Nguyệt San phát hành định kỳ vào mỗi đầu tháng
Nguyệt San Giao Mùa
Merrifield, Virginia
22116
USA
Số 278
Ngày 1 tháng 11 năm 2025
![]() |
| Home | Những Số Cũ | Thư Ngỏ | Liên Lạc | ||
| Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút: | Ðinh Trường Như (TK Trung Kỳ) |
Ban Biên Tập: |
Mạc Phương Ðình, Phan Thái Yên |
|
Chung Thủy, Nguyễn Thị Thanh Dương |
|
& TK Trung Kỳ |
Mọi bài vở đóng góp xin gửi về GiaoMua2025@gmail.com
Copyright
2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors
++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Bài vở trên Giao Muà là do các tác giả gửi đăng và Giao Muà không chịu trách nhiệm về nội dung. Muốn xin trích đăng lại, xin liên lạc với GiaoMua2025@gmail.com.
I . Thơ _______________________________________________________________________
| 1. Biệt | ______ Lưu Trần Nguyễn | |||||||
| 2. Chùm Thơ Hàn Thiên Lương | ______Hàn Thiên Lương | |||||||
| 3. TIẾC THU | ______KIM LOAN | |||||||
| 4. DÙ THẬT HAY MƠ | ______ Nguyễn Thị Thanh Dương | |||||||
| 5. KÝ ỨC MÙA THU | ______Đặng Xuân Xuyến | |||||||
| 6. Sầu Đông | ______Vân Hà | |||||||
| 7. Bước Vào | ______Bạch Liên | |||||||
| 8. Đêm tháng Sáu |
______ ChinhNguyên/H.N.T | 9. Đẹp Em Một Đóa Từ Dung |
|
______Lưu Trần Nguyễn | 10. Khúc Tình Lơi |
|
______ Phạm Phan Lang | |
II . Văn _______________________________________________________________________
| 1. XỚN XÁC TUỔI GIÀ ___________ Nguyễn Thị Thanh Dương | 2. HALLOWEEN KỂ CHUYỆN ___________ Kim Loan |
| 3. THANKSGIVING CANADA KỂ CHUYỆN ___________ Kim Loan |
| 4.NHƯ MỘT BÀI TẬP LÀM VĂN- THƠ TRẦN VẤN LỆ ___________ ĐẶNG XUÂN XUYẾN |
| 5. Mưa Đã Vào Thu ___________ Bạch Liên |
| 6.VỀ BÚT DANH THÁI ĐẮC XUÂN ___________ ĐẶNG XUÂN XUYẾN |
| 7.PHẠM PHAN LANG -Nữ Trung Tá Lục Quân Hoa Kỳ Làm Thơ Việt Giữa Hai Bờ Quê Hương ___________ Y Thy Võ Phú |
| 8.Ký sự Anh Hùng Xa Lộ Bất Đắc Dĩ ___________ Thanh Hà |
III . Tin Tức /Trả Lời Bạn Ðọc__________________________________________________
| 1. Tin Tức/Trả Lời Bạn Ðọc _______ Ban Biên Tập |
I . Thơ __________________________________________________
II . Văn___________________________________________________________
Nguyễn Thị Thanh Dương
Kim Loan
3. THANKSGIVING CANADA KỂ CHUYỆN Kim Loan
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween .
Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie . Tôi thì nhanh gọn hơn, đem táo nấu với nước, có ngay apple juice giải khát tuyệt vời.
Một buổi chiều như thế, trong bữa cơm, nhìn ra ngoài vườn sau đầy lá rụng, chúng tôi ôn lại những ngày đầu tiên trên xứ này, rồi ông xã nhắc:
- Kỳ này em có câu chuyện nào tạ ơn Canada? Bao lâu nay em đã kể hết chuyện chưa, nào là ở trại bị phái đoàn Mỹ “đá” là có ngay phái đoàn Canada “lượm”, nào là những ngày chân ướt chân ráo đến đây, nào là “Oh Canada”, nào là “Canada Là Dzậy Đó”, rồi chuyện gia đình mình bị mất bồ đồ đánh golf, chuyện em biết nấu ăn nhờ youtube ...
- Anh nghe nè, mỗi ngày thức giấc, được ngắm nhìn cuộc đời, được hít thở không khí tự do dân chủ, cũng đủ để chúng ta tạ ơn Thiên Chúa, cám ơn quê hương thứ hai, mà nếu quan sát xung quanh thì cũng vẫn có chuyện để kể anh nhé .
Bữa nọ, lúc con gái chúng tôi chưa lấy chồng, cái smoke alarm nhà tôi bỗng réo liên hồi dù tôi chỉ nấu ăn bình thường, không có nướng, thui, hay đốt lò gì cả. Sau đó thì im ắng nhưng cứ 15 phút lại réo, cho đến lần thứ một chục, con gái tôi chịu không nổi, liền gọi cho đường dây nóng về “an toàn sức khoẻ” trình bày sự việc. Họ nghi ngờ có thể do đường dẫn gas bị rò rỉ nên khuyên chúng tôi ngay lập tức mở hết các cửa sổ, rồi di tản ra ngoài để họ gọi xe chữa cháy. Trong lúc mấy mẹ con lo mở cửa sổ đã nghe tiếng còi rú inh ỏi của fire trucks quanh xóm (nhà tôi chỉ cách trạm cứu hoả vài blocks đường). Con gái đẩy tôi và em nó ra ngoài cho lẹ, để nó “hy sanh” ở lại tiếp mấy người nhân viên cứu hoả. (Ba nó đi làm chưa về, chứ nếu có nhà, chