn bị gạo bài cho mùa thi cuối khoá, thông thường vào giữa mùa hạ.
Thật sự lúc ấy vì đang đi học nên trọng tâm ý nghĩ của tôi nặng về trường lớp, thi cử là chính. Chuyện chiến tranh, đất nước tôi cũng tìm hiểu, đọc các phóng sự, tác phẩm viết về người lính, các anh bạn của các chị tôi trong nhiều binh chủng thỉnh thoảng có kể phớt quảà, lạ là khi các anh được phép về hậu phương thăm gia đình, rất hiếm khi kể các trận hành quân nguy hiểm lội sình lầy, các chuyến nhảy dù xuống ngay chiến địa, các chuyến lái trực thăng cứu nạn, các chuyến tàu tuần tiểu trên sông ngòi kinh rạch nhỏ hẹp bị trúng đạn pháo kích? tuỳ theo họ thuộc binh chủng nào cho chúng tôi nghe. Có lẽ họ đã sống đối diện cái chết thường trực, nên khi được vài ngày phép ít ỏi, họ không muốn nhắc nhớ đến những gian nguy bất trắc, để được hưởng trọn vẹn khoảnh khắc yên bình như có thể.
Ngày tháng 02.1975
Theo tin tức từ báo chí, truyền thông thì tỉnh Phước Long đã mất vào tháng 1. Dần dần chiến sự ở miền Trung gia tăng chỗ nầy chỗ nọ. Tôi lo lắng nhưng vẫn đinh ninh giống như tết Mậu Thân 68 hay mùa hè đỏ lửa 72, sau rốt miền Trung sẽ vẫn là của người Nam từ vĩ tuyến 17 trở vô, không ai có thể chiếm được, cuộc sống sẽ trở lại như cũ.
Ngày tháng 03.1975
Báo chí tiếp tục đăng nhiều tin đáng lo ngại. Ban Mê Thuột thất thủ. Rồi lần lượt các tỉnh khác : Huế, Ðà Nẳng, Quảng Ngãỉ Nhất là tin truyền miệng giữa người thân, bạn bè khiến chúng tôi hoang mang, nửa tin nửa ngờ. Không biết có bao nhiêu phần sự thật trong lời đồn đại. Tôi cứ tự trấn an: không lẽ nào.
Ngày tháng 03.1975.
Ba trường ÐH Văn Khoa, Dược, Nông Lâm Súc qui tụ ở góc đường Thống Nhất-Cường Ðể. Ðại Sứ Quán Mỹ cũng toạ lạc trên đường Thống Nhất. Nên mỗi sáng trước khi đến trường Văn Khoa, tôi đều phải đi ngang qua cơ quan ấy. Thấy trước cổng có nhiều người đứng sắp hàng.
Buổi sáng sớm hàng người đã có đó, buổi trưa hoặc chiều tan trường về, hàng người vẫn không vơi. Kiên nhẫn, không nao núng dưới cái nắng đổ lửa hay cơn mưa rào bất chợt.
Chẳng những không vơi, mà mỗi ngày hàng người càng dài thêm ra. Chúng tôi ngạc nhiên, không hiểu họ đứng xếp hàng trước toà đại sứ Mỹ để làm gì ?
Cũng qua bạn bè, nói họ đến làm thủ tục xin đi Mỹ, trước khi Mỹ rút hết về nước vì miền Nam sắp đổi chế độ rồi. Thật vậy sao ? Thật mà.
Tôi hỏi là bất cứ ai cũng có thể xin đi được ? Bạn cười ngất: nếu ai xin cũng được thì chắc gần hết dân Saigon đến đứng sắp hàng rồi cô bé.
Tôi tiu nghỉu. Ước gì mình đủ tiêu chuẩn, điều kiện để xin đi !
Ngày tháng 03.1975
Qui Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh ..lần lượt rơi vào tay đối phương. Tôi nghe càng lo lắng, sợ hãi. Nhưng cả trái tim lẫn tâm hồn tôi vẫn không chịu nhìn nhận thực tế đau buồn. Hy vọng chỉ là bị tạm chiếm mà thôi.
Ngày tháng 03.1975
Các giáo sư vẫn đến giảng đường đều đặn. Nhưng chúng tôi cảm nhận sự bất an trong bầu không khí, trong ánh mắt nét mặt của mọi SV. Nếu thấy từng nhóm tụm năm tụm ba châu đầu thì thầm to nhỏ, hoặc lang thang ngoài hành lang, trong sân, căn tin, thì không phải trao đổi về đề tài thi cử, mà bàn về thời sự là chánh.
Ngày tháng 03.1975
Hình như từ tháng 3 các rạp ciné SG bỗng đồng loạt tung ra màn ảnh toàn các đại tuyệt phẩm Pháp, Mỹ với các minh tinh gạo cội chiếm nhiều giải Oscars, đã từng chiếu trước đây khiến bọn học trò chúng tôi lao xao. Bây giờ gặp mặt không ai bàn chuyện ôn bài tới đâu rồi, mà toàn kháo nhau chuyện sắp mất nước, chuyện chiến sự miền Trung, chuyện rạp Rex, Vĩnh Lợi, Eden, Ðại Nam? chiếu phim gì trong tuần. Câu nói mà chúng tôi thường được nghe và chính mình cũng nói, là :
-Chúng mình lợi dụng đi xem cho đã, kẻo mai nầy không còn cơ hội để xem lại đâu.
Thế là chị em chúng tôi thay vì trung bình mỗi tuần đi ciné một lần, thì bây giờ cúp cua đều đặn, nhịn tiền quà mua vé xem 2, 3, có khi hơn tuỳ vào tuần lễ ấy có phim yêu thích, sợ sẽ thay phim khác . Ðồng thời còn được?ai đó dẫn đi nữa.
Ở các trường Khoa Học, Luật, Văn thì sinh viên không bắt buộc phải dự lớp, chỉ cần học qua sách, hoặc mượn cours bạn về chép lại là được.
Bây giờ thì ai còn lòng dạ nào mà học bài .
Ngày tháng 03.1975
Thay vì hỏi là đã viết xong bài tổng kết về tác phẩm Jane Eyre của nhà văn nữ người Anh Charlotte Bronte chưa để nộp thì đề tài trao đổi giữa các bạn trong những ngày này là :
- Sáng nay ở rạp A. chiếu Nữ Hoàng Cléopatre do Elizabeth Taylor đóng. Còn bên rạp B. thì Nữ Hoàng Áo Quốc Sissi do Romy Schneider đóng.
- Hôm trước xem lại Bác Sĩ Zhivago quá tuyệt vời, còn bên rạp C. thì chiếu Tình Thù Rực Nắng ( Summertime Killer ), bên nọ Một Chút Mặt Trời Trong Ly Nước Lạnh (Un peu de soleil dans l?eau froide )
Và còn một danh sách dài những phim bất hủ của thế kỷ 20 :
- Ivanhoe, Quo Vadis, Cuốn Theo Chiều Gió, Les Canons de Navarone, Nữ Hầu Tước Angélique, Vũ Ðiệu Trong Bóng Mờ, Chuyện Tình Roméo và Juliet, Love Story, Giai Ðiệu Hạnh Phúc ( La Mélodie du Bonheur )?nhiều nhiều nữa
Giống như tử tù trước giờ ra pháp trường được đặc ân ban bửa ăn tươm tất, hoặc thoả ý nguyện cuối cùng. Có lẽ các ông chủ rạp phim ý thức thời thế đã sắp đến hồi chuông báo tử, không còn nhẩn nha thay vì mỗi tuần đổi một phim mới thì họ tung ra cùng lúc nhiều bộ, nên chúng tôi phải chia sẻ tin tức rạp nào chiếu phim gì để còn sắp đặt thời gian và nhịn ăn quà mà hưởng chút giải trí tinh thần trước khi rơi vào con đường hầm tăm tối âm u.
Tôi không nhớ chính xác rạp nào chiếu phim gì, chỉ biết tất cả các rạp trung tâm SG đều mang hết những tinh hoa nghệ thuật thứ bảy tặng khán giả như lời cảm tạ sự trung thành bao năm, đồng thời biệt ly không hẹn ngày gặp lại.
Mở ngoặc : khoảng giữa năm 1980 trở về sau, khối Ðông Âu sụp đổ thì VN nới lõng ?chơỉvới tư bản, cho phép chiếu lại nhiều phim cũ. Vả lại, giờ qua internet ai cũng có thể xem thoải mái.
Ngày tháng 04.1975
Cuối tuần đến thăm bạn bên kia cầu Thị Nghè. Ðối diện nhà bạn, một phụ nữ độ 40 tuổi, dáng nhỏ nhắn khắc khổ đang thu dọn đồ đạc chất lên chiếc xích lô, vài người hàng xóm đứng tụ tập chung quanh, người cầm xoong nồi, người cầm thau đồng lủ khủ. Bạn kể chị là dân miền Trung vào ở trọ, làm lao công quét dọn vệ sinh cho toà Ðại Sứ Mỹ, giờ họ về nước chị được họ cho đi cùng, chị mang theo quần áo còn những gì bỏ lại chị chia cho người quen.
Lòng tôi nôn nao. Thèm thuồng, ao ước phải chi mình được thế chỗ chị.
Ngày tháng 04.1975
Vài ngày sau, bạn vào lớp kể tiếp : xéo nhà có anh sinh viên trọ mà thỉnh thoảng đến chơi với bạn chúng tôi thấy anh ngồi ngoài balcon đàn hát hoặc nghiêng người ra ngoài nói đùa với ai đó ở balcon đối diện. Tôi biết mặt vì gặp anh thường xuyên ở văn phòng Ban Chấp Hành SVÐH Văn Khoa mà anh là một thành viên. Anh đóng tiền nhà tháng kế, xong âm thầm lặng lẽ biến mất tăm không lời từ biệt. Họ còn đồn thổi anh làm việc cho Mỹ nên phải ra đi bằng mọi giá.
Thực hư thế nào không bao giờ ai biết.
Ngày tháng 04. 1975
Tôi không còn nghĩ chuyện ôn bài vở, mặc dù thỉnh thoảng vẫn tiếp tục vào trường chiếu lệ. Các cô gái bớt vẻ nhí nhảnh điệu đà quen thuộc. Các anh trai nét mặt nghiêm trang, ánh mắt lo âu. Không khí ngột ngạt bao trùm.
Hầu như ai cũng đều mang một tâm trạng như nhau : Rồi tương lai chúng mình về đâu ? Saigon nói riêng, miền Nam sẽ ra sao ?
Trường mỗi ngày mỗi thưa thớt SV. Nhiều người bỏ học về quê hay đi đâu chẳng rõ.
Số người đứng trước Ðại Sứ Quán Mỹ nay đã nhân lên thành nhiều hàng chứ không là một nữa. Mỗi lần ngang qua, trong tôi lại trỗi lên ước vọng phải chi mình được là một trong những người đứng sắp hàng ở đó.
Buổi chiều, nắng hạ bớt gay gắt. Mang một vẻ hiu hắt. Phải rồi, ?người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?. Trên đường đi học về đến ngã tư dừng xe trước đèn đỏ đoạn Bưu Ðiện và Nhà Thờ Ðức Bà, có một chiếc xe vespa xanh trờ tới đậu ngang xe chúng tôi. Hai người thanh niên không quen biết, chúng tôi thoáng nhìn nhau 1 giây, bỗng người ngồi sau bật thốt :
- Sắp mất nước rồi các em ơi.
Như tiếng kêu tuyệt vọng của loài chim giẫy chết. Nghe buồn não nuột.
Tôi chết sững, không biết nói gì để đáp lời anh.
Ðèn xanh bật lên, chúng tôi hoà vào dòng xe đưa mỗi người đi về một hướng. Tôi không nhớ rõ gương mặt người thanh niên, nhưng câu nói ấy, âm thanh ấy trong ánh tà dương dần lụi tắt vẫn hằn vang rõ trong ký ức tôi đến tận bây giờ.
Bởi đó cũng là tiếng kêu không lời của chính tôi. Anh đã nói giùm tôi hay giùm cho mấy mươi triệu đồng bào miền Nam những ngày cuối tháng tư đó vậy.
Một người hoàn toàn xa lạ, tình cờ chạm mặt nhau trong phút giây ngắn ngủi, chỉ cần một câu nói cũng khiến nhớ cả đời là vậy.
Ngày Tháng 04.1975
Một gia đình chỗ khu chúng tôi trọ, cách vài căn cũng đóng cửa bỏ đi.
Nữ chủ nhân là vũ sư dạy vũ khá tiếng tăm. Chồng là sĩ quan cao cấp.
Thảo nào chúng tôi thường thấy nhiều nam nữ ăn vận thanh lịch đến nhấn chuông. Có người ra kéo cánh cửa sắt vừa đủ cho xe và khách vào là vội đóng ngay, rất kín đáo. Chắc họ tôn trọng láng giềng, không để cho tiếng nhạc làm phiền chung quanh.
Hai ngày sau lại một gia đình khác ở cuối ngõ cũng lặng lẽ đóng cửa đi mất.
Ngày 26.04.1975
Tôi nói với chị và em gái, là hôm nay tôi sẽ về Rạch Sỏi thăm gia đình và kể cho ba má hay tình hình ở Saigon nguy ngập thế nào, dư luận bàn tán ra sao, và định thuyết phục ba má ra đi.
Khi chiếc xe đò đưa tôi về Rạch Sỏi thăm gia đình ngày 26.04.1975 tôi đâu ngờ đó là ngày cuối cùng tôi-được-sống-với-Saigon-của-tôi, còn được hít thở không khí Saigon-của-tôi, còn được nhìn thấy đường phố Saigon-của-tôi.
Thấy tôi về một mình, hoảng hốt kể lại những điều chứng kiến tận mắt ở Sg, ba má lo sợ nên kêu chị hai sáng hôm sau tức tốc lên Saigon thu xếp đồ đạc đón hai người còn mắc kẹt trên ấy về ngay không được nấn ná ngày nào nữa. Chị hai đi đến chiều tối thì quay về một mình, lý do là đường đi bị cắt đứt ở miệt Cai Lậy bởi có đánh nhau, đúng vào ngày hôm qua tôi về. Xe tôi đi, chạy trót lọt buổi sáng vẫn bình yên, nhưng đến trưa thì ?họ? tấn công, đạn pháo, mìn, súng? người chết nhiều lắm. Hú hồn, nếu hôm qua tôi đi chuyến xe trưa thì có lẽ tôi đã trúng đạn mà chết dọc đường rồi.
Tôi lấy mốc thời gian 26.04.1975, là ngày tôi chia tay Saigon làm ngày tưởng nhớ Saigon.
Sau ngày ấy, tôi có trở lại Sg nhiều lần. Nhưng không còn là Saigon VNCH mà tôi biết và yêu thương nữa.
Là ngày 26 chứ không là ngày 30. Bởi đó là ngày tôi rời Saigon về quê, tuần sau trở lại thì Saigon đã mang tên khác.
Nó dần dần thay da đổi thịt. Ðầu tiên là nhiều bóng dáng lạ, giọng nói lạ. Ngay cả với vài người mà tôi từng tưởng là bạn thì nay cũng bộ mặt đó nhưng sao lạ quắc lạnh lùng, ?nhìn nhau như thể nhìn người không quen?.
Theo thời gian, nhiều building, khách sạn cao ngất nghễu mọc lên. Nhiều nhà hàng, quán cà phê, karaoke, cửa hiệu quần áo thời trang mọc lên. Mỗi khi ngừng ở ngã tư đèn đỏ chỉ thấy một rừng người với nón bảo hiểm, áo màu nầy, quần màu nọ pha tạp đủ kiểu. Xe hơi lẫn moto chen chúc dầy đặc. Ồn ào, khói bụi.
Những cái thêm, cái mớỉ lạ lẫm với tôi quá.
Mà tôi thì chỉ khư khư tìm những "cái mất".
Ðâu rồi những trai thanh gái lịch, như thi sĩ Nguyên Sa ca tụng :
*Nắng Saigon anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Ðông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng ( Nguyên Sa )
*Saigon đi rất chậm buổi chiều
Cánh tay tà áo sát vòng eo
Có nghe đôi mắt vòng quanh áo
Năm ngón thơ buồn đứng ngó theo
( Tám Phố Saigon, Nguyên Sa )
Ðâu rồi những:
Trả lại em yêu, khung trời đại học
Con đường Duy Tân, cây dài bóng mát
Buổi chiều khuôn viên mây trời xanh ngát
Vết chân trên đường vẫn chưa phai nhạt
( Trả Lại Em Yêu, Phạm Duy )
Hỡi người tình học trò hỡi người tình năm xưa
Bóng người từng in dấu trên đường mờ?
..Con đường mộng hoa xưa vẫn từng đôi từng lứa
Con đường mộng mơ, con đường mặn mà
Hỡi người tình Văn khoa
Bóng người trên hè phố, lá đổ để đưa đường
Cho người tình Trưng Vương?
( Con Ðường Tình Ta Ði, Phạm Duy )
Nhớ quay quắt những lần theo người chị sang giảng đường trường luật dự thính bài. Nhớ lần ca sĩ Anh Khoa vào hội quán trường VK hát Bao Giờ Biết Tương Tư cho đám trẻ chúng tôi nghe. Khiến những tâm hồn vốn mộng mơ sẵn càng thêm đơm mơ kết mộng hơn nữa.
Ðường Duy Tân, đường Cường Ðể, Thống Nhất là những con đường quen thuộc của chị em tôi để vào lớp học. Bây giờ cả tên trường, tên đường cũng đổi thay.
Nhớ như in những ngày cuối tuần lượn lờ trên đường Lê Lợi vào quán sách Khai Trí. Nguyễn Huệ với rạp ciné Rex, sau mở thêm hai rạp mini Rex mà chúng tôi là khán giả trung thành. Ðường Tự Do, Nhà Thờ Ðức Bà với công trường Công Xã Paris dù tôi không có đạo nhưng thỉnh thoảng vẫn dự thánh lễ với bạn.
Vài quán kem trên những con đường đó đều có dấu chân tôi ghé qua.
Và còn nhiều nữa, hàng cây, góc phố, ngườỉ
Hỏi còn lại gì cho kỷ niệm tôi đây ?
Bây giờ có dịp về thăm nhà ở tỉnh, tôi cũng dừng chân "Saigon-bây giờ" vài hôm. Tôi như lạc lõng trong thành phố lạ. Không có gì vương vấn níu kéo tôi ở đó hết ngoại trừ người thân, và vài người bạn còn sót lại.
Tôi đã đắp nấm mồ chôn Saigon-của-tôi từ ngày 26.04 năm ấy !!!
April 2021
****
PHẦN 9
14.8.2020 . Chào bạn hiền! Lâu quá không gặp bạn, thấy nhớ. Hôm nay trông bạn có vẻ mập ra. Chắc là có gì vui? Mình cũng vậy, cũng vui, dù chưa trọn vẹn lắm. Cách đây vài phút, mình nhận được phone của luật sư N. Ông ấy cho mình biết, phía bên bị kiện xin thương thảo, có thể họ xin Tòa cho lập phiên hòa giải và xin mình đưa ra con số cụ thể về việc họ phải bù hoàn những thiệt thòi của mình. Ðồng thời luật sư N. cũng gởi cho mình bản sao hợp đồng mà mình đã ký cho đất và nhà để C T T Tr được sở hữu vào ngày 09 tháng 4 năm 2004. Ðiều đáng lưu ý ở đây là trên văn bản nầy vẫn còn nguyên bút tích của mình với dòng chữ như sau: ? Bên được hưởng có bổn phận phải phụng dưỡng chúng tôi cho đến cuối đời ?. Nhờ câu nầy mà C T T Tr đuối lý trong đơn khởi kiện của mình. Mình xin nhắc lại cho bạn nghe, từ khi ký giấy giao nhà và đất, C T T Tr không phụng dưỡng mình một ngày nào cả, mặc dù suốt mười mấy năm sau đó mình phải đi bệnh viện chữa bịnh tim liên miên, không ngày nào mà không uống thuốc, ngày 3 bữa như ăn cơm vậy. Mình vẫn còn lưu giữ toa thuốc của bác sĩ Viện tim TP Hồ Chí Minh cấp từ đó đến nay.
Sau khi trao đổi với luật sư N. xong, mình liền ngồi vào bàn viết để tính toán cho ra con số cần và hợp lý đặng giao cho luật sư N. Con số nầy là con số của mình yêu cầu bên bị kiện phải đáp ứng trong việc bù hoàn thiệt thòi cho mình. Mình đã tính toán cụ thể và đã viết Email gởi luật sư N. Mình gởi nguyên văn nội dung Mail cho bạn xem nhé !
Thân gởi luật sư N.
Sáng nay nghe phone của luật sư, tôi rất vui. Vậy sau đây tôi đưa ra 2 phương án để giải quyết vấn đề thương lượng của bên bị kiện.
PHƯƠNG ÁN 1 . Giấy hợp đồng có điều kiện giao bất động sản cho C T T Tr và H Q Th. được ký vào ngày 09 tháng 6 năm 2004. Như vậy tính đến hết ngày 09 tháng 6 năm 2020 là được 16 năm. Quy ra tháng là: ( 16X12 ) = 192 tháng.
Mỗi tháng tiền chi phí thuốc men do bịnh hoạn tim mạch mãn tính của tôi và tiền cơm áo lên tới 15.000.000 đồng VN. Nếu tính trong 192 tháng thì số tiền là: ( 192 X 15.000.000 ) = 2.880.000.000$. Số tiền nầy xem như tiền phụng dưỡng mà C T T Tr có trách nhiệm phải bù hoàn. Ngoài ra, cơ sở bất động sản của tôi đã được nêu trong đơn khởi kiện, hiện tại vợ chồng C T T Tr vẫn đang sử dụng, như vậy sau ngày 09 tháng 6 năm 2020 cho đến khi tôi chết. Tôi lấy mốc thời gian cụ thể là năm 2040, C T T Tr cũng phải có bổn phận chi trả cho tôi mỗi tháng là 15.000.000$ VN. Như vậy, tính từ năm 2020 đến năm 2040 là 20 năm, quy ra tháng là: ( 12 tháng X 20 năm ) = 240 tháng. Quy ra tiền là:
( 240X 15.000.000$ ) = 3.600.000.000$ .
Tổng cọng, C T T Tr và H Q Th. phải bù hoàn cho tôi để được sở hữu vĩnh viễn lô bất động sản đã nêu trong Ðơn Khởi Kiện của tôi là:
2.880.000.000 + 3.600.000.000 = 6.480.000.000 ( 6 tỷ 480.000.000 triệu đồng )
PHƯƠNG ÁN 2. Cơ sở bất động sản đã nêu trong đơn khởi kiện của tôi xin được rao bán đấu giá công khai và tổng số tiền bán được sẽ chia đều cho hai bên. Mỗi bên được hưởng một nửa ( ½ ).
Tôi chỉ nêu ra ý kiến như vậy. Nhờ luật sư làm việc cụ thể với bên bị kiện như ý của tôi, giúp tôi.
Xin thành thật cám ơn luật sư
Trân trọng
Nguyễn Văn Thơ.
? Nhờ luật sư giải thích cặn kẽ về từ Phụng Dưỡng cho vợ chồng C T T Tr biết. Phụng Dưỡng có nghĩa rất rộng, chứ không phải cho ăn cho mặc là đủ.
17.8.2020 . Sáng nay luật sư N. có gọi phone cho mình để báo cho mình biết, đã gởi qua zalo cho mình giấy thông báo cùa thẩm phán V T L - Tòa án huyện Ðơn Dương - rằng phải đóng tiếp 20 triệu đồng VN, tiền tạm ứng thuê Công Ty thẩm định giá cho lô bất động sản nằm trong đơn khởi kiện của mình. Như vậy, lại phải lo nữa rồi. Lại tiền?tiền? Buồn thật !
19.8.2020 . Tối hôm qua mình đã chuyển qua Zalo cho cô học trò cũ xem bản thông báo của Tòa án huyện Ðơn Dương về việc mình phải đóng thêm 20 triệu đồng để thuê Công Ty thẩm định giá, đặng họ tới thẩm định lô bất động sản của mình. Mình cũng hy vọng sau khi xem, cô sẽ vững tin và cho mình mượn tiếp 20 triệu để đáp ứng kịp thời thông báo của Tòa án. Mình cũng đề cập thẳng với cô ấy là mình chịu lãi xuất tương đối cao. Mình đồng ý mượn 20 triệu trong vòng 2 tháng, sẽ trả thành 50 triệu. Ðây là tỷ lệ lãi thấp nhất từ lúc khởi kiện cho đến nay mà mình phải chịu. Xin bạn nghe thôi nhé, đừng có cảm giác gì. Phải vậy thôi, không ai cho mượn khơi khơi đâu, dù là bạn thân nếu họ không nắm được cơ bản vị trí của bạn. Mình dám khẳng định như vậy vì mình đã gặp thực trạng nầy nhiều rồi. Mình biết bạn đang đau lòng, nhưng nếu bạn biết sau khi Trời, Phật thương cho mình thắng kiện, bạn còn đau lòng hơn nữa. Vì sao ư? Vì mình phải trả 1/4 số tiền mình nhận được sau khi thi hành án. Nói trắng ra, trước đây mình đã mượn 100 triệu đồng của người ta để đóng tiền hợp đồng với luật sư N. trong vụ khởi kiện nầy rồi. Nếu sau nầy mình thắng kiện, mình nhận được bao nhiêu thì phải trả cho người mình đã mượn 1/4 số tiền đó. Có nghĩa là, nếu nhận được 4 tỷ thì phải trả cho người mình đã mượn 1 tỷ. Nhưng thôi, bạn đừng buồn. Ðây là tỷ lệ chính mình đưa ra, không phải họ. Mà nếu không đưa tỷ lệ cao như vậy, thì không ai cho mượn cả. Bạn cứ tin đi, đời còn nhiều trường hợp cay đắng hơn thế, chua chát hơn thế.
20.8.2020 . Ðêm rồi mình ngủ ngon giấc, chắc có lẽ do tâm lý thoải mái. Mặc dù mình vẫn còn đang lo chạy mượn 20 triệu đồng để kịp đóng cho Tòa án, nhưng mình biết chắc chắn sẽ có, vì mình chịu lãi suất cao. Do vậy, mình không suy nghĩ nhiều như những lần trước. Hơn thế, mình rất vui khi mình nghĩ đến 2 phương án mình đã đưa ra cho bên bị kiện lựa chọn. Phương án nào mình cũng tâm đắc cả. Mình biết bây giờ bên bị kiện đang nhức đầu với 2 phương án nầy. Theo mình nghĩ, phương án 2, họ sẽ không dám chọn. Bởi lẽ, nếu tiến hành phương án 2 thì có khả năng họ không thể sở hữu được lô nhà và đất hiện có. Như thế, có khả năng họ sẽ chọn phương án 1, mà chọn với tư thế ra sao thì còn phải chờ mới biết được. Thói thường, lòng người hay có túi tham vô đáy, của cải không phải của mình nhưng vẫn không chịu buông. Vậy nên trong trường hợp nầy sẽ có kÌ kèo con số mà mình đã đưa ra. Nhưng mình thì đã dứt khoát trong đầu rồi, không đồng ý xê dịch con số.
Mình nghĩ, mình sống với BX Cao Thị Lan từ năm 1976 đến năm 2018, như vậy là 42 năm, ngọt bùi cay đắng đều nếm trải. Ðã từng nhiều lần mình phải lót chiếu dưới gầm giường bịnh viện để ngủ khi đi nuôi bịnh cho bả tại các bịnh viện Sài Gòn. Ngoài ra, công sức và tiền của mình bỏ ra để xây dựng lên cơ ngơi nầy là không nhỏ.Còn C T T Tr thì sao? Không làm gì cả. Chỉ bắt đầu động tay động chân từ khi được giao nhà và đất vào năm 2004 như đã nêu trên. Như vậy, được hưởng một nửa gia sản là ưu tiên lắm rồi. Còn đòi hỏi gì nữa? Mình nghĩ, cách giải quyết vụ án khởi kiện của mình có phần ưu ái cho CTTTr. Lý do:
1/. Nếu dựa vào bản giấy ủy quyền giao tài sản cho C T T Tr của Cao Thi Lan, ký vào năm 2002 thì giấy ủy quyền nầy hoàn toàn không có giá trị pháp lý. Bởi lẽ, bản giấy ủy quyền nầy không có cơ quan công chứng thị thực. Càng không có giá trị vì không có chữ ký của mình.
2/. Nếu dựa vào biên bản hợp đồng sang tên cho C T T Tr do mình và Cao Thị Lan ký vào năm 2004 thì lại sai nguyên tắc xử lý. Bởi lẽ, đây là bản hợp đồng có điều kiện. Ðiều kiện: C T T Tr có bổn phận phải phụng dưỡng mình cho đến cuối đời. Nhưng trên thực tế thì mình không có được sự phụng dưỡng đó. Vì vậy, mục yêu cầu chính của mình trong đơn khởi kiện là: hủy hợp đồng sang tên cho C T T Tr.
Theo mình, trong hai trường hợp nêu trên, nếu xử đúng lý, C T T Tr sẽ không được quyền lợi gì cả trong vụ kiện nầy, hay có được, cũng rất hạn chế. Như vậy bạn thấy đấy,C T T Tr rõ ràng được ưu ái?
21.8.2020 . Mình không hiểu sao hồi hôm mình khó ngủ quá. Mình thức dậy thật sớm, mới 2h30 sáng mình đã dậy rồi. Hôm qua, mình thấy mọi việc gần như đã ổn mà, cũng đã gởi tiền 20 triệu để đóng cho Tòa án về luật sư N, rồi. Thế tại sao trong đêm cứ trằn trọc mãi? Hay là tại mình bức xúc việc C T T Tr được ưu ái quá chăng? Ngồi không, chỉ động móng tay một tí thôi, mà được hưởng cả nửa gia tài. Trong khi mình, cả một đời cật lực lao động, chịu biết bao khổ não với BX Cao Thị Lan cũng chỉ hưởng một nửa. Của cải chính bàn tay lao động mình làm ra, bây giờ lại phải chia hai cho C T T Tr. Ðắng cay thật ! May mà mình có đầy đủ giầy tờ hợp pháp để chứng minh, nếu không sẽ bị mất trắng. Ðang xót trong lòng nên trút hết tâm sự với bạn vậy, tuy nhiên, cũng phải chờ - chờ sự công minh của luật pháp Tòa án huyện Ðơn Dương nữa bạn à. Dẫu sao, mình cũng quyết tâm đi đến đỉnh điểm của sự công bằng, bởi chân lý bao giờ cũng chỉ có một.
( Còn tiếp )
****
Trời tháng sáu mưa rơi rả rích
Tiếng ếch kêu chật ních trong hang
Dân làng tay xách nách mang
Soi đèn đi kiếm tiếng khàn nơi đâu
*
Ếch ọp ẹp cất cao cổ họng
Dòng âm thanh xao động xóm làng
Rúc ra rúc rích cười vang
Nhanh tay bắt ếch chiên vàng, xào lăn
*
Cà ri, sả, nước dừa béo ngậy
Mùi thơm ngon vang dậy góc trời
Ðêm đen bì bõm tìm nơi
Tiếng kêu bì bọp ới ơi giữa đồng
*
Nhắc tới ếch chợt lòng hoài nhớ
Quê Ngoại trong tiềm thức chưa quên
Miệt vườn gạo trắng dẻo thơm
Bếp hồng bùng cháy lửa rơm, cơm chiều
Trên chương trình tivi của các đầu bếp vang tiếng, hai người thi đấu nấu ăn. Ai có thể chế biến thịt ếch với hương vị do chính mình tự pha nếm. Tôi giật mình khi ông chủ xị đưa ra một món mà cả hai ứng viên phải tranh tài cao thấp. Ôi chao ơi, đó là thịt ếch.
Tôi thầm thắc mắc, như vậy món ếch xào sả ớt đã đi vào bao tử của người ngoại quốc từ bao giờ rồi nhỉ ? Món ăn này quá quen thuộc với quê Ngoại của tôi từ khi tôi còn là con bé có khuôn mặt tròn vo với mái tóc bum bê đen tuyền. Thuở xa xưa ấy cho tôi nhiều dấu yêu êm đềm.
Mảnh đời ấu thơ chợt quay lại thước phim kỷ niệm của những mùa hè bình yên xa xưa mà tôi được về miệt vườn xanh bát ngát ruộng lúa. Cánh đồng mạ non giao động sóng sánh ánh bàng bạc, khi ngọn gió hương đồng cỏ nội lượn khúc chạy dài tới cuối chân mây. Miền quê thôn dã mộc mạc làm sao ấy ! Vạt nắng ráng chiều thoa nét chân chất ngọt ngào. Ôi, sao hiền từ và duyên dáng quá !
Tôi mải mê nhìn quanh nhìn quẩn chỉ toàn là thảm lúa mịn màng đương sức lớn. Thời gian bay nhưng chưa đủ ươm chín cọng lúa hồn nhiên lớn dần theo hơi thở ngoan hiền. Ðến một ngày vươn cao vóc ngọn, nhánh gầy sai oằn nghiêng ngả, gục đầu đeo mang hạt lúa vàng thơm tho do trời cao ban tặng. Quê xưa luôn in hằn biết bao nỗi nhớ trĩu oằn trong tâm tưởng của tôi. Thuở đất nước chưa rẽ khúc không ngờ.
***
Tôi mãi nhớ, một đêm khuya khoắc, đang nằm ngủ trên bộ ván gõ. Bỗng tiếng lao xao xầm xì của chú bác rủ nhau đi soi ếch. Người nào xách thùng, người nào cầm cây đèn bão (Ðèn dầu hỏa có quai xách và thiết bị chắn gió, chịu được gió mạnh) đi trước soi rọi, tìm kiếm ổ hang. Nơi nào phát ra tiếng ríu rít của mấy chú ếch đang đồng thanh hòa tấu bài nhạc du dương với giọng ca oanh vàng lảnh lót của mình.
Ơi hỡi chú ếch ngây thơ nào có biết ! Chính cái tánh ham vui của mình đang vẽ vời cái bẫy rọ. Và đây là lợi thế, giúp chân người khám phá món thịt dẻo dai, thơm ngon tuyệt hảo.
Thịt ếch có thể chế biến thành nhiều món ăn ngon như ếch xào sả ớt, cháo ếch, lẩu ếch, ếch xào lăn,? Thịt ếch không chỉ ngon mà còn có nhiều lợi ích tốt cho sức khoẻ, chứa nhiều dưỡng chất. Ngoài ra, theo đông y thì thịt ếch còn có nhiều tác dụng chữa bệnh.
&&&
Bạch Liên
Vỏ Ốc
Bầy ốc an nhiên ngâm mình trong làn nước thơm tho rong rêu, đầy cỏ hoang dại. Nơi đây thường là góc trời bình yên nên Ốc ít khi nào lao xao trong sân đời bấn loạn. Nếu luồng gió vi vu thổi qua làm giao động mặt nước êm đềm, thì bầy ốc tự động co đầu rút cổ những lúc gặp nguy hiểm. Toàn thân mềm mại tự động chui vô cái vỏ cứng cáp khi cảm thấy an toàn.
Ðộng tác bén nhạy thích nghi với hoàn cảnh, chỉ có mục đích thiết thực là che chở cho mạng sống của chính mình. Ðây là chiếc áo vôi kệch cỡm với nhiều hình thù tròn láng, xoắn vòng, khác nhau, không khác gì là mái nhà rắn chắc, là nơi trú ẩn, nghỉ ngơi mong tìm giây phút an thân. Nhất là sau những giờ phút nhọc nhằn, bôn ba đi kiếm thức ăn.
Ốc không muốn mình bị trôi giạt về cuối dòng sông đời vẩn đục. Khi nước lắng đọng trong ao hồ, ít khi trong lành. Nước không xoay dòng lưu chảy thường bị nhiễm độc. Ðàn ốc sẽ bị xanh xao, chết dần mòn. Tan xác!
Phải chăng con người cũng cần vỏ ốc
để sinh tồn trong biển đời đắng cay
thiện tâm bộc phát trên đầu ngón tay
Nhưng, đầy lọc lừa và điều gian ác ?
Muốn an thân, ta tìm nơi vắng vẻ
Nước trong xanh, cây cỏ sống ngoan hiền
Trăng ru đêm, là nơi chốn bình yên
Nhiều ốc bạn quây quần, không đơn lẻ
Cậu Ông Trời
Cậu Cóc trú ẩn trong hang nhỏ thấp hơn mặt đất, là góc kín do các tảng đá nương tựa, chồng chéo lên nhau, là hốc đá tăm tối trong thinh lặng. Ngày nắng nóng thì nhảy ra tìm mồi. Chuồn chuồn, ruồi nhặng, kiến đen, châu chấủCóc tìm về ao hồ để sanh nòng nọc truyền giống. Cỏ hoang um tùm là nơi Cậu Cóc nhà ta thường lui tới. Ðôi khi lá cỏ ấm ướt sanh ra trơn trợt, Cậu Cóc sa chân, bị té lọt xuống giếng sâu.
Thế là Cậu Ông Trời mắc kẹt dưới đáy lõm, mà lòng buồn vời vợi vì khó có cơ hội trở lại mặt đất rộng rãi - Khung trời thênh thang, nơi mình có thể tìm mồi, tung tăng nhảy phóng. Từ ngày chơi vơi, đơn độc một mình dưới đáy giếng, Cậu Cóc không còn nhìn thấy sân đời lao xao. Bể khổ giăng mắc hỷ nộ ái lạc. Một ngày mây hồng bềnh bồng rủ rê vạt nắng ong mật, lượn lờ bay qua miệng giếng. Vài sợi tơ vàng quyến rũ soi rọi xuống hố khô.
Cậu Cóc vui mừng nhìn lên bầu trời xanh lơ, hoài nhớ nhung quãng đời rong ruổi. Trong lòng tiếc nuối ngày sum họp, mình được đoàn tụ, trở về với đời sống xưa cũ, gặp lại bạn bè ở ao hồ nào đó... Buồn ơi ! Nay chỉ còn mình ta hẩm hiu ngồi ru đêm.
Ôi, lỗi tại ta quá ơ hờ sa chân, say mê miếng mồi thơm ngon, mới ra nông nỗi hôm nay !!!
Một phút sa chân
Lỡ lầm, hại thân
Ðời trợt muôn dặm
Hối hận ngàn lần
*
NGƯỜI DƯNG
Ðã mòn con mắt lá răm
Lời yêu còn ở ngã năm chửa về
Sập sùi sũng ướt triền đê
Khạo khờ mãi nhuộm câu thề người dưng
Hội làng thì đã lưng chừng
Người dưng ơi hỡi...
Người dưng
Chả về.
*.
Hà Nội, ngày 09 tháng 02.2017
ÐẶNG XUÂN XUYẾN
LỜI BÌNH
Trong không khí của một quần thể con người hỗn loạn, hoang mang, hung bạo đang tràn ngập trong mùa lễ hội ở nhiều nơi trên miền Bắc, mà người ta đi dự lễ hội, đi đến các chùa chiền, đền thờ để vụ lợi với hy vọng đến đấy sẽ được buôn may, bán đắt, sẽ được thăng quan tiến chức, trở nên giàu có..., bỗng nghe trong gió từ đâu đưa lại một hơi thở dài buồn trách:
Hội làng thì đã lưng chừng
Người dưng ơi hỡi...
Người dưng
Chả về
Phải là hội làng với đúng nghĩa là sinh hoạt văn hoá dân gian của cư dân địa phương ở một quy mô nhỏ vào tháng Giêng đến hội, người dân nô nức tham dự nhưng rất đẹp chữ lễ chứ không phải là lễ hội với những cảnh chen lấn, giành giật, giẫm đạp lên nhau có cả máu người và máu các con vật như trâu bị treo cổ cho đến chết, lợn bị chém giữa sân đình?, ta mới có thể nghe được hơi thở nhẹ buồn trách đó.
Ấy là hơi thở nhẹ của một cô gái quê trong bài thơ NGƯỜI DƯNG của nhà thơ Ðặng Xuân Xuyến. Và nghe xong tiếng thở ấy, ta như nhìn thấy cô gái đang trong đám hội nhưng không đứng trong đám đông dân làng mà đứng lẻ ra mé ngoài, ngóng mắt về phía đường xa mong đợi và mong đợi đến độ:
Ðã mòn con mắt lá răm
Một cô gái quê xinh đẹp đúng như ca dao từng ca tụng: ?Ðàn bà con mắt lá răm/ Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền? mà thời nay dẫu có đốt cả trăm bó đuốc soi vào cả ngàn tiệm spa làm đẹp cho phụ nữ cũng không dễ gì tìm được một người.
Ðôi mắt đẹp quý hiếm ấy ?đã mòn? vì sao? Chỉ là vì:
Lời yêu còn ở ngã năm chửa về
Thật tội nghiệp! Bởi lẽ, thói thường, khi gặp ngã ba đường người ta đã phải phân vân tìm cách nên lựa chọn ngả nào? Vậy mà lời yêu con mắt lá răm ngóng đợi lại đang ở ngã năm, chỗ con đường đi ra năm ngả; có thể ngã năm ấy không còn xa hội làng lắm nhưng biết đi ngả nào cho đúng hướng đây? Chính vì thế, đâu chỉ mình cái lời yêu đó phải phân vân tìm lối mà cả cô gái quê cũng đang bồn chồn lo lắng, liệu lời yêu có chọn đúng ngã rẽ để về hay sẽ đi lạc lối để uổng phí một hội làng, phí hoài một ngày xuân tươi đẹp. Vì thế con mắt lá răm không chỉ đã mòn vì mong đợi mà còn:
Sập sùi sũng ướt triền đê
Người đời thường dùng từ hạt lệ để nói về nước mắt. Thiên tài Nguyễn Du trong Truyện Kiều thì tài hoa phong phú hơn nhiều: hạt châu, giọt ngọc, giọt tương, giọt riêng, mạch tương.
Và để diễn tả mức độ khóc, người đời thường ví von khóc như mưa:
Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa
Hay ví cụ thể hơn ?như mưa tháng mườỉ:
Anh về em chẳng dám đưa,
Hai hàng nước mắt như mưa tháng mười.
Cũng có khi nói ?khóc đỏ lòm con ngươỉ:
Phù sa nước đục khó dòm,
Nhớ anh em khóc đỏ lòm con ngươi
Làn thu thủy của nàng Kiều ?nghiêng nước nghiêng thành? đã đẹp lại đẹp hơn lên khi khóc bởi những từ ngữ như đầm đầm châu sa, châu sa vắn dài, giọt ngọc như chan:
Lòng đâu sẵn nỗi thương tâm
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sạ/
Lại cùng ủ dột nét hoa
Sầu tuôn dứt nối châu sa vắn dài".
Nàng càng giọt ngọc như chan,
Nỗi lòng luống những bàn hoàn niềm tây"/.
Trong NGƯỜI DƯNG của Ðặng Xuân Xuyến thì nước mắt của con mắt lá răm được diễn tả mộc mạc như ta đã thấy:
Sập sùi sũng ướt triền đê
Một hình ảnh rất sáng tạo của nhà thơ hiện đại nhưng vẫn giữ được chất quê mùa bình dị rất gần gũi với người dân đồng ruộng mà không kém phần sâu sắc.
Triền đê là dải đất thoai thoải của con đê ở hai bên bờ sông. Khi mưa, nước thường từ trên trời rơi xuống mặt đê rồi trôi theo triền đê xuống tràn vào bờ bãi hay chảy hòa vào nước dòng sông cùng tuôn ra biển cả. Triền đê đâu phải là chỗ trũng để nước mưa dễ bề đọng lại. Vậy mà nước mắt của cô gái ướt sũng triền đê chứng tỏ triền đê đã bị thấm nhiều quá, lâu quá bởi những dòng lệ của con mắt lá răm.
Vậy vì sao con mắt lá răm, con mắt biết nói, biết cười mà ai trót nhìn vào sẽ đắm say, quyến luyến chẳng muốn rờì ấy đã mòn vì ngóng đợi lại khóc đến ướt sũng cả triền đê? Ðây là câu thơ cắt nghĩa nguyên do nông nỗi ấy:
Khạo khờ mãi nhuộm câu thề người dưng
Chỉ là một câu thề của một người dưng nhưng cô gái đã khạo khờ nhuộm nó vào lòng và thời gian đã trôi qua nhưng không hề phai nhạt.
Người dưng hay người dưng nước lã, chỉ người không có máu mủ ruột rà thân tộc nội ngoại gì với mình mà nó tự nhiên như nước mưa, nước giếng. Nhưng sao cái người dưng kia lại nhuộm được câu thề trong lòng cô gái? Chỉ có thể nói đó là một người dưng quá đặc biệt, nếu không nói là người đã biết nhau từ kiếp trước thì ít nhất cũng là người đã biết nhau từ hội làng năm cũ. Cái người dưng quá đặc biệt ấy đã lọt vào ?con mắt lá răm?, đã cho cô gái lời yêu, mách bảo trái tim cô gái một điều gì đó rất linh diệu khiến nỗi lòng cô hằng nhớ và đời sống tâm hồn tình cảm của cô đã bị xao động:
Cơm ăn nửa chén lưng lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này?
Và vì thế, hội làng năm nay, cô mới phải hoài công ngóng đợi lời yêu và cái người dưng kia.
Qúy con mắt lá răm đáng trăm quan tiền của cô gái quê trong thơ Ðặng xuân Xuyến, tôi bỗng nhớ tới cô gái trong khung cửi nổi tiếng từ hơn 80 năm trước trong thơ Nguyễn Bính. Cũng hội chèo làng Ðặng ở thôn Ðoài. Một cô gái nông thôn trẻ trung xinh đẹp đội mưa bụi đi hội nhưng không phải để xem mà chính là để tìm gặp người yêu:
Thôn Ðoài vào đám hát thâu đêm
Em mải tìm anh chả thiết xem ?
Và cũng thật tội nghiệp cho cô, tìm anh suốt một đêm thâu để rồi:
Chờ mãi anh sang anh chả sang
Thế mà hôm nọ hát bên làng
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn
Ðể cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!
Thương con mắt lá răm đã khóc ướt sũng triền đê, tôi lại nhớ đến người thiếu phụ mòn mỏi chờ bóng tình quân bài thơ Mòn Mỏi của Thanh Tịnh ngang thời Nguyễn Bính. Bài thơ được phóng tác theo truyện "Barbe bleue" của nhà văn Pháp Charles Perrault chìm ngập nỗi buồn. Người thiếu phụ xinh đẹp ngồi bên trong bức rèm, dệt vải. Còn em gái nàng thì ngồi ở gian ngoài, ngóng ra ngoài đường, chờ đợi. Ngôi nhà bé nhỏ nằm dưới thung lũng cũng cô đơn lặng lẽ như hai chị em họ. Sau bao lần tưởng như trông thấy tình quân với con ngựa hồng đang đến gần cùng với tiếng gọi của chàng trong tiếng ngựa hí, tiếng nhạc ngựa vang reo, người thiếu phụ nhờ em gái nhẹ cuốn bức rèm tơ lên xem có phải đúng thế không để rồi chỉ nhận được những câu trả lời cuả em gái: khi thì "Chị ơi em thấy một cây liễu buồn", khi thì: ?Bên rừng ngọn gió rung câỷ, khi thì ?Sóng chiều đùa chiếc thuyền nan? và "Chị ơi con nhạn lạc bầy kêu sương" hay "Chị ơi con sáo gọi ngàn bên sông".
Nhưng khi bất chợt nghe em gái nói như reo lên:
Ô kìa! Bên cõi trời đông
Ngựa ai còn ruổi dặm hồng xa xa
Thì nàng thiếu phụ bỗng lo lắng bảo em gái:
Nhẹ nhàng em sẽ buông rèm xuống,
Chị sợ trong sương bóng ngựa chìm.
Và rồi kết cục:
Ngựa hồng đã đến bên hiên
Chị ơi, trên ngựa chiếc yên vắng người
Sự bất ngờ của hình ảnh chiếc yên ngựa vắng người đã khiến bao người yêu thơ muốn vỡ tim vì buồn thảm.
Tôi vô cùng yêu thích hai bài thơ diễm tình: MƯA XUÂN của Nguyễn Bính và MÒN MỎI của Thanh Tịnh, rất quý mến tấm tình của cô gái trong khung cửi tìm người yêu, rất cảm thương người thiếu phụ xinh đẹp đã mòn mỏi mong đợi tình quân từng giây từng phút để rồi tan nát cõi lòng trong tuyệt vọng. Nhưng tôi không muốn cô gái có con mắt lá răm trong thơ Ðặng Xuân Xuyến phải cam phận như hai số phận ấy. Theo kinh nghiệm người đời: Người có đôi mắt lá răm thường sắc sảo đa tình và rất thủy chung nhưng cũng luôn nhuốm chút u buồn, sâu lắng. Nhưng tôi không muốn con mắt lá răm ấy trong thơ Ðặng Xuân Xuyến sẽ phải buồn tủi tê tái như cô gái trong khung cửi ?Ðể cả mùa Xuân cũng nhỡ nhàng?, lại càng không muốn con mắt lá răm ấy phải vận vào người nỗi mòn mỏi tuyệt vọng như người thiếu phụ trong thơ Thanh Tịnh.
Bài thơ NGƯỜI DƯNG của Ðặng Xuân Xuyến rất ngắn, hai khổ nhưng cả thảy chỉ có 6 câu mà trong đó có tới 5 câu thơ buồn. Chỉ còn lại một câu:
Hội làng thì đã lưng chừng
Câu thơ tả thời gian, nhưng cũng diễn tả tâm trạng ?sốt ruột?, đã xuất hiện sự ?buồn nản? trong chờ đợi ?người dưng? của ?con mắt lá dăm?. Tuy không buồn như 5 câu thơ kia, nhưng câu thơ cũng gieo vào lòng người tâm trạng se buồn.
Hội làng thì đã lưng chừng, là khoảng thời gian đã đi qua những màn diễn chính của lễ hội và đang nhích dần về nửa sau, về những màn cuối, để khép lại hội làng, nghĩa là vẫn còn thì giờ để ngóng đợi ?người dưng? nhưng hy vọng đã không còn nhiều, ngày một thu hẹp, rút ngắn.
Bài thơ khép lại với tiếng thở dài, tê tái:
Người dưng ơi hỡi...
Người dưng
Chả về.
Tôi không muốn cô gái có con mắt lá răm trong thơ Ðặng Xuân Xuyến phải cam phận như vậy. Vì thế, nghĩ cho cô gái, tôi nghe như trong gió từ hội làng tiếng ai đó đang hát:
Bèo dạt mây trôi, chốn xa xôi,
Anh ơi, em vẫn đợỉ
Cô gái con mắt lá răm ơi, cô có nghe thấy tiếng hát đó không?
Nếu nghe được thì xin cô hãy cùng tôi tin rằng, sau tiếng hát ấy, lời yêu của cô ở ngã năm sẽ tìm ra lối rẽ đúng và kịp về với cô, người dưng chưa về sẽ kịp đến bên cô. Hãy vững tin đi, ?con mắt lá răm? xinh đẹp đa tình nhưng chung thủy nhé! Bởi gọi cái người gọi là người dưng đó đâu phải là người xa lạ, nếu không nói là đã gặp nhau trong tiền kiếp thì cũng đã biết mặt nhau, đã nghe lời yêu của nhau, đã nhận câu thề với nhau và đã nhuộm câu thề đó trong trái tim từ buổi còn khạo khờ. Nhất định người dưng ấy sẽ về hội làng để ?lên ngôỉ thành người nghĩa, người tình của cô và sẽ cùng cô ?đơm hoa kết tráỉ thành hạnh phúc lứa đôi!
VĨ THANH:
Khép lại bài thơ Người Dưng, không hiểu sao tôi lại có cảm giác, hơi thở dài của cô gái mắt lá răm cũng chính là hơi thở dài của nhà thơ Ðặng Xuân Xuyến. Hình như nhà thơ cũng đang trong Hội làng và cũng đang để trái tim se buồn, bâng khuâng ngóng đợi một lời yêu của một người dưng nhưng cũng không phải là một người xa lạ mà là một người đặc biệt như đã cùng nhà thơ biết nhau trong tiền kiếp. Nếu đúng vậy, tôi chúc nhà thơ sẽ mau chóng đón nhận lời yêu ấy, có thể không phải là đang ở ngã năm mà ở một ngã bẩy sẽ về.
*
Sài Gòn 19 tháng 03/2017
(Tuỳ Bút , nhân dịp Father's Day 2021)
1- Ngày xưa ấy, chiến tranh Pháp, Việt bùng nổ
Vùng quê tôi bom đạn lửa tơi bời
Năm 1945 Việt-minh khởi động toàn quốc kháng chiến chống Pháp. Hầu hết các vùng quê chịu 2 ảnh hưởng: một của chính quyền thời Pháp thuộc, một của Cộng-sản Việt-minh vừa nổi lên cướp chính quyền lãnh đạo bởi chính phủ Trần-trọng-Kim của nước Việt Nam độc lập.
Giữa thời buổi vàng thau lẫn lộn đó, dân làng quê phải treo cờ đỏ sao vàng, treo ảnh HCM, hát Tiến-quân-ca, gia nhập các đoàn thể thanh thiếu niên, đóng góp tài sản... Phía Pháp, thỉnh thoảng mở cuộc hành quân càn quét, tảo thanh dân quân Việt-minh, dội bom, nã trái phá. Gia đình tôi phải tản cư nay đây mai đó, thường phải chia thành nhóm nhỏ, kẻ theo cha, người theo mẹ, đứa ở riêng. Hoàn cảnh tang thương của cuộc chiến đã cướp đi của tôi một người anh, mới 16 tuổi. Lúc đó tôi đang tạm trú ở một nơi xa nên không được nhìn mặt anh lần cuối. Còn cha tôi bắt đầu sa sút hẳn về tinh thần cũng như thể xác.
2- Viết về Cha, nguồn thi ca không bao giờ cạn
Bởi tình Cha, như lòng Mẹ, thật bao la
Riêng tôi viết về Cha, không phải bằng nước mắt
Nhưng bằng suy tư về mấy việc lớn Cha làm
Thực vậy, những công việc của cha tôi khởi đầu như việc của một nhà giáo bình thường dưới thời Pháp thuộc. Ngày nay cầm trong tay cuốn L'image de L'Indochine in ấn màu nâu khổ lớn vào khoảng đầu những năm 1900, một trong số mấy trồng sách thuộc giải thưởng Xuất-sắc trường Sư-phạm Hà-nội phát cho cha tôi, tôi được nhìn thấy rất nhiều hình ảnh đẹp về cuộc sống yên bình của 3 miền nước Việt thân yêu cùng 2 xứ Lào và Cambodge hàng thế kỷ trước. Dù hấp thụ nền văn hoá Pháp, cha tôi không ưa gì Thực dân Pháp, trái lại chỉ ngưỡng mộ những nhà chí sĩ như Phan-bội-Châu, Phan-chu-Trinh, Nguyễn-thái-Học...cả Lương-khải-Siêu (tác giả cuốn Trung-Quốc-Hồn mà cha tôi đã dịch và xuất bản vào trước 1945). Cho nên đáng lẽ được ưu tiên dạy học ở ngay Hà-nội, thì chỉ vì ngay thẳng phản đối tên Thanh tra Học chánh Pháp về một vấn đề giáo dục mà cha tôi bị bổ dụng đi dạy học tận vùng thượng du nước độc Nghĩa-lộ (Yên-báy), rồi liên tiếp thuyên chuyển về Ý-Yên(Nam-định)và cuối cùng là Thanh-miện(Hải-dương).
Chính tại vùng quê xa Hà-nội này, người dân trong đó có tôi, bắt đầu trở thành nạn nhân, cũng là chứng nhân của cuộc chiến tranh tàn khốc giữa Pháp với Việt-minh. Cái đình làng đồ xộ với những cây cột to quá một vòng ôm bị dội bom đổ vỡ thành từng mảnh vụn. Trường tôi 5 gian lớn bằng gạch và cửa kính cũng tan hoang. Học sinh phải học tạm ở mấy địa điểm rải rác xa nhau, thường thường phải chạy gấp xuống hào lộ thiên tránh máy bay đang ào ạt bắn xuống. Ai mang trên mình miếng vải có 2 trong 3 màu cờ tam tài của Pháp hoặc một mảnh gương soi đều bị tra khảo là Việt gian âm mưu chiếu sáng chỉ đường cho máy bay địch. Nhiều lần, nằm tránh bom đạn trên bờ ruộng lúa hay dưới tàng cây, tôi hãi hùng chỉ dám mở 1 con mắt nhìn cảnh một vài con chim sắt lao vùn vụt xuống đất gây nên tiếng nổ như bắp rang hay ầm ầm kinh thiên động địa. Cứ mỗi buổi hoàng hôn, đồn lính Tây ở một đồn bót chỉ cách khoảng 3 cây số lại bắn oàng oàng hàng chục viên đại bác. Ban đêm thường xuất hiện những đoàn dân công gánh những vật tử thần tức những quả mìn lầm lũi đi như bóng ma. Ðôi khi nhìn về góc trời phía đông có lẽ từ mạn Hải-phòng, còn thấy những vùng sáng loé lên kèm theo những tiếng nổ rền thật đáng sợ khi tưởng tượng giặc từ chiến hạm ở ngoài khơi đang oanh kích vào vùng ven biển. Dân chúng phải đóng góp tuần lễ vàng bao gồm vàng bạc, đồng sắt, kim loại cho Việt-minh. Theo chương trình tiêu thổ kháng chiến, cầu sắt bị phá xập, đường cái quan bị xẻ rãnh thành những giao thông hào hình chữ chi, nhà dân nào xây cất có lầu cao kiên cố bị đập phá. Ðấy là chưa kể đến phong trào đấu tố khủng khiếp sẽ xảy ra vào những năm 1954-55 mà mãi về sau tôi mới được thấy hình ảnh qua phim Chúng Tôi Muốn Sống. Hình ảnh cuộc chiến tàn khốc thời ấy đã gieo vào lòng tôi ấn tượng quá sâu đậm đến nỗi cho mãi tới ngày nay thỉnh thoảng còn hiện lại trong giấc mơ hoảng hốt. Vừa phải chạy giặc Pháp, vừa phải tránh những họat động của Việt-minh, cuối cùng cha tôi phải tập trung mọi người trong gia đình đang ở rải rác nhiều nơi trở lại với nhau để tản cư xa hơn đến mấy làng khác tạm được coi là còn yên ổn hơn thuộc tỉnh Hưng-yên. Hình như danh từ Làng Tề đã được dùng để chỉ vùng này, đúng nghĩa hơn là chỉ nơi chúng tôi đã sống bao nhiêu năm trước thuộc tỉnh Hải-dương.
3- Một lần càn quét, Pháp gom người dân trong xã
Ngồi chung quanh đống lửa giữa sân làng
Quân hung bạo khảo tra mấy người vô tội vạ
Và sẵn sàng thiêu sống để làm gương
Chứng kiến cảnh hiểm nguy có thể xảy ra, với uy tín của một Hiệu-trưởng trường lớn nhất huyện, và với khả năng nói tiếng Pháp, cha tôi gan dạ đứng lên tình nguyện làm kẻ thông ngôn, nhưng chủ ý là dùng lời lẽ để thuyết phục kẻ bạo tàn. Nhờ đó, giặc bỏ đi, dân làng vui mừng thoát nạn. Nhưng còn cha tôi lại đang mang nặng nỗi buồn riêng. Cha đã cứu được dân làng thoát hiểm mà trước đây không cứu nổi chính con mình. Hơn nữa, khoảng tháng sau, cha tôi đã dẫn đầu một nhóm gần hai chục dân sở tại cùng với gia đình tôi bỏ làng quê vùng Tề tìm đường đến một đồn quân Pháp xin giúp đỡ phương tiện hồi cư về thành phố. Ðoàn xe cam-nhông được lính Tây bảo vệ, cứ chạy một đoạn đường lại bắn chỉ thiên để thị uy đối với dân quân Việt-minh. Tới tỉnh lỵ Hưng-yên, chúng tôi ở lại chừng 1 tháng để làm thủ tục hồi cư. Cuối cùng mọi người về đến Hà-nội một cách an toàn vào cuối năm 1949: Ðối với mọi người dân thôn quê khốn khổ /Vai trò cha tôi như một ông lão lái con đò./Tính nghiêm nghị nhưng lòng nhân không nhỏ/Thương gia đình và thương cả khách sang sông.
Ngày nay mỗi khi nghĩ lại việc hồi cư về Thành, tôi còn cảm thấy như bị giựt mình vì nếu cha tôi không sáng suốt thực hiện chuyến đi vận mệnh ấy thì tương lai anh em chúng tôi sẽ mù mịt ra sao!
4- Năm 1949: Hà-nội hiện ra trước mắt tôi vô cùng xa lạ với cảnh tượng rất thanh bình. Ði qua cầu Long-biên hùng vĩ bắc qua sông Hồng mênh mông chúng tôi đặt chân xuống nội thành. Phố xá náo nhiệt, sầm uất. Cha tôi được trở lại với nghề dạy học ở một trường Tiểu học lớn đường Hàng-than, nơi tôi cũng được theo học. Gia đình được một vị tôn trưởng trong họ cho tá túc, ở chung tại một ngôi nhà 2 tầng rộng rãi trên khúc đường đẹp nhất của đường Quan-Thánh, dựa lưng vào hồ Trúc bạch. Trước mặt và hai bên là những biệt thư sang trọng 3,4 tầng có Tây đầm mỗi sáng mặc bikini phơi nắng trên sân thượng đẹp như vườn hoa. Tối đến tiếng nhạc xập xình từ 2 vũ trường gần nhà vang lại, đa số khách là người ngoại chủng, kể cả lính Tây. Cuối đường nếu đi thẳng thì tới vườn Bách-thảo, xa hơn nữa là trường Bưởi, nơi cha tôi đã từng học; còn nếu rẽ tay phải thì thấy đền Quan-Thánh và con đường Cổ-ngư nổi tiếng chạy giữa hồ Trúc-bạch và Tây-hồ, nơi anh em tôi thường đến ăn bánh tôm tuyệt vời. Không xa nhà quá vài trăm thước là trường Trung-học Chu-văn-An, nơi tôi được theo học vào ngay năm sau. Cũng cách nhà trong vòng chu vi chưa đầy 1 cây số có thành Hà-nội (thành Thăng-long xưa), công trường Ba-đình, chùa Một-cột và biệt điện Bảo-Ðại. Rất dễ dàng đáp xe điện vào trung tâm thành phố thì tới Hồ-Gươm, với Tháp-Rùa và Cầu-Thê-húc. Từng ấy thứ chưa đủ mô tả hết những thắng cảnh khác của đất Ngàn năm văn vật/Cô đô Thăng-long, như văn miếu, nhà hát lớn kiểu Opera Paris, phố Tràng-tiền...Ngày nay,2016, sau hơn nửa thê kỷ, Hà-nội mặc dầu phát triển mạnh về kiến trúc nhưng thực tế đã mất đi tất cả nét thanh lịch độc đáo của nó: Hà nội trước 54 đất ngàn năm văn vật/Ấp ủ trong lòng thành phố cổ Thăng Long/36 phố phường,5 cửa Ô,núi Nùng, sông Nhị/Thành quách xưa Hoàng-Diệu rêu phong/Cầu Long-biên như rồng đen vĩ đại/Giòng sông Hồng nước đỏ mênh mông/Tháp rùa lung linh trên Hồ Gươm huyền thoại/Ðường Cổ-ngư thơm ngát gió Tây hồ... (Thơ: Anh sẽ đưa Em về thăm quê hương/HN-HNT, 2012).
5- Tưởng sẽ được tiếp tục cuộc sống yên bình ở Hà nội mãi, bất ngờ Hiệp định Geneve chia đôi đất nước được ký kết vào ngày 20.7.1954. Chỉ trong tháng đầu của chương trình di cư vào Nam, cha tôi đã mau chóng làm xong thủ tục để gia đình đã có mặt trên một trong số mấy chuyến bay đầu tiên vào Nam, thẳng đến Sài-gòn_ Hòn Ngọc Viễn Ðông. Thành phố vốn là nhượng địa thuộc Pháp nên to lớn hơn Hà-nội. Sài-gòn có mấy con đường thật rộng và thẳng tắp, có vườn Sở Thú lớn lao,vườn hoa ỘThượng với những bụi cây được cắt xén theo dạng hình-học...Tôi đã vét tiền túi, dùng một đồng bạc giấy và xé thêm tờ thứ hai ra làm 2 mảnh rồi giữ lại 1 mảnh, mua ngay một tấm bản đồ để lần mò thực hiện những lần đi khám phá thành phố miền Nam thật xa lạ này ngay trong tuần lễ đầu tiên. Sau thời gian lưu động ở 2 trại tạm cư, cha tôi nghĩ rằng cần phải sớm tự túc ổn định cuộc sống nên đã dùng đồng lương nhà giáo eo hẹp của mình để mua ngay một căn nhà cũ tại khu Bàn-cờ, gần trường Trung-học Pétrus Ký, nơi tá túc của trường Chu-văn-An Hà-nội di chuyển vào Nam. Cũng như Hà-nội, Sai-gòn đã để lại cho tôi rất nhiều kỷ niệm kéo dài suốt từ thời niên thiếu đến trưởng thành. Tâm trí tôi in sâu hình ảnh thân thương của 2 thành phố: Hà-nội của chính phủ Quốc-gia một thời (trước 1954) và Sài-gòn, thủ đô của nước Việt-Nam Cộng-hoà (1954-1975). Sài-gòn đã đang phát triển mọi mặt để vươn lên vai trò Con Rồng Ðông Nam Á đồng thời phải mang gánh nặng một cuộc chiến tranh bảo vệ phần đất Miền-Nam Tự-Do.
Cho tới ngày nay, được sống yên bình trên quê hương thứ hai, tôi vẫn không bao giờ quên những ngày xa xưa ấy, trong đó luôn luôn hiện rõ hình ảnh người cha đã luôn luôn đi bên cạnh con, nuôi dưỡng, dìu giắt con suốt cuộc hành trình dài nhất của đời tôi. Cũng nhớ mãi cái ngày xưa xa lắc xa lơ ở vùng quê đất Bắc về một câu chuyện nhỏ nhưng vô cùng quan trọng đối với tôi : Ngày xưa ấy có nhiều lần tôi bệnh nặng/Mẹ nào chẳng thương con, lấy đầy chén cơm ngon/Cha giằng lấy, cứu tôi tròn tánh mạng/Bằng tình thương không mù quáng cho con.
Rồi, thời gian dài sau đó, chính nhờ cha tôi trước kia đã cố gắng chắt chiu từng đồng lương công chức và sáng suốt quyết định cho em tôi đi du học Nhật theo chương trình Du-học tự túc (dành cho HS ưu tú đỗ Tú tài 2 và chính phủ chỉ trợ cấp 40 Ðô-la/tháng), để sau 1975 tôi cùng vợ con mới có cơ hội được bảo lãnh sang Hoa-Kỳ, theo diện đoàn tụ gia đình. Thực vậy, sau hàng chục năm chờ đợi tên mình trên danh sách HO, đến đúng lúc tới lượt thì mới chưng hửng ra rằng bị HO từ chối chỉ vì thời gian đi tù cải tạo chưa đủ 3 năm. Không đủ phương tiện vượt biên, nếu không nhờ cha tôi và người em thì liệu tôi có sống nổi dưới cái chế độ kỳ thị với những ai thuộc về phía thua cuộc có một lý lịch quá khứ bị kết tôi: Theo giòng chảy, Lá trở về thành phố/Nhưng toàn thân như mảnh xác vô hồn/Xã hội dễ gì cho hội nhập khơi khơi/Nên cuộc sống không thể nào như trước nữa... (Thơ: Chiếc lá/HN -HNT,2016)
6- Trang tuỳ bút hồi tưởng Một Thời Xưa Ấy ghi chép những kỷ niệm hãi hùng thời chiến tranh Pháp/Việt 1945-54, rồi cuộc chiến 20 năm Quốc/Cộng, đồng thời là bối cảnh cho mối tình phụ tử.. Cho nên nhân dịp ngày Father's Day 2016 tại Hoa-Kỳ, một phần trang hồi tưởng được gợi ra từ những hình ảnh về một người cha : Riêng tôi viết về Cha, không phải bằng nước mắt/Nhưng bằng suy tư về mấy việc lớn Cha làm...và kết luận bằng 4 câu thơ :
TÌNH CHA THƯƠNG CON VỚI TINH THẦN SÁNG SUỐT
TÌNH CHA THƯƠNG CON CŨNG ÐẬM CŨNG NỒNG NÀN
NẾU KHÔNG CÓ CHA BÊN MẸ HIỀN NUÔI DƯỠNG
CÓ THỂ NÓI RẰNG TA KHÔNG THỂ THÀNH NHÂN.
ChinhNguyen /H.N.T. (HN-HNT) , 2016-21
(Trích&sửa từ Tuỳ- bút: Hồi Tưởng MộtThời Xưa Ấy, nguồn web site 2016)
Từ tờ mờ sáng cho đến khi bóng hoàng hôn phủ trùm lên ngọn núi Ðá Chẻ, tiếng búa nện vào dụng cụ chẻ đá vang lên những âm thanh khô khốc đơn điệu như bản hợp tấu của loài vạc sành đua nhau vỗ cánh về đêm. Dưới chân núi, những đống đá chẻ vuông vức được sắp thành chồng chờ xe tải đến chuyển về các công trường xây dựng.
Núi Ðá Chẻ có tên nguyên thủy là núi Bìn-Nin, một di sản của dòng họ Phan Quang từ thời cha ông tạo mãi. Núi trấn sau lưng một quần thể đại gia cư qua nhiều đời. Phía trước mặt là dòng sông trong xanh lững lờ uốn khúc. Nà bắp, nà dưa xanh tăm tắp chạy dọc bờ sông gió lộng quanh năm.
Con đường làng bò quanh chân núi như dải đăng-ten viền quanh cổ áo của người thiếu nữ. Từ chân núi, cánh đồng lúa trải dài chệch về hướng bắc như hai tà áo phất phơ theo từng cơn gió nồm. Chiếc áo mang màu xanh khi lúa đang thì con gái. Ðến mùa lúa chín, cánh đồng lại thay áo màu vàng.
Bìn Nin là một hòn núi cây cối um tùm. Những cây đa cổ thụ gốc to năm, sáu người ôm không xuể, tỏa bóng rợp cả một vùng. Ðủ các loại chim muông tề tựu về đây hót vang bốn mùa. Những năm tháng chưa có bôm đạn, từng bầy khỉ chuyền cành ăn các loại trái cây chín tới. Thỉnh thoảng chúng ra tận bờ sông đào khoai lang, đậu phụng. Khỉ biết cách quấn dây lang quanh bụng rồi nhét củ khoai vào lưng mang đi. Ðám học trò mỗi lần đi ngang qua núi thường trốn trong bụi rậm để rình xem bọn khỉ bắt chước loài người. Khi con khỉ đầu đàn phát giác có người xuất hiện là bốn chân nó nhảy lên như con choi choi, miệng kêu khọt khẹt báo động. Rồi cả bầy gọi nhau chí chóe chạy trốn vào núi.
Ðến giai đọạn chiến tranh khốc liệt, loài khỉ bỏ núi Bìn-Nin tìm lên núi cao sinh sống.
Sau 1975, núi Bìn-Nin trở thành tài sản của nhà nước. ?Cha chung không ai khóc? thiếu người bảo quản.Từ cán bộ đến dân mặc sức thi nhau đốn sạch cây cối làm củi. Cán bộ kiểm lâm đón ngã nầy thì họ lách đi lối khác. Nếu bắt gặp thì có thủ tục ?đầu tiên? đỡ đòn. Chỉ mất vài năm là không còn một cây con nào lớn lên kịp. Núi chỉ còn trơ lại toàn đá. Ðá lúc nhúc, lục cục đủ cỡ.
Những tảng đá lớn đơn độc như loài voi đen đúa bám đầy rong rêu nằm phủ phục hàng trăm năm dưới bóng râm của cây rừng giờ đây chúng phơi mình dưới ánh nắng chói chang. Từng chồng đá cao dềnh dàng như ngọn tháp đứng chênh vênh dưới bầu trời mông quạnh.
Núi không còn cây cối, mùa nắng cánh đồng thiếu nước khô hạn thường xuyên. Mùa mưa lúa chìm trong biển nước. Mất mùa liên tục, dân làng thiếu ăn. Ðói đầu gối hay bò...dân chúng ùa nhau lên núi chẻ đá kiếm tiền mua thực phẩm. Thấy nghề không vốn, các nơi khác cũng đổ xô đến núi Bìn Nin chẻ đá kiếm sống.
Chính quyền xã tại phát hiện dân xâm chiếm tài sản của nhà nước bèn cho lực lượng an ninh địa phương tịch thu hết số đá đã chẻ. Biết đây là nguồn lợi tức trời cho, chính quyền bèn thành lập ?Hợp Tác Xã Ðá Chẻ ?. Người nào muốn tham gia chẻ đá phải ghi tên gia nhập làm xã viên với điều kiện ăn chia tứ lục. Cứ chẻ được mười viên đá là hợp tác xã lấy bốn viên còn lại sáu viên dành cho xã viên. Ủy ban xã độc quyền mua bán trao đổi với các xí nghiệp xây dựng. Ðá của xã viên đươc Hợp Tác Xã mua lại với giá quy định.
Từ đó, núi Bìn-Nin trở thành núi Ðá Chẻ và làng Diên Thọ thành làng Ðá Chẻ.
Anh Mẹo là một xã viên Hợp tác xã Ðá chẻ có kinh nghiệm lâu năm nên được cấp trên đề bạt làm tổ trưởng kỹ thuật. Vợ Mẹo là một phụ nữ sinh ra và lớn lên tại làng Ðá Chẻ nhan sắc mặn mà, lại cần cù lao động. Một sào ruộng lúa nước và trăm thước vuông đất canh tác của chính quyền điạ phương phân chia cho gia đình, chị lo quán xuyến không cần đến bàn tay chồng. Chị còn cắt lúa lấy công điểm, đi cấy đổi công. Ðứa con trai duy nhất của chị được bà mẹ chồng lo chăm sóc hàng ngày. Dù cuộc sống không sung túc gì, nhưng có đồng ra đồng vào nhờ tiền bán đá chẻ.
* * *
Ðã hai ngày qua, cơn mưa dầm đầu mùa cứ rả rích suốt đêm. Từng cơn gió mạnh của cơn bão đến sớm làm ngã rạp những đám mía non chưa đủ độ đường, quật gãy những nà bắp, trái chưa tượng hột. Cánh đồng lúa hạt vừa ngậm sữa nước ngập lai láng. Thế là mùa màng mất sạch, người người đều lo lắng cho những ngày tháng sắp tới.
Sáng nay, cơn mưa dầm bỗng dưng ngưng hẳn, ánh sao mai ló dạng cuối chân trời . Vợ chồng Mẹo thức dậy lúc màn sương còn phủ kín cả dòng sông. Họ chuẩn bị phần cơm trưa, vợ mang ra đồng, chồng mang lên núi.
Khi Mẹo đến hiện trường, các xã viên đã bắt đầu làm việc..
Mồ hôi và nước mắt của người thợ chẻ đá đã đổ ra thấm vào lòng đá để đổi lấy chén cơm trong ngày. Mùa hè, tấm lưng trần của người thợ phơi dưới cơn nắng đốt cháy da. Mùa đông, họ vẫn lấy lưng chống lại với những cơn mưa tầm tã. Một ngày làm việc, đôi chân tê dại, đôi tay rã rời.
Khi trời sụp tối, họ còn phải chuyển đá từ trên cao xuống chân núi chất thành đống chờ cán bộ Hợp Tác Xã đến nghiệm thu.
Mẹo dạo qua một lượt quanh khu vực của tổ làm việc mà anh phụ trách rồi trở lại tảng đá của anh đã đục xong hai hàng lỗ. Anh đóng mũi chạm thọc sâu vào thân đá bằng chiếc búa tạ để đường nứt trên tảng đá theo ý định của mình. Bỗng, tiếng động ầm ầm như loài voi di chuyển. Mẹo quay đầu nhìn lên phát hiện một tảng đá khổng lồ từ trên đỉnh cao vùn vụt lao xuống núi. Bao nhiêu người chạy tán loạn. Mẹo vừa đứng lên định phóng người qua một bên, nhưng không còn kịp nữa. Dưới sức nặng hàng tấn của khối đá lăn qua, thân thể anh Mẹo bẹp rúm nát nhầy. Máu thịt loang đầy cả tảng đá anh đang chẻ.
Mẹo chết để lại người vợ trẻ, đứa con trai mà anh vô cùng yêu thương và mẹ già sáu mươi tuổi. Bao nỗi khó khăn dồn dập đổ lên gia đình chị Mẹo. Một sào ruộng khô cằn, mấy trăm thước đất trồng bắp không đủ nuôi ba miệng ăn. Lợi dụng thời gian rảnh rỗi khi mùa vụ làm xong, mỗi sáng sớm chị Mẹo đạp xe xuống thị xã gánh nước thuê. Ðến cuối ngày, trời tối mịt chị lại đạp xe về nhà với túi gạo, bó rau và chai mắm trên ba-ga xe.
Lần hồi chị Mẹo phải ở lại thị xã gánh nước đêm đến cuối tuần mới đem thực phẩm về cho mẹ chồng nuôi cháu nội. Càng ngày chị Mẹo về nhà thăm con càng thưa dần cho đến lúc người ta không còn thấy bóng dáng chị nữa. Khi dân làng xì xầm rằng ông chủ nhiệm Hợp Tác Xã đá chẻ đã dẫn chị Mẹo vào Long Khánh xây tổ uyên ương, thì hai bà cháu ôm nhau gào khóc tưởng chừng như con trai bà chết lần thứ hai.
Mẹ anh Mẹo không đủ sức làm sào ruộng đành trả lại cho Hợp tác xã nông nghiệp. Ðể kiếm tiền mua gạo bà bắt chước lối xóm đặt vài chai xăng trước ngõ bán cho xe máy nổ qua lại trên đường đi thị xã. Thằng Ni con anh Mẹo không có tiền đóng phụ phí học đường. Nó đành bỏ học lo giúp bà nội mua bán xăng với vài vỏ chai serum đựng xăng đặt trên chiếc ghế đẩu.
Dù thân thể gày còm của tuổi lên mười hai mà thằng Ni phải làm cái việc khuân đá chẻ nặng nhọc, lăn từ trên cao xuống chân núi từng viên đá sắc cạnh chất thành đống bên đường để có chút ít tiền công phụ cho nội nó. Thằng Ni còn phải giành mối, luồn lách mua xăng từ các bác tài xế bộ đội hay xe tải cho nội nó bán. Nhờ vậy mà bà cháu có đủ tiền mua gạo mắm nuôi sống qua ngày.
Vì tiếp xúc thường xuyên với hơi xăng từ nhỏ, thằng Ni bắt đầu ghiền mùi xăng. Một ngày không ngửi được mùi xăng là nó ngơ ngơ ngẩn ngẩn như người lảng trí. Nó ghiền mùi xăng như ghiền thuốc phiện.
Khi con đường chạy vòng qua núi Ðá Chẻ được mở qua hướng khác tiện lợi hơn, thì đoạn đường đi qua làng Ðá Chẻ vắng hẳn xe qua lại. Những chai xâng không còn xuất hiện bên lề đường. Bà nội của Ni dẹp nghề bán xăng và Ni không còn xăng để hít. Nó bắt đầu lang thang đến đoạn đường mới đứng chờ chực chỗ bán xăng khi nào có xe ghé vào đổ xăng là nó nhào tới hít lấy hít để. Khi đã cơn ghiền nó nhe răng cười, một nụ cười vô hồn khiến người ta sợ hãi. Những lúc cơn ghiền nổi lên nó lén mở cả nắp xăng xe Honda để hít. Không may bị chủ xe bắt gặp, tưởng nó lấy trộm nắp xăng là bị đòn nhừ tử . Cái tên Ni cúng cơm được thay bằng ?Thằng Hít Xăng? từ đó.
Thằng Hít Xăng vừa tròn mười bảy tuổi mà đã mang dáng nét đàn ông, vai u thịt bắp. Ai sai việc gì nó cũng làm chẳng nề hà nặng nhọc chỉ cần có cơm ngày ba bữa và có xăng cho nó hít.
Ngày ngày nó tiến dần ra thị xã kiếm ăn quên cả bà nội ở dưới quê, và quên luôn người mẹ đã bỏ nó theo chồng mới.
Một hôm nó gặp người con gái lai Lào hơn nó ba tuổi con ông Ba Lỗi một cán bộ miền Bắc công tác tại Luâng- bra-bang một tỉnh lỵ của nước Ai Lao hồi hương về Việt Nam sau năm 1975. Ông Ba ăn lương hưu, hưởng tiêu chuẩn nhà ở do nhà nước cấp. Căn nhà tọa lạc gần quốc lộ ở vùng ngoại ô thị tứ. Con bé phát triển rất nhanh về thể xác, còn trí tuệ lại trì độn không theo kịp với tuổi đời. Vì vậy mà việc học hành dở dang. Dù tiếng Việt nó nói không trôi chảy bằng tiếng Lào nhưng nhờ sống chung với cộng đồng Việt kiều ở Lào từ nhỏ nên khi về Việt Nam việc tiếp xúc với bạn bè hàng xo
´m không gặp trở ngại. Ðôi mắt lai Lào của nó vừa âm u vừa hoang dại khiến cho khuôn mặt của nó có một nét riêng độc đáo. Tuy vậy vẫn không hòa đồng được với đám bạn láng giềng của nó cùng trang lứa ở quê.
Lúc nó mới lên mười bốn tuổi mà đã rủ rê đám nhóc con trai làm tình với nó. Quờ quạng chẳng được gì, lũ nhóc bị nó đánh bầm cả mặt. Nó lại kéo những thằng cỡ tuổi lớn hơn ban đêm ra bãi cát ven sông. Cuối cùng, cũng bị nó cào cấu chửi mắng đuổi đi. Bố nó biết được khóa cửa không cho nó ra ngoài. Ðêm nào, hàng xóm cũng nghe tiếng nó gào thét, đập phá đồ đạc trong nhà.
Năm mười bảy tuổi nó đã lê la đến các quán cà phê, quán phở. Chỉ cần một ly nước, tô mì là mấy tay thanh niên có thể dẫn nó đi đâu cũng được. Nó thú thật, ngày nào mà thiếu đàn ông thì cả ngày rạo rực, bứt rứt đến độ nổi cơn điên. Nghe đâu bố nó nhờ đến bác sĩ chích thuốc điều trị để quân bình hai loại hoóc-môn nam và nữ nhưng đâu cũng vào đấy.
Con bé bỏ nhà sống lang thang từ ngày bệnh viện trị liệu bằng phương pháp giải phẩu mà không thành công. Bố nó bèn sắm cho nó một chiếc tủ bán thuốc điếu đặt trước Hội trường Sinh Hoạt Văn Hóa của Thị Trấn . Khi có người đàn ông nào tán tỉnh, con bé lại gởi thùng thúốc điếu trong nhà hàng xo
´m đi cả đêm.
Ông Ba Lỗi rất đau lòng trước bệnh tình của đứa con gái đã mang gen di truyền của mẹ nó, người phụ nữ Lào vợ ông đã bỏ ông đi tằng tịu với nhiều người đàn ông khác, vì vậy ông đã phải ly dị khi con bé mới chập chửng biết đi.
Ðã mấy năm nay, dân vùng nầy quen tai, quen mắt xem nó như một con bé bệnh hoạn nên ít người để ý tới nữa.
Từ ngày gặp thằng Hít Xăng, con nhỏ lai Lào hình như đã ?chịu đèn?. Ðêm nào nó cũng kéo thằng Hít Xăng ra ngoài bờ sông ôm nhau ngủ trên bãi cát. Bố nó quyết định dẫn hai đứa về nhà vừa hợp tình hợp cảnh mà chẳng tốn kém gì. Chỉ cần thêm chén, thêm đũa trong ba bữa ăn và chai xăng thường trực trong nhà là tránh được tai tiếng cho ông.
Thằng Hít Xăng ăn uống đầy đủ lại có áo quần lành lặn trông nó chững chạc và có phần sáng sủa hẵn ra. Sức vóc mỗi ngày mỗi phát triển to con, lớn xác lại thêm siêng năng nên được nhiều người mướn làm công việc khuân vác bỏ hàng hóa cho con buôn và làm cả việc nặng nhọc khác trong nhà, cũng như ngoài đồng.
Năm mười tám tuổi, một dịp may đến, thằng Hít Xâng được một quả phụ giàu có ở thị xã mướn ở trong nhà để đạp xích lô chở bà đi giao dịch công việc làm ăn hàng ngày. Ðược bà chủ sắm cho quần áo mới trông nó cũng ra dáng lắm. Nó vừa giữ nhiệm vụ đưa rước vừa xách cặp theo sau hầu cận bà chủ.
Sau một ngày đi đó đi đây liên hệ các cơ quan, các xí nghiệp, bà chủ thật sự mệt mỏi. Tối về, lưng đau nhừ, tay chân rời rã bà sai thằng Hít Xâng tắm rửa sạch sẽ vào phòng tẩm quất cho bà. Nó chẳng biết gì về cái chuyện đấm bóp. Khờ khạo, lạng quạng một hồi lâu khiến thêm nhức mình nhức mẩy, bà chủ bực mình hét toáng lên. Những lần sau bà phải hướng dẫn nó từng chi tiết chỗ nào trên thân thể cần đấm mạnh tay, chỗ nào chỉ cần bóp nhẹ.
Ðôi bàn tay khỏe mạnh, thằng Hít Xâng lần lượt nắn bóp từng sớ thịt trên đôi chân đầy đặn, trên đôi cánh tay tròn lẳn rồi qua chiếc lưng trần múp rụp. Nó thảng thốt nghĩ thầm : Sao da bà chủ trắng đến thế! Quả thật nó chưa bao giờ được thấy một màu da mịn màng trắng như cơm trái dừa . Lưng bà nội nó thì bày cả xương vai, xương sườn, da già nhăn nheo, tái nhợt. Con lai Lào thì thân hình có phần nở nang nhưng da dẻ lại tối sầm .
Ðôi bàn tay thằng Hít Xâng cứ xoa nhẹ trên làn da lưng êm ái của bà chủ trong nỗi nhớ mông lung về màu da mát mịn của bầu vú mẹ mình thuở nào. Thằng Hít Xăng đã vô tình gây kích thích cho bà chủ. Chồng chết đã lâu, hôm nay mới có bàn tay đàn ông sờ nắn trên thân thể mình đã đánh thức sự ham muốn của bà. Không kìm chế nổi, bất ngờ bà lật người lại rịt đầu thằng Hít Xâng siết mạnh vào bộ ngực đồ sộ như hai qủa bưởi của mình.
Có phải do hơi xăng tác động vào cơ thể khiến cho thần kinh thằng Hít Xăng chai lỳ và dẻo dai. Ðặc biệt hơn cả là ?cái dương vật khác thường? của nó mà sau nầy người ta biết được đã ví nó như nhân vật Lao Ái của Trung Hoa thời xưa.
Bà chủ đã qua hai đời chồng cao sang danh vọng nhưng chưa bao giờ đạt được cơn khoái cảm tột đỉnh của người đàn bà. Giờ đây dù là đứa nghèo hèn, thằng Hít Xâng đã cho bà hưởng được cái cảm giác đặc biệt đó của tạo hóa ban cho nữ giới. Và từ đó đêm nào thằng Hít Xâng cũng phải làm cái công việc đấm bóp và thỉnh thoảng được ngủ luôn trong phòng bà chủ.
Dù to con lớn xác của cái tuổi mười tám đôi mươi, nhưng đầu óc nó không phát triển đồng bộ. Cái tính ngây thơ trẻ con vẫn còn, vì vậy mà nó đi khoe với bạn bè chuyện của nó được ngủ trong cái phòng thơm tho của bà chủ.
Các mệnh phụ phu nhân dưới thời "kinh tế thị trường kiêm định hướng xã hội chủ nghĩa "mỗi ngày mỗi phát giàu nhanh lại càng đua đòi hưởng thụ để bù lại những ngày đói khổ.
Các đấng phu quân có chức , có quyền lo lập ?phòng nhì? thích ?cỏ non? bỏ quên ?cỏ úả khiến mấy bà cũng hận tình, hận đời thề quyết nổi loạn cho khỏi uổng phí cuộc đời.
Bà chủ xích lô rất sành tâm lý nên biết tỏng tòng tong cái thói rạo rực của các mệnh phụ kia. Vốn là dân chạy mánh bà chủ lợi dụng thằng Hít Xâng làm vật trao đổi với mấy bà vợ của các ông chồng ? bỏ quên vợ nhà?cỡ Giám đốc, tổng giám đốc công ty quốc doanh trong công việc đấu thầu, gởi gắm, mối lái tuyển dụng nhân viên... Quý bà âm thầm giới thiệu thay nhau giữ rịt thằng Hít Xăng trong nhà. Cây kim trong vỏ bọc lâu ngày cũng phải xì ra, việc thầm lén của mấy bà cũng vậy. Một hôm, bà chủ xích lô lên tiếng trách móc vợ của ông giám đốc xuất nhập khẩu :
- Này, đằng ấy thực tình không biết điều tí nào. Ðã nói trước là tôi cho bà mượn Thằng Ni vài ngày thế mà bà quên lời hứa không trả lại cho tôi đúng thời hạn.
- Ơ hay, bà chị xem nó là loại gì, đâu phải con búp bê làm đồ chơi riêng của chị. Là con người, nó thích ai thì nó ở, tôi làm sao đuổi nó được.
Bà chủ Xích lô giải thích.
- Nhưng nó là sở hữu của tôi bởi tôi đã đích thân tìm đến quê mướn nó.
- Mặc kệ chị, chừng nào nó nhớ tới chị là nó trở về , tôi không cản.
Bà chủ xích lô giận quá phun miếng kẹo cao su đang nhai bay vèo qua trước mặt bà vợ cán bộ, mắng:
- Ðồ dâm loạn, rồi bỏ đi.
Bà phu nhân kia chẳng vừa, nguýt dài, chửi với theo :
- Hứ, còn hơn con lợn nái, rồi quay lưng với thái độ đắc thắng.
Giúp việc cho các bà có nhà cao cửa rộng, ăn uống đầy đủ lại được nuông chiều, thằng Hít Xăng quên hẳn con lai Lào, ở luôn ngoài tỉnh lỵ. Con lai Lào thì mong đợi nó từng ngày. Khi con bé hết kiên nhẫn bèn ra thị xã tìm kiếm. Biết được thằng Hít Xăng hiện đạp xích lô nên nó đứng loanh quanh ở ngã tư canh chừng những chiếc xích lô chạy qua.
Một hôm, bất ngờ nó nhìn thấy thằng Hít Xăng chở một bà trung niên, mặt trét son phấn lòe loẹt, thân hình phốp pháp. Con lai Lào băng qua đường chạy theo, kêu lên:
- Bớ Ni, mầy đi đâu mà bỏ tao một mình bao lâu nay.
Kéo thắng chiếc xích lô dừng lại, thằng Hít Xăng xuống xe đứng chờ. Con Lai Lào nhào tới, hai đứa ôm nhau. Bà chủ bước xuống xe mặt hầm hầm đến nắm tay con lai Lào kéo ra khỏi thằng Hít Xăng rồi xô nó té sấp. Mặt con Lai Lào cày trên lề đường, máu mũi tuôn ra ướt cả ngực áo.
Ðứng khựng một lúc, mặt thằng Hít Xăng ngớ ra. Khi bà chủ đến trước mặt hầm hè hối thúc nó lên xe, bất ngờ nó dang tay tát vào mặt bà chủ một cú như trời giáng rồi kéo tay con lai Lào chạy ra khỏi thị xã hướng về nhà bà nội nó ở làng Ðá Chẻ.
Khi đến nơi mới biết nội nó đã chết từ lâu, căn nhà thì đổi chủ. Thằng Hít Xâng khóc rống lên, nước mắt ràn rụa. Nó đứng thẫn thờ trước hiên nhà đưa tay đấm vào ngực giận dữ khiến con lai Lào phải ôm nó dìu về nhà.
* * *
Một năm sau, con bé Lai Lào sinh được đứa con trai bụ bẫm. Ông Ba Lỗi sống trong cảnh già nua đơn chiếc mà có được đứa cháu ngoại cũng an ủi được phần nào. Vả lại, từ ngày đẻ con, đứa con gái của ông đã thay đổi hẳn tính tình, điềm đạm và biết lo lắng cho con khiến ông rất vui mừng. Thằng Hít Xăng vẫn mang bịnh nghiền mùi xăng nhưng chịu khó làm ăn. Và đặc biệt nhất là nó thương con vượt mức bình thường.
Một hôm, thằng Hít Xăng đang làm công việc chất những kiện hàng lên xe tải. Bỗng một đám khói đen cuồn cuộn bốc lên trong xóm bên kia đầu cầu. Cả đám khuân vác ngừng tay nhìn về hướng có đám khói. Một người hoảng hốt kêu lên:
- Cháy nhà !
Người khác hỏi :
- Khu nhà ai ?
- Hình như khu nhà thằng Hít Xăng.
Nghe thế, thằng Hít Xăng ngước nhìn về hướng khói đang bốc lên ngùn ngụt. Bất giác, nó vất bao hàng trên vai xuống xe rồi cắm đầu cắm cổ chạy về nhà.
Ðúng là nhà của ông Ba Lỗi, bố của con Lai Lào phát hỏa. Kẻ cầm xẻng hắt từng xẻng cát, người chuyền tay từng thùng nước tạt vào lửa. Con Lai Lào vừa gào khóc vừa chấp tay van xin mọi người cứu con nó trong căn nhà đang cháy.
Mọi người lắc đầu bất lực vì lửa mỗi lúc mỗi bốc lên rần rật.
Thằng Hít Xăng vừa chạy về đến nhà biết được đứa con nó bị kẹt trong căn nhà, với bộ áo quần ướt đẫm mồ hôi nó phóng người qua ngọn lửa đang liếm vào khung cửa lớn. Vì quá bất ngờ không ai kịp cản ngăn trước hành động liều lĩnh của thằng Hít Xăng do lòng thương con thôi thúc. Tình phụ tử thiêng liêng tạo thành sức mạnh vô biên khiến cho con người không sợ chết trước hiểm nguy để bảo toàn tánh mạng cho con mình.
Mọi người đang hồi hộp đợi chờ. Bỗng một khối lửa đỏ rực lao qua khung cửa chính. Thằng Hít Xăng vụt hiện ra trên tay bồng đứa bé năm tháng tuổi cháy nám đen cùng với thân thể nó đang bốc lửa. Vừa bước ra đến sân, thằng Hít Xăng đổ nhào, tay vẫn còn ôm chặt con nó vào ngực. Người ta tập trung nước tưới lên thân thể hai cha con nhưng không cứu kịp. Con bé Lai Lào nhào tới ôm chầm lấy hai cái xác cong queo. Nó gào lên một hồi rồi ngất liệm.
Mùi thịt khét lẹt trộn lẫn với mùi vải cháy cùng với hình ảnh hai cánh tay lửa đốt nứt cả da của người cha ôm chặt lấy đứa con vào lòng đến độ dính vào nhau gở không ra đành phải để vậy liệm chung một quan tài, đã khiến cho bao nhiêu người rơi nước mắt và chắc chắn hình ảnh đó sẽ không phai mờ trong tâm khảm mọi người.
Sau khi chôn cất cha con thằng Hít Xăng, con bé Lai Lào bỏ nhà ra đi không về. Bố nó đi hỏi dò khắp nơi. Kẻ bảo thấy nó ngồi sau xe Honda của một người đàn ông. Người khác nói có chiếc xe con đến đón nó ngoài đầu cầu...
Vài tuần lễ sau, người đi rừng phát giác xác con Lai Lào đã rữa nát nằm co quắp trên mộ của cha con thằng Hít Xăng chôn tại nghĩa địa của thị trấn tận trên khu đồi đèo heo hút gió.
Mấy năm sau, trong những đêm mưa phùn gió bấc, cánh thợ rừng thường chứng kiến hai luồng ánh sáng bốc lên từ hai ngôi mộ của vợ chồng thằng Hít Xăng nhập vào nhau bay là là trên mặt đất rồi vụt tắt trên giữa tầng không. Người ta bảo đó là khí thiêng của ba linh hồn lạc lõng tìm đến với nhau! /.
Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
..
.Về đây với những bước chân trìu mến,
Những bước chân êm trên phố phường quen,
Nếu mưa rơi sẽ mát lòng em??
(Nhạc PD)
Tôi có nhiều kỷ niệm mưa với Quang.
Nhà tôi và nhà Quang sát vách nhau. Hai gia đình quen biết từ thuở mới di cư vào Nam, về ở xóm này, cùng làm ăn lập nghiệp, nhà tôi mở quán nước giải khát, nhà Quang bán bún riêu, thân nhau như người trong nhà.
Thời đó với chúng tôi, lũ trẻ con vùng ven đô, những cơn mưa mùa hè đồng nghĩa với những niềm vui, đơn sơ mà hạnh phúc. Cứ hễ trời gầm gừ, cả lũ lại réo nhau, chuẩn bị nhào ra ngoài khi những hạt mưa đầu tiên vừa chạm mặt đất. Quang luôn là người đầu tiên đến kéo tôi đi tắm mưa, có hôm tôi ngủ quên trên gác, Quang phải chạy lên đánh thức tôi dậy kẻo tôi lỡ?cuộc vui!
Trước khi đi tắm mưa khắp xóm, hai đứa tôi có nhiệm vụ mang mấy cái thau ra hứng nước mưa trước hiên nhà, đổ đầy thùng phi nước cho gia đình xài. Sau đó chúng tôi nhập bọn với mấy đứa khác, thỏa thích chơi dưới trời mưa, có khi chỉ là giành nhau đứng dưới một cái máng xối để cảm nhận những trận nước mát lạnh bao phủ toàn thân, hay nằm vẫy vùng dưới sàn xi măng bóng loáng của một sân nhà ai mà tưởng như đang bơi trong hồ nước thiên nhiên. Cho đến khi thấm lạnh mệt nhoài, chúng tôi mới chịu trở về, tắm rửa và trùm mền ấm áp chờ bữa cơm chiều. Hôm nào mưa to có sấm chớp, chúng tôi không được phép tắm mưa, tôi và Quang ngồi dưới mái hiên, buồn xo, nhìn bâng quơ nước mưa tuôn qua mái tôn xuống những thau chậu trước nhà. Rồi chúng tôi nghĩ ra trò chơi xếp những con thuyền giấy, thả xuống dòng nước đang cuồn cuộn chảy, thích thú reo hò xem thuyền của ai vững vàng hơn khi vượt qua sóng gió quanh co, và lúc nào cũng kết thúc bằng những trái bắp luộc nóng hổi mà má tôi hay má Quang mua được ngoài vườn hàng xóm.
Có một kỷ niệm với mưa mà sau này chúng tôi lớn lên, gặp nhau thường đem ra nhắc lại. Vào đầu hè năm ấy, chúng tôi vừa học xong lớp năm, cả nhóm được phép đi Sở Thú chơi. Ðến chiều khi đón xe bus trở về thì bị lộn xe, đưa chúng tôi đến một vùng lạ hoắc, chúng tôi ngơ ngác hỏi bác tài xế:
- Ủa, phải ngã năm Gò Vấp không vậy bác?
- Gò Vấp gò té gì ở đây! Chỗ này là Lăng Ông.
Chúng tôi mếu máo vì không còn đồng xu dính túi, những đồng bạc cuối cùng đã được xài ở Sở Thú trước khi ra bến xe. Cả đám đứng giữa đường, chưa biết phải làm gì thì trời kéo mây đen thui và ngay sau đó là những hạt mưa nặng chịch đổ xuống ào ào, chúng tôi vội tấp vào quán sửa xe đạp vỉa hè, cùng trú mưa với những người khác. Dù muốn dù không, khi mưa nhẹ bớt, chúng tôi phải đi bộ về nhà, đi tới đâu hỏi đường tới đó chứ không còn cách nào khác. Trời sẫm tối thật mau, mưa nhẹ hạt dần, mấy đứa đội mưa rảo bước trên đường, run như cầy sấy, răng đánh vào nhau cầm cập. Tôi bật khóc nức nở vì nhớ nhà, mấy đứa bạn xúm vào hỏi han, tôi càng khóc to hơn vì tủi thân, đến khi Quang dỗ dành thì tôi mới chịủhết khóc. Quang cũng thường bênh vực che chở tôi trong các cuộc chơi trong xóm. Chơi trò bịt mắt bắt dê, tạt lon, nhảy dây, hễ tôi bị ?đừ? lâu là Quang đòi tha cho tôi, Quang lớn tuổi hơn trong nhóm nên đứa nào cũng nghe lời, chơi lại từ đầu. Những buổi đi sinh hoạt đoàn đội, cắm trại hè, Quang luôn ở bên bảo vệ tôi khi cần thiết (kể cả những khi không cần thiết). Ðôi lần, tôi ngắm Quang và ngây thơ thầm nghĩ:? Mai mốt lớn lên, nếu không ai chịu lấy mình, thì mình ...cưới Quang cũng được chứ nhỉ!?
Lên cuối cấp hai, nhóm chúng tôi bắt đầu xa nhau. Một vài đứa nghỉ học lo mưu sinh giúp cha mẹ, tôi và Quang vẫn đi học nhưng khác trường. Gia đình tôi dọn vào căn nhà trong hẻm xóm trên, còn căn nhà mặt tiền kế bên nhà Quang chỉ để buôn bán. Vì thế, tôi ít có dịp về xóm cũ, những trò chơi tuổi thơ chỉ còn là kỷ niệm. Chúng tôi không còn gọi nhau mày tao, mà xưng tên, nghe cũng dễ thương. Thỉnh thoảng tôi có ghé qua quán nhà tôi buổi sáng để uống sữa đậu nành ăn gói xôi trước khi đi học, có gặp Quang hay bạn bè cũ, cũng chỉ kịp nhìn nhau cười, rồi thôi.
Một chiều chúa nhật, tôi rảnh rang đi tìm bạn xóm cũ, chẳng gặp đứa nào, nhưng may mắn còn có Quang đang ngồi trước cửa lặt rau muống phụ gia đình bán bún riêu. Tôi sà vào cùng nhặt rau, hai đứa hỏi thăm qua lại, nhắc vài chuyện ?khi xưa ta bé? rồi bâng khuâng tiếc thời gian qua mau. Quang bỗng nhìn tôi, ánh mắt?dễ thương lạ lùng:
- Em thua anh hai tuổi, phải gọi bằng ?anh? chứ!
Tôi mắc cở, không trả lời, nhưng cả buổi tối về nhà, lòng lâng lâng một cảm giác vui sướng nhẹ nhàng.
Lên cấp ba, chúng tôi càng xa nhau hơn. Tôi bận rộn với sách vở, môi trường mới, bạn bè mới, kỷ niệm với lũ bạn xóm cũ càng lùi dần vào dĩ vãng.
Khi tôi ra trường đi dạy, Quang đã học xong trường Cao Ðẳng Kỹ Thuật, đi làm ở xưởng Don Bosco gần chợ Gò Vấp. Một ngày đầu năm học, mưa đang cuối mùa, trời bỗng nổi cơn mưa như thác đổ ngay giờ tan trường, tôi và một ít học sinh phải nán lại, co ro trong lớp chờ cơn mưa tạnh. Bỗng có đứa học trò chạy từ ngoài cửa vào, hớn hở la lớn:
- Cô ơi! Cô ơi! Có?Thầy tới đón cô nè!
Báo ?tin vuỉ xong, nó nhe răng cười rồi biến mất ngoài hành lang. Tôi nhìn ra cửa lớp, thấp thoáng trong tranh sáng tranh tối của gió mưa và những loạt sấm chớp từng hồi, là dáng cao dong dỏng của Quang với chiếc áo mưa màu ghi dài, mái tóc ướt nước, nụ cười bừng sáng và đôi mắt trìu mến. Tôi vui đến ngỡ ngàng, nhưng vẫn không quên quay qua đám học trò nghịch ngợm đang xúm lại cười rúc rích, nghiêm giọng ra oai:
- Chú này là bạn hàng xóm thân thiết của cô, không phải ?Thầy, nghe chưa!?
Tôi bước đến, hỏi Quang:
- Ngọn gió nào đưa anh đến đây vậy?
Quang cười, nụ cười vẫn hiền như thuở xưa:
- Anh đi làm về ngang trường, thấy mấy lớp học còn sáng đèn, nên ghé vào.
Tôi hỏi cắc cớ:
- Vậy có mang áo mưa cho người ta mượn không đó?
Quang bối rối, phủi mấy hạt mưa trên áo:
- Anh chỉ có chiếc áo này thôi! Em mặc về nhà trước, trời sắp tối rồi!
Tôi lắc đầu:
- Trời! Ai nỡ lòng nào lấy áo của anh chớ! Nếu anh rảnh thì ngồi đây chơi với em và tụi nhỏ?
Quang cởi áo mưa, nhìn ra ngoài trời, những chiếc lá bàng rụng tả tơi trong sân trường lấp lánh dưới ánh đèn mờ, rồi ngân nga: ?Tháng sáu trời mưa, trời mưa không dứt, trời không mưa, anh cũng lạy trời mưa ??
Tôi nhắc:
- Bây giờ là tháng chín nghen anh!
- Thì bài hát tác giả viết sao, anh hát vậy mà ?
Mưa vẫn không có dấu hiệu ngừng lại, trời thì càng âm u, các em học sinh cũng đã được phụ huynh đến đón về, chỉ còn tôi và Quang đứng nơi hành lang lớp học. Quang đưa tay ra ngoài trời hứng mưa, rồi bước lại gần tôi, ngập ngừng:
- Thật ra, anh có ý định đến đây mời em đi uống cà phê và ăn hủ tíu ngoài chợ, em thấy sao?
- Dĩ nhiên là em không từ chối, nhưng trời tối thui và ướt át thế này, em xin hẹn lần sau. Giờ em chỉ muốn về nhà, ăn lẹ miếng cơm rồi lên giường nằm nghe nhạc, nghỉ ngơi.
- Thôi cũng được! Nào, em mặc áo mưa vào rồi cùng về.
- Thế còn anh?
- Mưa nhẹ rồi mà, anh ướt một tí cũng chả sao!
- Vậy thì em cũng chẳng cần áo mưa!
- Em biết cứng đầu từ khi nào thế? Hồi bé em ngoan hiền, có cãi lời anh bao giờ đâu?
- Chuyện này thì khác! (vả lại, em không ?hiền đâu ạ!), em dứt khoát không thể mặc áo mưa trong khi anh phải chịu ướt. Mà nè, hai đứa mình cùng đi dưới mưa như hồi bé, ôn lại cảm giác xưa, cũng thú vị đấy.
Thế là chúng tôi đạp xe chầm chậm về nhà dưới làn mưa lất phất. Ðêm ấy, tôi ngồi soạn giáo án mà còn thả hồn theo mưa gió bên ngoài, tưởng tượng vài vần thơ dự định sẽ khoe với Quang, có đoạn cuối ?rất tình:
Chiều dần tàn, cơn mưa chưa dứt
Hai người, chỉ một áo mưa che
Nhường qua nhường lại, thôi cùng ướt
(Ðêm về tôi cảm, người biết chưả)
Chia tay, hẹn gặp nhau lần tới
Xóm nhỏ đỏng đảnh thật dễ thương
(Cũng giống như tôi- người thường nói)
Chỉ một cơn mưa làm vấn vương!!
Có ai ngờ đó là mùa mưa cuối cùng của chúng tôi, và bài thơ tôi viết còn mãi dang dở. Tuần lễ sau, Quang lên đường vượt biển. Thì ra, hôm ấy Quang đến mời tôi đi uống cà phê để tạm biệt, nhưng chỉ vì cơn mưa mà chúng tôi mất cơ hội nói lời giã từ. Quang đi hai tháng vẫn chưa có tin tức gì, gia đình Quang mỏi mòn chờ đợi, và tôi cũng lên đường.
Dù là đầu tháng mười hai, nhưng hình như là một cơ duyên với mưa, tàu của tôi gặp một cơn mưa bão bất ngờ chỉ sau hơn vài giờ ra khơi. Mưa biển thật dữ dội, điên cuồng và khủng khiếp. Máy thoát nước dưới hầm tàu bị hư, chúng tôi hứng chịu những đợt nước mưa lạnh buốt, trong tiếng sóng gào thét của biển cả và tiếng lòng cầu ơn Ðấng cứu tinh. Rồi thì sau cơn mưa trời lại sáng, biển tàn bạo nhưng biển cũng bao dung, đưa chúng tôi đến bến bờ bình an, nhưng nỗi ám ảnh về cơn mưa trên biển làm tôi ?sợ mưa!
Nhưng tôi chỉ sợ mưa biển, còn mùa mưa của chúng tôi vẫn luôn là một miền ký ức tươi đẹp, ngọt ngào. Dù biết đời bể dâu biến đổi, cảnh cũ người xưa chỉ còn trong trí nhớ, tôi vẫn cứ mơ một ngày (có ai đánh thuế ước mơ bao giờ!), tôi được về lại xóm cũ, một chiều mưa (dĩ nhiên!), tôi sẽ thả những chiếc thuyền giấy xuống ?dòng sông nhỏ? trước hiên nhà, cùng với đám bạn thuở ấu thơ, kể cho nhau nghe nỗi vấn vương những sợi mưa dệt đầy một trời thương nhớ.
Quang ơi, bây giờ anh ở đâu? Tháng sáu về rồi đấy, anh có lạy trời mưả!
Edmonton Tháng 6/2021
Giải Thoát là truyện mới, giống như truyện dịch từ một nước. Mặc dầu người sáng tác là người Việt Nam đã và mơ đi rất nhiều nhưng chưa có đến với quốc gia nào, ngoài quê hương mẹ đẻ là Việt Nam, quê hương thứ hai là Hoa Kỳ, nơi mà đất cô ta sinh sống sau nàỷ Câu chuyện được viết bởi sự tưởng tượng nhiều nguồn, nhiều động lực khác nhau. Một yếu tố lớn nhất là? Tác giả rất yêu rừng. Rừng là nơi cô thường gắn bó với tuổi thơ. Là nơi quê hương cô không bao giờ quên đựợc?
Nàng như có đôi cánh
Bay đi khắp đại dương
Nàng có được đạo hạnh
Như hoa nở ngát hương
Nàng trí tuệ phi thường
Nhưng trái tim băng giá
Nước mắt hay ngọc nhả
Nhả một đời đau thương
Ta trọn đời vấn vương?
(Trích bài thơ: Nàng Như Ðôi Cánh- Cùng tác giả.)
Chương Một
Anne năm mười sáu tuổi cô trở nên xinh đẹp tuyệt vời. Anne biết hát hay, múa dẻo, có năng khiếu về hội họa nữa. Cô sinh ra trong một gia đình của người đàn ông tên là Mittal là chồng, và vợ là Usha, khi tuổi họ gần bốn mươi. Hai ông bà Mittal, Usha không biết từ đâu họ đến ở chân núi Uranta, tại vùng thượng lưu và tả ngạn dòng sông của A-u-i rat.
Ông bà có một căn nhà nhỏ, dựng lều bán cháo nơi đây, khách của họ là những thương gia, hoặc du lịch đi qua vùng này. Họ đi rất nhiều cách, thuyền bè, leo núi, đường bộ, xe ngựa, hóa giang v.v? Ông bà Mittal, Usha tiếp đón chỉ đặc biệt bán cháo ngô và đường. Hoặc cháo gạo trắng tinh, với hành lá xanh, tiêu rắc thay phiên?
Nhiều vị du khách cho họ lương lẩu, chình cá, cua rạm, ốc nghêủ Cá nước sông có, cá nước biển có. Nhưng ông bà nhất quyết từ chối, ông bà đẩy lui những thứ họ quảng cáo, và cho lại khách, ông bà không thể nghĩ mà nấu bán như vậy được? Vì đi con đường mình đã chọn. Tuy thế ông bà bán vẫn được nhiều khách, và họ rất vui nhộn với khách. Niềm vui họ thu từ những tiếng nói, nụ cười của khách bốn phương. Sự hài lòng của khách, khách họ thuận ý gật đầu, hay khen ngợi, hay tán dương v.v? Họ thoải mái với khách hàng họ lắm v.v? Nhất là hai cữ mới sáng sớm và về chiều, khách đầy ăm ắp trong căn lều, đến cả căn nhà của họ nữả
Nhắc lại Anne năm lên mười sáu cô xinh đẹp tuyệt trần. Việc học hành của cô có một chiêm tinh gia chỉ dạy, luôn mười thiếu nữ theo học dưới chân đồi. Cô học hành xuất sắc, cô nổi trội hơn hết. Cô ít nói nhưng khả năng diễn tả văn rất lưu loát, tinh thông. Vị chiêm tinh gia Ambani, đánh giá cao về Anne. Lúc nào ông vẫn cứ bảo ?nàng tiên bé bỏng? này:
- Con là đứa học sinh xuất sắc nhất, không thể chê được. Song con cần phải cố gắng trau dồi kiến thức văn chương hơn nữa, và nhất định phải khiêm nhường, phải biết sự hữu ích đó.
- Dạ con hiểu. Xin cám ơn thầy chỉ giáo.
Anne luôn để tâm lắng nghe trả lời tương tự những câu.
Nhà chiêm tinh Ambani vẫn cứ vui vẻ, hòa nhã hài lòng về Anne hơn những học sinh khác. Ambani vẫn là người thầy thường xuyên quan tâm đến tư tưởng Anne nhiều nhất. Ông thương cô hết mực nhất. Thời khóa biểu của vị chiêm tinh gia là dạy từ 10h đến 2h chiều. Còn lại sáng sớm ông uống trà đọc sách. Buổi chiều ông lại đọc sách uống trà và đi nghỉ ngơỉ
Ngoài công việc học hành Anne thường phụ cha mẹ. Cô rửa nồi xoong, lau chén bát, hoặc kéo nước, hoặc cô vẽ tranh tặng cho khách. Cô tặng họ ai cũng thích Anne. Họ như thấy được phước thiện từ cô. Bởi cô xinh đẹp hiền lành, nói năng lễ phép lại dịu dàng, như thiên thần mà!
Anne lại có một đặc điểm riêng, cô rất yêu rừng, vào những ngày nghỉ học cuối tuần, cô thường đi sâu vào thung lũng, hoặc núi cao để nghe chim hót, ngắm hoa rừng nở, hoặc nhìn thảo mộc kia phôi thai. Nhìn những con suối chảy róc rách, tất cả với những gì của rừng huyền bí, nói chung cô rất yêủ
Ông bà Mittal không vui. Nhưng Anne cứ giải thích là niềm vui của cô. Cô không đi xa, chỉ lân la vùng lân cận thôi. Thấy con đi thưa về trình nên ông bà cũng gượng sầu làm tươi, trân trọng con. Biết nói làm sao hơn khi ông trên chấm trán bốn mươi mới sinh ra cô đó? Hy vọng của ông bà duy nhất là trời thương đất quý, sẽ không phá họ những giấc mơ ngọt ngào! ?Nghĩa là Anne sẽ là đứa con đầy lòng hiếu thảỏ Ông bà mong những đấng thiêng liêng độ trì giúp họ.
Song Anne càng đi vô rừng càng đắm say rừng. Cô đã đi sâu hơn, óc khám phá thế giới rừng của cô càng tha thiết hơn, tiếp nối hơn. Bỗng một hôm cô ham thích đi, cô đi mãi cả hai đêm. Cô quên luôn cha mẹ, quên lối về? Cô phải ăn những hạt dẻ hoa quả trong rừng cô lượm nhặt được, cô uống nước suối trong khi cần. Nhưng cô không đói bụng, mà còn xinh đẹp hơn, huyền hoặc hơn, lạ thường hơn... Anne yêu gió rừng vi vút thổi như từng yêu hơi thở mình. Cô mãn nguyện và thích hát ở nơi đó? Tiếng hát cô bay bỗng ngút ngàn, cô biết múa, cô múa cho suối nghe. Cô đi cho hoa rừng thấy, cô đứng cho rừng thần biết. Cô cười cho mây kia vạn vật biết buồn...! Như có một cái gì thôi miên, cứ dưng đầy lạ thường cuốn hút trong cô trùng điệp?
Rồi một đêm đến, trong rừng sáng rực ánh trăng bàng bạc, ngày thứ ba cô mỏi chân hơn. Anne ngồi phịch xuống, len lách qua thung lũng dưới chân cỏ, suối nhỏ. Cô đã cầu nguyện niềm say mê. Anne lẩm nhẩm và cô đưa hai tay trỏ đánh chéo với nhau, để tạo một góc vuông. Cô đọc:
Ước gì ta có đôi cánh,
Ðể bay khi cần thiết,
Ước gì thượng đế biết
Ðể ta khỏi mỏi chân
Ước gì nơi rừng thần ?
Cho ta lời cầu nguyện?
Anne đọc bằng thơ với những câu ấy hai lần. Lời cô bé cầu nguyện vừa xong. Nhanh như chớp, khoảng trời xanh thưa lá, như dạt rộng ra. Trời cao như động cảm. Mây ngàn như khoan dung. Gió kia như nhắn gởỉ Ðã thổi cho một vị thần linh bay đứng trước mặt Anne ba thước và bảo:
- Này cô gái bé nhỏ xinh đẹp kia. Ước mơ của cô không lớn lắm, nhưng không thể gọi là nhỏ lắm. Từ nay nhà trời đã cho cô đôi cánh. Nó sẽ mọc ra dưới hông sườn của cô, nếu mỗi khi cô thấy cần thì xin hãy cầu nguyện. Cô phải tuyệt đối giữ bí mật, cô không nên nói cho ai được biết. Nó sẽ giúp bảo vệ cô, nuôi lớn ước vọng cổ
Anne mở mắt ra bàng hoàng nhưng muốn ứa lệ, cô sờ vào hông sườn, cô mừng vui khôn xiết. Ôi ta có được niềm tối ưu đó chăng? Ðôi cánh đã mọc ra lúc nào hay quá, nó đang nhấc cô đưa lên một cách nhẹ nhàng, rồi uyển chuyển bay. Lúc đầu chậm? Một đoạn thì mạnh hơn, bay lên hơn? Cô bay cao dìu vợi, bay xả Cô bay rất mau, rồi thánh thoát... Anne như trở nên vị thiên thần bé nhỏ. Nàng vui vẻ mỉm cười định những hướng bay đi. Trăng soi lấp lánh chân nàng như những tia phóng xạ tuyệt vờỉ
Trong khoảnh khắc Anne tới một nơi rừng già nhất, sâu thẳm nhất, núi cao nhất, hang động nhiều nhất. Khi lên trên đỉnh núi cô nhìn được các miền lân cận. Ôi đẹp như tranh, như thơ. Cô sung sướng, mãn nguyện trong một giấc mơ đẹp. Sau đó Anne tản bộ. Cô đứng lại tại một dòng suối soi mình xuống dòng nước trong ngần. Sao bỗng dưng cô thẩn thờ nhớ cha mẹ, cô định bay về? Trời cũng chợt về sáng.
Thì đột nhiên cô nghe tiếng hát ai lanh lảnh, trữ tình thanh thanh, âm ấm.
Tiếng hát càng đến càng gần, thì một chàng trai xuất hiện dắt trong tay một con chó nhỏ dễ thương. Anne đưa mắt nhìn họ. Chàng ngưng hát và lẹ như cắt hỏi:
- Xin chào cô bé xinh. Tôi có mơ không đây. Tôi không biết nữa ôi chao! Ồ hi cô tên gì? Tại sao đến nơi này? Quê hương ở đâu? Chúng ta có thể là bạn đựợc không? Cô bé?
Anne lặng thinh lắc đầu chưa kịp nói gì. Gió từ đâu mơn man mái tóc nàng. Trăm hoa như đổ về trên môi nàng tươi thắm hơn. Mùa xuân như ghép trên mắt nàng thêm gợi cảm! Chàng trai sấn tới nắm tay Anne tươi tắn giới thiệu một cách mạnh dạn về mình hơn.
- Cô có nghe tiếng hát của tôi không? Tên tôi là Evan? Tôi rất hiền lành, và hãnh diện về tôi. Tôi không làm hại cô đâu, cô đừng sợ. Hỡi cô gái xinh đẹp nhất trần gian. Hỡi một thiên thần, một tiên nữ trần gian mà tôi được gặp?!
Anne vẫn làm thinh. Chàng nói nhanh tiếp:
- Chúng ta sẽ làm quen nhau cô đừng ngại. Cô có thể đi theo tôi. Rất hấp dẫn cô ạ, không ai làm hại một cô gái đẹp như cô đâủ Tôi hứa. Evan sốt sắng nhắc lại.
Anne nghe rất miễn cưỡng. Tuy thế cô bị cuốn hút bởi lòng tò mò, mau chóng của mình. Không hiểu sao cô lại bước đi một cách chậm chạp theo anh qua một con suối nhỏ nữa. Evan hỏi tiếp nữa:
- Cô tên gì? Tôi muốn biết.
- Tôi tên là Anne
- Tên cô thật dễ thương!
Anne làm thinh như dò xét chàng. Evan tiếp tục sôi nổi:
- Tôi cũng yêu rừng mới vô đây. Cô có thích nghe tôi thổi sáo không? Cô có thể ngồi nghe tôi thổi sáo, ngắm hoa súng nở dưới hồ. Vâng tôi mời cô thưởng thức nhé?
Thật trước mặt cô là cái hồ rộng hoa súng nở đầy, nước trong xanh, im lặng dịu dàng? Cô có thể soi thấy rõ từng cộng chong mày xanh đậm đặc của cô, hoặc soi tỏ từng chiếc răng duyên dáng trắng ngần của cô, hoặc một chiếc eo thon mỏng manh quyến rũ của cô. Không có ngôn ngữ nào tả hết sức cuốn hút nơi hồ này. Mà Anne đã cảm giác...
Thú thật Anne lắng nghe tiếng sáo của Evan dưới đất trời. Vâng! Cảnh vật đất trời như chìm trong tiếng sáo ru. Một chàng trai tuyệt vời tài hoa. Cô suy nghĩ, rồi đưa mắt nhìn anh vẻ đầy thán phục.
Chàng trai nhìn nàng, anh cười rất tươi đẹp. Khiến Anne bỗng dưng giảm đi sự sợ sệt...
Evan thong thả bảo:
- Ðó tôi đã chứng minh tôi rất hiền lành. Tôi có thể mời cô về dinh thự tôi. Và tôi sẽ kể chuyện cho cô nghe, giống như thần thoại.
Anne thấy vui vui. Nàng đã không cam lòng. Nàng gật đầu, thơ ngây lẽo đẽo bước cùng Evan thêm. Cô theo anh dạn dĩ về dinh thự như biết anh từ thuở nào... Cô hoa mắt bởi anh có một dinh thự đẹp quá giữa núi rừng! Cô nghe anh kể chuyện, và tự nhiên họ như thân nhau tưởng chừng như cũng từ mấy kiếp?
Anh bảo:
?Anh là con của một lãnh sự thẩm phán. Phó Thống soái của một thành phố hải đảo. Nhưng anh không thích cuộc sống nơi kinh thành. Anh đi chu du khắp xứ. Rồi anh muốn sống nơi rừng núi. Anh vẽ tranh, làm thơ, chơi nhạc. Anh rất chuộng sự thanh bình của thiên nhiên núi rừng?
Im lặng tý Evan nói thêm:
- Cha mẹ anh bằng lòng với ước vọng của anh. Một ngày nào đó Evan có thể gặp một người yêu, anh tìm thấy trong tiền kiếp. Là một ngày nào đó anh sẽ quay về với gia đình? Ðó là những gì Evan từng cho ý tưởng đẹp?
Anne nghe anh kể. Không hiểu sao cô trở nên nhanh chóng cảm động. Anh lấy những thức ăn trong hộp chiêu đãi cho cô. Cô thật sự như bị anh bỏ bùa phép với những lời nói. Anne đam mê nghe. Anh tiếp tục bảo:
- Anh có một chiếc thuyền, những kẻ phục dịch đưa những thức ăn, đồ uống cho anh, sau mỗi kỳ, Evan sống theo như một vương giả kỳ bí?
Anh còn nói anh ở nơi này trên năm tháng, anh rất lấy làm hài lòng. Anh thích lắm v.v?
Anne lắng nghe Evan kể hết mình. Cô cảm động mỗi lúc mỗi hơn. Ðôi lúc cô vẫn hoang mang. Nhưng chất giọng chàng ấm êm, trông trẻ tuổi, hào hoa lịch duyệt quá. Chàng như chiến thắng đi lòng nghi kỵ nơi nàng. Anne như hết sức bị mê hoặc, nàng lãng quên bao chuyện khác!
Chẳng mấy chốc Anne bị ma lực bởi đôi môi chàng, cặp mắt chàng, tay chân thơm tho của chàng, và cả thân thể đẹp chàng nữa. Anne như bị anh làm phép cảm kích? Cô như bị thôi miên?
Chính Evan có phép lạ. Anne không hề hay biết đấy thôi.
Anne chỉ biết kết quả là. Sau đó cô đã nhanh chóng yêu anh. Và thèm khát sống với anh như một thứ hạnh phúc đang cần, đường tình mới chớm nơi cô tơ vương! Cô như lạc vào một thế giới khác lạ. Nhưng cô rung động chân thành. Cô vẫn thích lắm!
Anne ăn những thức ăn cùng anh, uống những thức uống cùng anh. Tất cả đồ đều đóng hộp, đổ ra ly kiểu, chén kiểu trước khi dùng. Cô đã bị cuốn hút mạnh, rất mau lẹ. Và cô trở nên yêu anh. Yêu như thật say đắm!
Anne quấn quít bên Evan, tưởng chừng như không xa được nữa. Nàng cũng không hiểu cái gì nơi mầu nhiệm. Anne ở bên Evan trong bảy ngày trôi quả
Lúc nào hai người cũng dắt một con chó nhỏ. Ði ngắm hoa rừng, nghe chim hót, nhìn thung lũng lên tận trên cao, hoặc xuống dòng sông sâu, làm thơ, vẽ tranh. Ngồi bên nhau, tình tự thủ thỉ?
Ðôi lúc chàng còn giới thiệu qua ống kính để nàng nhìn về ?vương quốc? của cha mẹ chàng, đang ở đó như một hải đảo, xa xa cách trở?
- Thật là sầm uất. Anne vui vẻ tán đồng nhìn chàng.
Thắm thoát trên một tuần qua nhanh Anne xa nhà! Cô bỗng nhớ cha mẹ. Cô muốn về. Cô nói với Evan, cô sẽ kể chuyện này cho cha mẹ cô nghe. Nhưng Evan đã cản:
- Em Anne thân yêu! Chúng ta cũng đừng nên tiết lộ những gì quá sớm, không thuận lợi cho chúng ta đâu? Hai ta sẽ gặp khó khăn. Hãy chờ một thời gian tý nhé? Em yêủ
Anne suy nghĩ đồng ý. Nàng gật đầu bảo khẽ:
- Em sẽ nghe anh. Anh thân yêu. Anh hoàn toàn đúng.
Anne chia tay chàng, lòng buồn như đứt, nhưng nàng không thể ở lâu với chàng hơn! Nàng biết cha mẹ chỉ có một mình nàng. Và nàng đã đi như vậy là vượt quá luật lệ rồỉ!
Anne nghĩ ngợi Evan không sai. Vì nàng có đôi cánh nàng không cho người khác biết. Vậy còn tình yêu nàng tại sao không bí mật, phải tiết lộ chứ? Hãy còn sớm lắm? Nàng cứ để cho hai con tim thì thầm biết thôi. Chắc chắn nàng cũng không nên để lộ diện cho ai biết thì hay hơn? Nàng thầm nghĩ. Và nàng thực thi trong cảm giác đó? Thế rồi Anne bay một cách bí mật về với cha mẹ.
Chương hai
Anne về đến nhà nàng cúi đầu tạ lỗi với cha mẹ. Vì tội nàng ham đi chơi xa, để cha mẹ phải xót lòng thương ngóng lo hơn bảy ngày trôi qua!
Thấy con xinh đẹp và còn quay về, ông bà Mittal mừng rỡ. Bao nhiêu giận hờn ông bà như trút bỏ vào xó. Sau đó Anne kể những gì cô đã thích trong rừng. Ngoại trừ điều chàng trai Evan nàng vẫn còn mãi giấủ
Cô cũng bắt đầu phụ lại cha mẹ như công việc thường ngày. Lau chén, rửa bát, kéo nước, pha trà, vẽ tranh v.v?
Khi gặp lại cha mẹ Anne giữ được nụ cười tươi hồn nhiên. Song chẳng bao lâu, dần dần nó biến mất. Anne quay lại nhớ Evan trong rừng quay quắt. Cô tự nhủ, cô phải nói lên sự thật cho cha mẹ nghe. Cô không thể sống thiếu anh, cô không thể thiếu Evan được nữa rồi! Người con trai đẹp mã đủ tài làm cô đem lòng yêu dấu!
Một hôm cô nói với cha mẹ:
- Cha mẹ ơi con yêu một người con trai tên là Evan. Con gặp trong rừng. Con không thể sống thiếu anh ấy. Con đã vắng xa bao ngày, là bao nỗi nhớ thương, dâng ngập? Cha mẹ ơi, con không thể sống xa chàng được nữả
Cha mẹ Anne chẳng vui sướng chút nào khi nghe được tin, mà họ tỏ ra đau đớn dằn vặt. Họ nghe như một tai họa bất ngờ bởi Anne. Ông Mittal phản đối với Anne nhanh:
- Cha mẹ không cho con vào rừng nữa, không đi vào sâu nữa, không đi lâu hơn một ngày nữa. Con không thể hồ đồ trong yêu đương hơn nữa, con gái ạ?
Nhưng Anne có đôi cánh, cô giấu giếm cha mẹ đến gặp Evan, trong những giờ phút cô thấy nhớ nhất. Anne đi bằng đôi cánh thiên thần những khi cô muốn. Cô đọc thần chú đôi cánh ấy hiện ra dưới hông sườn. Cứ đưa Anne đi bay lên cao và biến mất? trong định hướng ý chỉ cầm lái của tay cô!
Evan ngày càng lôi cuốn Anne đi vào phía mình, bằng đam mê, bằng giọng hát, bằng vũ điệu. Lời nhạc, ý thơ, cả dung mạo mạnh mẽ, đẹp trai của chàng nữa. Chỉ trong nháy mắt Evan vẽ đủ thứ. Anh vẽ bức tranh về nàng rất toàn diện. Người như thế cô kiếm đâu được trên thế gian này? Anne. Nàng thấy thật sự hạnh phúc nếu nàng sống chung với chàng. Rồi được Evan yêu quý say đắm, như thế bên chàng này đây!
Nhưng Anne, nàng không thể giấu được cha mẹ lâu hơn. Và nàng không thể hành động lén lút mãi như vầy. Nên nàng bàn với Evan khi gặp lại Evan:
- Anh thân yêu! anh có thể đến thăm bố mẹ em. Cầu hôn em, nếu anh yêu em thật sự! Chúng ta ở bất cứ nơi đâu bên nhau, có nhau trên thế gian này. Ở với cha mẹ em, về lại cha mẹ anh, hoặc rừng sâu núi thẳm v.v? Em không muốn mình phải cố sức che giấu ba mẹ.
Evan do dự và hứa:
- Vâng Anne thân yêu! Anh nghe. Anh sẽ cầu hôn em?
Anne xúc động. Nàng mừng rỡ ôm chàng như muốn khóc trong hạnh phúc. Evan trông Anne càng xinh đẹp duyên dáng, khỏe ra hơn.
Anne gặp gỡ Evan cũng thường mà ông bà Mittal không hề biết. Rồi một hôm Anne đưa Evan về. Anne giới thiệu:
- Cha mẹ ơi, đây là anh Evan. Chúng con đã yêu nhau, con từng mong cha mẹ cho anh ấy cầu hôn con. Con thật sự muốn sống có chàng bên cạnh cuộc đời.
Evan cũng phủ phục dưới chân ông bà Mittal thưa:
- Chúng con yêu nhau bí mật, hôm nay thưa ba mẹ chúng con muốn được tác hôn. Nhưng Anne sẽ sống với con, có thể rời xa ba mẹ?
- Chúng tôi không tin hết một lúc những gì cậu nói. Thật sự của tình yêu là cần thử thách?
Ông Mittal liếc xéo Evan nói tiếp:
- Hơn nữa chúng tôi chỉ có mỗi người con đó Anne. Chúng tôi không muốn cách xa nó.
Anne như nhận lấy khổ đau từ lời nói cha mình. Cuộc nói chuyện họ khép lại ngắn ngủi. Sau đó mẹ Anne là Usha mời tất cả họ dùng bữa cơm mà bà tự nấu, chờ đợi giờ dọn rả
Không hiểu sao Evan không mấy thích thức ăn trong gia đình Anne lắm. Chàng thấy khó chịu, không dễ dàng khi thưởng thức. Ðiều đó làm cho Anne lo lắng, ông bà Mittal cũng kém vuỉ
Chương Ba
Sau khi tiễn Evan đi rồi Anne quay lại với cha mẹ. Cô vẫn phải nghe. Ông Mittal không vui nói tiếp:
- Cha mẹ chỉ có một mình con, con hãy ở đây với cha mẹ. Cha mẹ không muốn cho con đi đâu cả, chỉ muốn sống chết với chân núi này thôỉ Con có thể lấy một chàng trai vùng lân cận này, phụ cận nàỷ Săn bắn, phát rẫy làm nương, chăm tằm, nấu rượu, trồng nho, trỉa bắp, thương mại, lái tàu bè, dùng ngựa chở gỗ mướn v.v? Rất nhiều nghề con chọn lựả
- Thưa cha, thành phố hòn đảo cha mẹ anh không xa đây lắm. Con có thể đi với anh ấy bằng đường sông biển. Con có thể về thăm cha mẹ. Hơn nữa cha mẹ bằng lòng cho con tác hợp với anh ấy. Con có thể thuyết phục anh ấy ở lại đây.
Anne cố năn nỉ. Cha Anne Mittal không để ý chi lời thỉnh cầu của Anne. Ông chỉ tập trung cho nguyện vọng ý mình. Và họ đang làm việc.
Bà Usha hiền lành không nói thương con, chỉ có ông bố Mittal lắc đầu lia lịa, không tán thành với những dự định của Anne. Cuộc nói chuyện của Anne không thuyết phục bố mẹ mấy. Anne cô rất buồn. Ông bà Mittal vẫn tiếp tục cuộc sống sinh nhai. Họ lo cho tiệm lều, chòi tranh, căng lá bán cháo của họ rộng thêm, không mấy quan được tâm cho Anne.
Nhưng rồi một hôm sáng sớm ngủ dậy, sương chưa tan, gió còn lạnh, nhưng hương thơm những cách hoa kia, như nồng nàn tương phản, ông nhìn lấy làm lạ bảo bà:
- Tôi đã có những ý nghĩ. Tôi cho nó đi lấy chồng, chỉ mong ở vùng lân cận. Vương quốc nào xa, lãnh địa nào khác, tôi nhớ con và lo ngại, tôi không bằng lòng. Tôi sẽ đi nhờ nhà chiêm tinh Ambina tìm cách giải cứu cho tôi, bà có thể đồng ý chứ?
Bà Usha cũng nhìn những cánh hoa thơm nồng lay trong gió sớm đó, mà mắt bà lơ đãng? Rồi quay lại bà trả lời:
- Tốt. Tôi biết làm sao bây giờ, tùy vào ông quyết định. Chắc là tôi chẳng dám thay đổi ý ông.
- Vậy được nhé. Ông Mittal nói trong tâm trạng can đảm.
Bà vợ há hốc nhìn ông chồng, như đặt tâm lý chung vào ông. Bà có cả hai nghi vấn và hy vọng. Sợ sệt và tin tưởng.
Ðến một ngày nọ ông Mittal mời nhà chiêm tinh gia Ambina đã từng dạy mười học sinh dưới chân đồi đến nhà mình. Ðến nhà ông Mittal khổ sở trình bày về Anne cho nhà chiêm tinh gia. Nhà chiêm tinh gia Ambina bày tỏ với ông Mittal. Ðể tìm cách giải cứu cho Anne:
- Ðúng ngày rằm ngày tháng bảy ngày sinh của Anne. Ông đem vị thuốc của tôi, được chế biến pha trong nước, phơi ba sương đêm? Trong một ly sứ chưa bao giờ dùng đồ mặn. Khi ăn cơm xong sẽ cho cô ấy uống, giống như dùng trà thường ngày.
Bố Anne lắng nghe hồi hộp thì nhà chiêm tinh dặn thêm:
- Chỉ có lấy được sương mới có tác dụng, sắc đẹp cô ấy sẽ giảm xuống, cô mất đi sự lỗng lẫy. Cô ấy đột biến thành một thiếu nữ bình thường, ôi là rất bình thường?
- Vậy có thể được sao nhà chiêm tinh Ambina? Mittal ngờ vực nhấn ý hỏi.
- Vâng thế đấy. Con quỷ lửa sẽ thấy hương sắc của Anne rất bình thường này, thiếu đi sự mặn mà, nó sẽ tìm cách tháo lui. Mà hãy nhớ kỹ rằng, không cho Anne biết. Nếu cũng có thể xảy ra rắc rối. Hy vọng sau đó Anne sẽ thông minh phát hiện rồi chiến thắng nó. Tôi Ambina không thể đoán hết trước. Song chiến thắng được nó. Cô ấy sẽ xinh đẹp, duyên dáng bội phần sau nàỷ
Ông Mittal đem cất thuốc. Nhà Chiêm tinh Ambina ra về. Rồi một hôm đến bữa ăn. Vợ chồng ông Mittal bỏ thuốc vào bình, một ly cốc sành sứ nó vẫn như thường, khi để bên cạnh. Tất nhiên họ đã chọn ly cốc không bao giờ dùng cho đồ mặn trước kia. Anne liền rót bình trà vô ly và uống, sau một lần ăn cơm.
Cô có cảm giác vị đắng ngấm, nhưng cô không nghĩ gì khác hơn, có thể là chất trà gắt gỏng nặng chăng? Cô nhìn lại kỹ bình, ly tách nước mới uống xem kỹ hơn. Ôi là lạ chi, độ đậm đặc kỳ bí trà mà cha Mittal tẩm cho cô chắc? Cô nghĩ trong lòng, cảm giác thấy mệt đến, rồi cô chui vào phòng riêng ngủ ngay lập tức.
Ngủ say một giấc Anne tỉnh thức dậy. Ông bà Mittal nhìn rõ hiệu lực vô cùng. Sắc đẹp của Anne thuyên xuống một cách đột ngột. Ông bà mừng thật, nhưng cũng hơi buồn. Vì một đứa con gái xinh đẹp rực rỡ của ông bà lại sa sút nhan sắc một cách đáng tiếc!
Còn phần Anne vẫn cứ nhớ đến Evan của nàng. Cô bị khống chế bởi lời nói nơi cha Mittal. Nên Anne tỏ ra vâng lời. Ðã lâu ngày không gặp Evan, nàng nhớ quá không chịu nổi. Anne soi gương thấy diện mạo của mình khác thường, không giống như cô thường ngày. Cô tự tay đánh nhẹ mặt mình mấy lần, mấy lượt với cảm giác kỳ dị. Nhưng Anne nghĩ chắc lẽ là. Nhớ Evan nên nàng thay đổi dáng điệu, mặt mày, sắc nét một chút chăng?
Vẫn không sao chống lại sự nhớ nhung. Nàng phải đi tới bờ suối đọc thần chú dùng đôi cánh để đi thăm chàng.
Evan thấy nàng xuất hiện không còn nhan sắc diễm lệ, chàng sửng sốt. Anne cũng kinh ngạc hỏi:
- Anh không nhìn ra em sao anh thân yêu?
Evan như đánh mất phần hồn trở về ngạc nhiên đáp:
- Anh nhớ em, nhưng??
- Nhưng sao, anh thân yêu? Anh không thấy tội nghiệp em ư? Anh không mong thật sự hôm nay em đến thăm ư? Nàng nói với một thái độ ngây thơ, kêu gọi thảm thiết.
Evan trả lời:
- Vâng, vâng? anh thấỷ Nhưng tại sao Anne kém đi phần hương sắc. Anh thấy lạ lùng quá, không phải một chút thôi? Mà em hoàn toàn hơi khác lạ.
- Bởi vì em nhớ nhung anh, nên em thuyên giảm sa sút chớ gì? Anne nói mà vẫn cười buồn.
Anne nói xong, và muốn bá cổ Evan. Evan lại muốn lẫn tránh. Evan trả lời.
- Không phải thế. Anh đang bệnh. Anne có thể lây nhiễm từ nơi anh.
- Không, em yêu anh chúng ta có chết cùng chết. Em muốn thế mà?
Evan nhìn vào mắt Anne như nói thật:
- Chúng ta cần sống em thân yêu ạ! Hãy nghe anh đi!
Anne mất vui hơn, tiu nghỉu cô cũng buông Evan ra. Lòng đầy thất vọng.
Thấy Anne như thế, Evan lại ôm nàng vào lòng hôn nàng. Anh ghì nàng xuống. Song cô vẫn cảm thấy có cái gì nhạt nhạt, không làm cho cô thỏa đáng lắm?
Anne nói:
- Anh vẫn có thuốc phòng khi đau bệnh chứ anh yêu!
- Anh chỉ lo cho em, đừng lo cho anh.
Evan nói thêm:
- Hãy đợi cho anh một ngày khỏe mạnh. Anh sẽ đền tình yêu cho em tất cả?
Anne miễn cưỡng:
- Em chỉ thích tình yêu anh hôn em, và thật say đắm ngay bây giờ anh Evan ạ. Em yêu anh rất nhiều. Anh có biết?
- Anh bị hơỉ Anh xin lỗi em yêu ạ!
- Anne đùa với anh, những điều của tình yêu? Nhưng em chỉ sợ em không mặn mà xinh đẹp. Anh thiếu đi sự chăm sóc say đắm, và tha thiết em. Có đúng như vậy không anh yêu?
- Ô không? Không không, anh không bao giờ? Anh vẫn yêu. Cho anh xin lỗi Anne nhiều vì anh bệnh.
Evan từ chối khéo. Anne buồn mà chẳng cần nói nữa.
Sau đó Evan lấy đồ ăn cho Anne ăn. Nhưng anh không chịu hát cho Anne nghe, không chịu vẽ cho Anne nhìn, và không chịu đưa cho Anne đi chơi, như những lần anh từng đưa Anne đi xem thung lũng suối reo, chim hót, gió ca, hoa nở? Cuối cùng Anne chấp nhận ra về. Nàng không được tâm sự với chàng nhiều như mong muốn! Ðó là ý chàng Evan. Anne đâu có biết Evan là một con quỷ lửa đã thay đổi thái độ, cạn lòng với một giai nhân nàng?
Số là Evan nguyên là một tên tướng cướp, hung hãn hay giết người cướp của tại một thành phố đảo nhỏ. Lại chuyên hãm hiếp những cô gái đẹp vô tội vạ. Evan bị cáo buộc vào truy nã, xử tử. Anh được thân nhân cho xác vào hòm để chuẩn bị chôn cất. Nhưng trước khi người ta chôn phải thắp ba ngọn nến đợi giờ giấc, theo lễ nghỉ Thì có một làn sấm sét chớp lòa đến, băng ngang qua hòm, có con mèo hoang băng ngang, anh bỗng tung hòm sống dậy chạy...
Một cách tự nhiên không ngờ, nhưng anh sợ hãi, anh lao thẳng vào rừng. Evan đói khát nên ăn sống, nghiền nát xâu xé, những con thú rừng nhỏ bé tanh hôi, dần dà anh biến thành quỷ lửa anh chẳng hay. Anh biến thành quỷ từ đôi tay trước nhất, qua đôi chân, đến thân, hình, tai, mắt, đầu, cổ, tóc, tai, dần dà qua từng ngày hình thành một cách trọn vẹn. Từ đó anh có những phép biến hóa như phù thủy. Khi Evan cần, anh vẫn mượn hình hài một trang nam tử lịch duyệt, hết sức tuấn tú, song vẫn cứ mang lại trong người anh còn dòng máu một nam nhân dị tướng, đam mê xác thịt của phái đẹp!
Ðúng vậy, quỷ lửa chỉ chỉ muốn hưởng lạc thú với những cô gái tuyệt sắc giai nhân. Nếu quỷ lửa không hưởng được lạc thú đó, nó sẽ đau khổ vô cùng về sự tàn úa của nó. Nó luôn luôn tìm kiếm sắc nước, hương hoa phái nữ, làm cho thần diệu sức mạnh ái tình? Ðể quyến rũ tăng trưởng sinh lực cho nó, để giữ được cả đẹp trai và tuấn tú khôi ngổ
Quỷ lửa Evan không còn quyến luyến sự diễm lệ Anne. Nó tiêu diệt cho một cuộc hành trình mới, tìm kiếm mới. Evan quỷ lửa đang suy tính âm mưu người nó lập lòe lốm đốm lửa ma, nhưng Anne thơ ngây chẳng hề biết. Quỷ lửa đã thuyết phục giải thích, hắn đang bệnh chỉ muốn Anne sẽ đến lần khác, theo thuyền bè đến? trong một cơ hội khác v.v... Quỷ lửa đang cố sử dụng một chương trình lừa đảo mới nhất.
Quỷ lửa vội vàng đưa Anne đi về. Trên lối về một vùng rừng núi chập chùng mới nhấp nhô ra, quỷ lửa bỗng làm điều ma quỷ để gây chuyện. Nó bấm ngón tay, gió thổi bùng lên đã tung đi cây cối gốc rễ lá cành, sấm sét ầm ầm, trời đất trở nên hỗn độn chấn động, đen tối mù mịt một vùng?
Anne ôm Evan. Nàng hỏi:
- Có gì vậy hỡi chàng hiệp sĩ của em?
- Không sao, em cứ tin tưởng trời đất vẫn thay đổi nhử
Rồi bỗng nhiên nó khàn ra những hơi thở tím xám, nằng nặc hôi xanh um, làm Anne muốn ngạt ngột nín thở, phải u tối cả mày mặt. Nhưng cô cứ tưởng là giông tố, cô cố níu tay Evan trông dưạ dẫm. Anne không ngờ trời đất như thế? Cô hoang mang đủ điềủ
Trông cô thiểu não tội nghiệp, nhưng Evan quỷ lửa vẫn vô tư, vô tình, vì quỷ lửa có dự tính riêng rồi. Quỷ lửa chờ cơ hội và hất tay Anne ra khỏi tay mình. Nó hét lớn:
- Ha ha hả ta là quỷ lửa, bạn của loài quỷ sa-tăng núi rừng. Bản năng ta chỉ thích những cô gái đẹp tuyệt trần, một nhục thể mỹ miều. Nhan sắc nàng từ đâu không còn diễm lệ như xưa, nàng không còn mặn mà, hoặc ảo mộng như mơ, thì ta không thể giữ ngươi bên cạnh. Ta trả ngươi về âm dương. Và để ta không mất đi sự tàn úa trên thân thể tả
Anne đau thương nghe chưa kịp một cách đầy đủ, nàng rú ?hú? lên tội nghiệp. Khi nghe đến hết câu từ Evan, thì từ vách núi, cô rơi thẳng xuống hốc dốc mặt đất, cách suối hơn hai trăm thước.
Anne biết mình có đôi cánh nhưng không còn đủ thời gian để đọc thần chú. Cô đã rơi tõm xuống thung lũng xa xôi đó, bên vách đá dựng đứng, gần lòng suối cạn. Ðầu Anne bị dập, mặt xước trầy thê thảm, tay chân rươm rướm máu, cọ đá đau nhói nơi cô. Anne bấy giờ mới hoàn hồn. Cô khóc.
Hai giọt lệ long lanh, đong đưa chảy xuống má, cô than thở nói một câu:
- Trời cho tôi một lần với người này, yêu một lần để chết. Hoặc một lần khôn, một lần thức tỉnh. Và cho tôi đôi cánh ấy bay lại cùng hắn. Nếu như hắn phản trắc ta.
Tất nhiên đôi cánh không phụ lòng Anne. Khi cô đưa tay vào xương sườn. Cánh mọc ra bay lên nhè nhẹ, rồi như nhào lộn bay vút đưa Anne trên không trung. Như xuất hiện một nữ hiệp tài ba kỳ tình. Chẳng mấy phút, tí tắt đã đưa cô đến ngay dinh thự quỷ lửa. Anne than thở:
- Evan tại sao anh nỡ đối xử với em vậy? Anh hết yêu em rồi sao? Anh hết yêu Anne rồi sao?
Evan quỷ lửa trả lời lạnh lùng:
- Tất cả muộn đối với Anne. Cô không giống như ngày xưa diễm lệ? Một cánh hoa tuyệt sắc đã héo rũ. Lẽ nào ta còn dành chiếm ở nơi ta chi nữa. Ðó là lẽ sống của ta, ta không chọn khác hơn, xin đừng trách trả. Ha ha hả
Anne tức giận và căm phẫn thốt lên:
- Tại sao anh lại gian ác. Anh có biết Anne đau đớn đến chừng nào không? Anh có thể giết em ư?
- Ðừng hỏi, những gì không nên hỏi. Cô không như một Anne ngày nào. Một thiếu nữ thiên thần đã mất đi phân nửa.
Evan trả lời lạnh lùng hơn, như những viên đá tuyết, đang xả vào mặt Anne. Nàng nghe chới với và cố nói:
- Chỉ vì em nhớ anh em thiếu đi sự tinh anh, thiếu đi em không được đẹp trang nhã? Nếu Anne thiếu chất mặn mà, mất đi sự lộng lẫy đi chăng nữa. Anh phải yêu em hơn chứ?
- Tôi không thể chọn cách đó. Ha ha.
- Tất cả Anne này trong hối hận? nhưng không dễ. Anne muốn chiến đấu cùng anh trước khi Anne có đi vào cõi chết. Anne thơ ngây, nhưng cay đắng với lời tuyên bố cường mạnh đĩnh đạt như vậy.
Evan quỷ lửa dứt khoát:
- Nếu muốn hãỷ
Hắn nhanh như chớp hà hơi xanh tới mong đốt cháy tóc Anne. Lửa vụt tới buông đổ xuống chụp Anne. Song Anne nhanh thần tốc bay lên đọc thêm thần chú. Cô khai thông:
- Hỡi thần linh hãy cho tôi luồng khí đánh bạt hắn. Có thể hắn là quỷ chăng?
Lời thoại của Anne có hiệu lực ngay. Luồng khí đã làm cho hắn xiêu vẹo loạng choạng. Quỷ lửa vung tay bấm lưới chụp Anne.
Anne nói nhanh với thần linh nữa:
- Hãy cho tôi thanh kiếm. Tôi có thể đấu với hắn.
Thanh kiếm có ngay. Bay về trao tay Anne.
Quỷ lửa bấm tay hắn có thanh kiếm. Cả hai giao đấu. Quỷ lửa có sức mạnh. Nhưng Anne có sự nhanh nhẹn thông minh, mưu trí, cô vượt bậc?
Cuối cùng cô xin:
?- Hỡi thần linh cho con sức mạnh vô hình, lấy đi đôi mắt hắn??
Hiệu lực ngay. Anne vừa cầu xong. Cô huýt sáo ý nhị một cái nhẹ nhõm. Hai con mắt hắn bay ra rơi tõm trên bàn tay xinh đẹp của Anne. Cô bỏ xuống chân mình cười nhẹ, giậm ngạo nghễ.
Quỷ lửa không có đôi mắt lạng quạng. Cô vung tay thụt vào hông nó. Dễ như chơi. Nó trúng huyệt, máu nó hộc lên, nó nhìn cô rồi tắt thở?
Anne kẻ chiến thắng, song cô nhìn Evan quỷ lửa chết, lòng cô buồn rầu vô cùng.
Cô nhìn thân xác một người cô từng yêu. Một chàng trai đẹp đẽ giờ là quỷ nằm đó hồn lìa khỏi xác. Là quỷ đó chăng? Anne nhìn rất lâu rồi khóc, rồi lau nước mắt, rồi bỏ đỉ
Trong cô vẫn có chút gì nghẹn nghẹn xâm chiếm vào trái tim cô.
Và Anne nói như sau một cơn mê muội, để hồi thức tỉnh:
- Tất cả như một giấc mơ, con về lại với ba mẹ đâỷ Anne của cha mẹ Mittal và Usha đây! Con sẽ về đây.
Anne đã dùng câu thần chú đặt tay vào hông sườn, cánh từ từ mọc ra, cô bay đi. Anne trên đường quay về?
Chương Bốn
Anne về với cha mẹ thì thấy nhà trống vắng. Từng cái ly, cái chén cái bát, tất cả lạnh lùng như thiên niên kỷ. Nàng u buồn gọi cha mẹ hoài:
- Ba mẹ ơi con đã về! Ba mẹ ơi con đã về!
Không thấy cha mẹ đâu, hoặc một lời đáp trả. Vắng trước im sau, khắp chốn nhà. Anne có cảm giác, nhà của cô nhưng, cô như không tin vào nhà của mình nữa. Buồn tẻ và lạnh lùng trên từng đốt xương sống cô. Mới ngày nào sầm uất sôi nổi mà bây giờ như biến vào cổ tích hoang dã? Anne buồn quá, đi tìm đến người thầy chiêm tinh gia để hỏi cho ra lẽ, thì vị chiêm tinh mới cho hay. Ông Ambina miêu tả lại:
- Cha mẹ Anne trong một ngày làm việc như mọi ngày. Ðêm nhớ Anne, một đêm hai người không đau bệnh gì hết, nằm ôm nhau mà chết. Chết rất hạnh phúc?
Nhà chiêm tinh Ambina, như tường thuật luôn:
- Ông bà Mittal tới báo trong mơ cho nhà chiêm tinh tôi nghe ?Là ông bà đã theo luồng sấm sét bay lên mây về trờỉ Ðừng lo ngại khi xác thân mất tích.?
Anne hay tin thì khóc. Anne buồn rầu tới tận cùng tâm thể. Anne không hiểu sao? Cô về lại nhà. Cô quyết định mới. Anne làm những bài thơ cuối cùng. Vẽ những bức tranh cuối cùng. Trao tặng cho nhà chiêm tinh gia cuối cùng. Rồi Anne đã cởi lớp áo trần đời để đi tu sau đó?
Cô nghĩ tất cả đều là duyên nghiệp??Và cô nghĩ đi tu là cõi an phúc, hơn nhất.?
Chẳng bao lâu Anne đã đạt thành ni cô vô sắc, vô nhiễm. Cô hanh thông mọi điều sự sống và giáo lý?
Chương Năm
Thời bấy giờ có một vị thống đốc rất yêu tranh, và cũng rất yêu thơ. Ông thường chu du khắp nơi để lấy cảm hứng vẽ cảnh, lấy tình làm thơ. Ông lại đi đến mãi vùng này. Lọt vào nhà vị chiêm tinh Ambina thông thái, dưới sườn đồỉ
Một cuộc làm thơ nói chuyện xảy ra. Nhà chiêm tinh vịnh thơ và gởi tặng cho vị thống đốc. Vị thống đốc cũng vịnh thơ tặng lại vị chiêm tinh. Cả hai như tri âm tri kỷ, ăn ý mặn nồng?
Nhà chiêm tinh Ambina còn trao tặng những bài thơ, những bức tranh của Anne, khi cô từ bỏ cuộc sống trần tục thế gian. Vì ông cho đó là những bài thơ hay, những tranh có một không hai của Annẻ
Những bài thơ và những bức tranh Anne làm cho vị thống đốc Kelly lại lưu ý say tâm. Ông yêu kiều mến mộ lắm! Hai vị mãi uống trà và đàm đạo như hồng nhan tri kỷ. Mặt trời lặn gác núi mà như không hay. Chim trời ngoài kia lẻ bóng bay về tổ mà hai người vẫn không ngờ. Gió như ngưng thổi, sợ làm đau hạt sương trên cỏ dại ngoài kia. Mà hai người vô tình không buồn thưởng thức. Chỉ vì tranh và thơ của Annẻ
Kelly cảm giác; ông chuộng từng tác phẩm của Anne lắm, ông quyết định muốn biết người chủ sáng tạo ra nó.
Nhà chiêm tinh Ambina mới đem lòng trần thuật lại về Anne. Một cô gái con của một ông bà bán cháo chay dưới chân núi. Ông bà qua đời và Annne, cô gái ấy đã qui ỷ
Vị thống đốc trẻ tuổi không dằn được cơn xúc động bảo:
- Tôi muốn cần gặp cô gái này. Nếu cô ta còn sống trên trần thế.
Vị chiêm tinh Ambina cắt nghĩa trả lời rằng:
- Anne cô gái ấy hãy còn trẻ lắm, nhưng đi tu đến giai đoạn vô nhiễm vô sắc? Không thể nàỏ
Họ chia tay. Cuộc nói chuyện của nhà chiêm tinh gia Ambina cùng Kelly thống đốc chưa ngã ngũ về đâu, vì Kelly cứ một mực đòi phải gặp người con gái. Anne chủ nhân những bức tranh và những bài thơ hay kia, nhưng nhà chiêm tinh gia Ambina, e ngại là vị Kelly không còn hợp lý nữả
**
Buồn bã Kelly giả một thương gia quyết đến chùa An Lạc nơi Anne đang tu hành. Ngôi chùa thấp ẩm, nghèo khó sơ sài. Kelly quan sát chùa. Ông đem tiền, vàng cúng dường cho ngôi chùa sửa sang lại nhiều mặt theo ý ông. Cất thêm cho cao lớn hơn, xây dựng tượng cho nhiều hơn, khuôn viên phải khang trang hơn. Và phải đúc được những tượng đẹp hơn để thờ phượng v.v? Cúng dường là một lẽ, nhưng mục đích chính là Kelly muốn kiếm tìm, được nhìn thấy Anne- Người con gái tuyệt tài này. Ông nghĩ?
Rồi chính mắt ông nhìn thấy Anne trong trang lễ phục tu hành. Một câu nói cúi chào của nàng:
- Nam Mô A Di Ðà Phật.
Ðôi mắt đoan trang và khuôn mặt khả ái, thương vì đời xa xôỉ Ðôi mắt nàng tinh khiết nhưng lung linh sâu thẳm, như gói trọn mầm ước vọng thanh xuân chưa tiêu tan? Một lần nữa làm cho ông Kelly bàng hoàng choáng váng. Khi ông chạm vào đôi mắt ấy.
?Ông có tội chăng? Ông không có tội. Ông khẳng định con người cần chia sẻ, cần yêu thương trong sự sống.?
Sau đó ông Kelly gởi một bức thư chuyển cho Anne. Ông cho biết ông là một vị thống đốc chứ không phải là nhà thương gia mua bán. Một bức thư được viết:
? Lòng ngưỡng mộ Kelly đối với nàng là tuyệt đối. Tôi mong ước được tác hợp duyên với cô trăm năm. Tôi không yêu cô với hình hài nhan sắc mà. Tôi yêu bằng một sự quả cảm của tâm hồn? Những bài thơ, những bức tranh. Cô vẽ, Kelly cho là những thứ một hạnh phúc, và khổ đau- của những tuyệt tác.? Không ai có thể vẽ được trên thế gian này. Tôi yêu lấy người chủ tạo ra tác phẩm ấy!
Mãi mến thương.
Kelllỷ.
Anne đọc, song Anne vẫn một mặt chối từ dửng dưng, chẳng đáp trả. Riêng Kelly gởi thơ cho Anne tiếp với ngụ ý:
?Ông phải chờ cho dù hết kiếp. Ngoài giờ làm việc ông không mong gì hơn. Những đêm trăng thanh, ông luôn luôn đi dạo trong cô đơn. Xem tranh cô. Ðể tìm cái lãng quên. Mà tìm cái nhớ nhung. Xem thơ cô làm như tìm hơi ấm từ xả Thơ cô phong phú về chức năng. Mỹ miều về phong cách. Thi vị trong cảm hứng. Ðã làm trái tim ông mất ăn mất ngủ, như sóng cuộn âm ỉ, từng cơn yêu dấủ!?
Kelly vẫn không sao dứt bỏ ý định muốn cưới Anne làm vợ. Ông cố tìm ra một phương hướng mới. Ông tìm đến vị chiêm tinh Ambina chia sẻ cõi lòng. Ông hỏi cho ra ngày birthday của cô. Kelly có một ý định, ông cho là sự kỳ diệu mà ông thích? Và Kelly biết đúng một ngày rằm tháng bảy năm đó. Anne hai mươi tuổi, ông đến ngôi chùa An Lạc viếng thăm, để mừng sinh nhật của Anne. Kelly muốn tặng cho cô những bài thơ ông viết. Ông xin bề trên cho ông có những vần thơ như vậy. Một đêm ông khấn tứ và thủ bút. Kelly gởi đến Anne:
Bài Thơ Nàng Nhử
Nàng như có đôi cánh
Bay đi khắp đại dương
Nàng có phần phẩm hạnh
Như hoa nở ngát hương
Nàng trí tuệ phi thường.
Nhưng trái tim băng giá
Nước mắt nàng ngọc nhả.
Ta một đời đau thương?
Và bài thứ hai được viết:
?Biển xả
Biển xa sóng vỗ rì rào,
Hay là tiếng thét một gào trùng dương?
Ðêm huyền hoặc những giọt sương?
Lênh đênh nỗi nhớ thác ghềnh niềm mơ.
Sầu tư đã chín đường tơ,
Kiếp này sao gặp hững hờ chiêm bao?
Bài thứ ba ông viết:
?Ta vẽ em- Ðêm vắng?
Ta vẽ em nỗi nhớ,
Trong đêm dài ta thương.
Ta lạnh lùng soi gương
Ta vẽ em hôn nhẹ?
Ta vẽ em tôi khẽ:
Gọi gió mưa trăng sầu!
Ta vẽ em, nơi đâu
Sao chẳng về ta nhỉ?
Vẽ nhớ em ta chỉ
Nhấc bút lên khóc chờ.
Ta vẽ em trong mơ
Lẽ về em không được?
Ta vẽ em trong ước
Ðóa hoa xinh mộng tình.
Nhưng tất cả lặng thinh
Cọ kia chẳng chuyển được,
Em ơi đừng hứa trước
Ta vẫn chờ trăm năm,
Dấu yêu ơi ngập lòng
Dâng lên em tất cả!
Hồn hoa đau tan rã?
Anh vẫn thích nuông chiều,
Hỡi một chuyện tình yêu
Ta vẽ em lúng túng!
Trong đại dương muôn trùng?
Bỗng cọ chuyển trăm đường
Một trăm hình yêu thương
Ta cháy hồn ra vẽ?
Em ơi rồi có lẽ
Những bức hình riêng ta
Ðể em biết khi xa,
Ta yêu em - Ðêm vắng?
Chùa vẫn có được những phòng trọ của khách vùng lân cận, hành hương, chiêm ngưỡng v.v? Chùa khách cúng dường, được quy tắc, cho phép thì ở lại tá túc phía sân sau của chùa. Nhưng khoảng cách khá xa. Thống đốc Kelly cũng phải như thế. Trú thân trọ như những vị khách từ xa đến cúng dường, ngủ nhờ tại khu viên qua đêm nơi chùa chiền An Lạc?
Ðêm đó vị thống đốc Kelly thẩn thờ vô ra mãi phòng khách, vẫn ngủ không đựợc. Cảnh gió mát trăng thanh. Gợi cho ông muốn lắng nghe một sự du dương của sáo trúc mình. Ông lấy sáo ra tự thổi. Ông có thói quen buồn vui vẫn thường thổi sáo. Tiếng sáo là tâm hồn ông cất đút trong đó?
Tiếng sáo từ xa xôi vọng vào, Anne nghe lòng buồn man mác. Cô bỗng choàng tỉnh nhìn vào khoảng ô cửa sổ vuông, khoảng không gian mịt mờ? Ðêm trăng thanh vắng hư huyền, tiếng côn trùng thêm ảo não, bỗng nhiên nàng muốn mặc chiếc áo choàng để ra ngồi thiền với ngoại vi cảnh.
Nàng tu tập thiền được mấy phút, bỗng dưng hình ảnh Kelly đi tới đang đứng trước mặt nàng. Ôi khối người bằng xương bằng thịt, nàng không phải mơ mà là sự thật. Anne thêm lòng não lòng không nói được?
Kelly lời nhẹ nhàng trầm buồn như hơi gió thoảng về đêm:
- Anne ạ, ta đã yêu nàng từ muôn kiếp trước. Em đọa đày ta trong yêu thương buồn tủỉ Tại sao em không hiểu ra ta.? Hỡi em là một ngôi sao trong lòng ta, em có biết không? Nếu không được em yêu, thì ta sẽ chết đi còn hơn không?
Anne nghe, hình như cô đã nghe từ bao kiếp đời dội lại. Và hai hàng nước mắt Kelly, chàng bỗng ứa ra lung linh huyền ảo...
Nước mắt chàng đã chạm vào tim Anne. Anne cũng bật khóc. Nàng cũng có cảm giác đó, nhưng quả là đắng cay lòng nàng??
Không hiểu sao sau đó nàng gục đầu vào vai chàng. Thân hình nàng bỗng nhũn ra theo sương khói. Anne nói:
- Thơ người hay lắm. Ta đã yêu người! Em cũng đã yêu anh? Em không làm chủ được?
Và hai người đã tan biến trong nhau. San sẻ cho nhau, họ như có duyên với nhau, như tận hằng hà mười mấy ngàn năm kiếp về trước, cũng chưa đủ?!
Trăng đêm vằng vặc se lạnh. Nhưng những bức tượng đồng, hay vàng kia dường như cũng ấm lại. Ngoài không trung hai người như bớt đơn côi. Họ sưởi ấm cho nhau. Vầng trăng kia, như không còn giá lạnh??
Và kỳ ngộ thay, chính đêm đó. Anne mang thai với Kelly. Nàng đã có con với Kelly. Nàng trở nên đẹp cực kỳ. Sau này nàng biết được, nàng báo cho chàng hay. Và Kelly rước nàng về kinh thành để khai nhụỷ
Chương Sáu
Anne sinh được một hài nhi thật kháu khỉnh, Kelly rất mừng rỡ. Sau ngày hạ sinh con một tháng. Nàng bỗng nhớ chùa An Lạc và nhớ quê hương vô cùng. Anne nói với Kelly:
- Hãy cho nàng về thăm, đốt cây nhang cảm tạ quê hương cha mẹ. Ðã cho cô hình hài đau khổ, hạnh phúc. Thiếp chỉ muốn đi như một phương tiện cùng với một ni nữ. Hoặc một vị hành khất thực đạo.
Kelly không vui khi nàng năn nỉ điều đó. Nhưng Anne quyết định. Vì mới sinh con, nên nàng có đặc quyền. Kelly không nỡ khước từ, không muốn Anne buồn, và xúc động. Nên Kelly cố gắng chiều theo Annne. Kelly chiều chuộng vợ với một ưu đãi lớn. Bởi nàng vừa mới có con, đó là nguyên tắc dự luật. Chàng nhìn nàng bảo:
Lẽ ra ta không nên theo một ý tưởng này của nàng. Song vì ta muốn trân trọng nàng. Bởi nàng có một ưu tiên là đặc ân.
- Dạ thiếp biết ơn. Xin đội ơn người.
- Ta cho nàng đi như một ân huệ quy ước. Nhưng ta muốn phải có kẻ theo nàng, hộ tống kỹ.
- Anne chỉ muốn có một người đi theo là đủ.
Thế là Anne chỉ dẫn theo một hầu cận như nàng mong.
Anne rất thương con mới sanh. Nhưng không hiểu sao nàng nhớ quê hương, nhớ như đếm được trong từng hơi thở, nhớ như đếm trên đầu ngón tay rung cảm. Nhớ như trăng lên đếm được tơ trời bao nhiêu mỏng manh... Nhớ như thuyền nhớ bến cũ xưa, như bao đợt sóng nhớ bến đầu gành tan thương?
Ôi nhớ cứ ám ảnh. Nên nàng đòi hỏi. Với lại con nàng sinh ra là có người nuôi dưỡng, chứ đâu phải nàng nuôi mà vướng bận? Con mới sinh hà ai chẳng thương? Mà quê hương đang trong nỗi nhớ, làm xao xuyến. Như tiếng gọi từ trái tim nàng dâng đưa thiết tha, như dấu hiệu ôm ấp vỗ về. Nỗi nhớ niềm khao khát bung to nở rộ, theo từng con sóng dội của biển đêm, yêu lấy mạn thuyền? như đang quấn quít, gọi mời nàng. Nói tóm lại, nàng nhớ không sao chịu nổi.
Cuối cùng được Kelly chấp thuận. Thế là Anne lên đường. Không ngờ lần này cũng là lần Anne vĩnh biệt dương thế!
Không biết vì số mạng, hay vì mới sinh nở mà trong cuộc hành trình xa xôi ấy theo người hầu thuật lại:
- Anne đã cúng dường lập bàn thờ cho cha mẹ. Cho quần áo vải vóc đến các trẻ em nghèo khổ, mua lương thực ban phát cho người già thiếu ăn, đói mặc, cho trẻ em gia cảnh khó khăn, thiếu bấn, cơ hàn, đói cơm, ghẻ cóc, chậm lớn? Xong, nàng lên chùa lạy Phật và vào giường ngủ phòng khách một giấc, rồi đi luôn nhẹ nhàng. Không ai có thể tưởng tượng, sự kiện lại xảy ra như vậy!
Kelly được tin Anne mất, nàng không về được thì buồn lắm. Với Kelly không còn tin gì để buồn hơn thế nữa! Như sét đánh bên tai. Mất người yêu thương, Kelly cơ hồ chàng như chết đi một nửa người trong xác.
Sự thật không thể khác hơn. Kelly bôn ba tàu bè, xuôi ngược đến tìm nàng?
Nhìn nàng. Kelly ôm xác nàng khóc nức nở. Anne đã ra đi. Nàng vẫn không hoàn hồn được, dưới đôi mắt say đắm và trần tình của chàng! Anne đã ra đi vĩnh viễn. Mà tựa hồ như nàng đang ngủ trong một giấc mộng của liêu trai. Nàng như quên lời hứa sẽ trở về bên chàng chăng? Kelly đau đớn và cảm giác như thế. Chàng như khóc òa lên, dù chàng là một người đàn ông tài ba, và không thiếu đức tính cương nghị?
Chương Bảy- Chương Cuối
Thời gian lặng lẽ trôi qua Tommy con của nàng đã lên mười bốn tuổi. Tommy đẹp trai, khôi ngô, thanh tú lạ thường. Mà Tommy lại rất buồn, mang nhiều tâm sự. Tommy chưa bao giờ thấy mẹ trong đời. Chỉ biết thấy những bức hình của mẹ để lại. Tommy càng thấy, càng buồn hơn mỗi khi nhìn hình mẹ Anne thân yêu. Niềm vui lớn nhất của Tommy là xem kinh, đọc sách. Tommy chẳng mấy thích nghi với những cuộc đi chơi, hoặc nơi chốn huyên náo.
Năm lên mười bốn tuổi Tommy bỗng nói với cha Kelly một dự định:
- Con muốn đi vào thánh thất tu viện?
Kelly không cho và hỏi:
- Tại sao con muốn đi tu?
- Con không biết. Nhưng con thấy đó là chân lý.
Mới mười bốn tuổi ăn nói như một triết gia tinh thông. Kelly vẫn không đồng ý quan niệm của Tommy. Nên Kelly vội giải bày với con.
- Ta rất thất vọng về con. Con phải cố gắng học hành thành đạt. Và để phục vụ cho đời.
- Nhưng đi tu vẫn có thể làm việc hữu ích?
- Ta muốn con trai, rồi phải có vợ có con.
- Ði tu là có chuyển duyên hóa độ. Là sửa sang tâm tánh, tiêu diệt tham, sân, si, hận, dục, ái, ố? Ðể?
- Ðược, nhưng năm mười bảy con phải trở về?
- Nếu con không trở về. Là con đã đi tu suốt cuộc đời.
- Con phải hứa con trở về? Ta mong thế.
- Con hy vọng. Nhưng ở đời mọi thứ đều đến bất ngờ. Không ai có thể biết hết được. Ðời vốn dĩ muôn cánh cửa, của rẽ lối.
Kelly ngần ngại nghe rồi bảo:
- Cha hiểu. Nhưng không vì thế mà ta thiếu đi sự lạc quan làm người. Thiếu đi những định hướng cho tương lai.
Tommy nói thêm:
- Con biết chứ. Nhưng con muốn bắt đầu một chuyến vào chùa An Lạc. Ngày xưa mẹ con đi tu ở đó trước tiên.
- Con thật là chí hiếu với mẹ.
- Con rất thương mẹ. Từ nhỏ một tháng lọt lòng, con đâu thấy mẹ đến giờ? Con càng lớn khôn càng thương mẹ. Ước gì con có phép mầu làm cho mẹ con sống lại. Con có thể chịu giảm thọ mười, hay hai mươi năm, hoặc hơn nữa. Con vẫn thấy vui. Song điều đó đã vô nghĩa. Và hoàn toàn xa rời với ước mơ con. Ðúng không? Và cha thử coi làm bài thơ cho mẹ đây.
- Ðọc đi cha nghe. Con viết những gì trong trái tim con?
Tommy nói với cha Kelly như thế, và đọc bài thơ ?Mẹ ơi lòng con.? Ðược thủ bút chữ chưa ráo mực của Tommy.
Mẹ ơi lòng con đau như cắt
Từ thuở chào đời, nước mắt nằm nôi.
Và lệ hằng? Ngày càng lớn, than ơỉ
Con chưa bao giờ thấy mẹ một lần?
Thương mẹ hiền. Con đau khổ khắp châu thân?
Tại sao con sống dưới trần gian,
Cuộc đời con? Không gì coi gian nan hơn!
Bỡi vì:
Vì đâu con thiếu mẹ??
Vì đâu, lý lẽ?
Ngoài kia chim sẻ
Chia lời con đau!?
Ngọn gió đi mau
Thương con ngồi khóc?
Nghe xong Kelly xúc động nói:
- Con có hiếu với mẹ Anne lắm, nhưng con không phụ lòng cha. Cha chờ con sẽ trở lại với cha. Con cố gắng làm được chứ!
- Con sẽ cố gắng!
Tommy để nhỏ hai giọt lệ trên má mình.
Kelly cũng nhỏ hai giọt lệ trong khóe mắt ông ta.
Hai dòng chảy của nước mắt vẫn có chung suy nghĩ. Hay hai dòng chảy của nước mắt vẫn có thể khác đi trong suy nghĩ? Nhưng vẫn trường tồn cả hai.
Trần Thị Hiếu Thảo
IIỊ Hộp Thư Toà Soạn
___________________________________________________
Thể lệ để nhận Nguyệt San Giao Muà:
1) Ðể vào danh sách của NSGM (subscribe),
xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
Ðịa Chỉ Liên Lạc:
Nguyệt San Giao Muà
Copyright
2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors
Nguyệt San Giao Muà xin cám ơn những thân hữu đã dóng góp bài vở cho Nguyệt San Giao Muà số 231 . Một số bài khác sẽ được đăng dần vào số tớị Mong mỏi sẽ nhận được những sáng tác của các bạn bốn phương để cho Nguyệt San Giao Muà thêm phần hương sắc trong tương laị
2) Ðể rút ra danh sách của NSGM (unsubscribe),
xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
3. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về:
GiaoMua@hotmail.com
4. Mọi bài vở, đóng góp, xin gửi về:
GiaoMua@hotmail.com
Nguyệt San Giao Muà
Homepage: http://www.GiaoMuạcom
Thể lệ gửi bài cho Nguyệt San Giao Muà:
Mong bạn gửi Bài cho GM theo cách này là tốt nhất :
1. Dùng mẫu chữ Vietnet (VIQR) hay Unicode
2. Viết Hoa chữ đầu của bài và bút hiệụ Ví dụ: Giọt Mưa Trên Lácủa NS Phạm Duy
3. Gửi bài ngay trong email (không kèm file), để cho BBT khỏi mất công download xuống để đọc
4. Gửi tất cả các bài trong 1 tháng 1 lần trong1 email, nếu tiện.
5. Bài vở xin gửi đến trước ngày 25 mỗi tháng
6. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com
Cám ơn bạn rất nhiều, vì nhân sự có hạn, BBT không thể ngồi đánh máy lại từng đề bài hay bút hiệụ
P.O . Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA
Trang Nhà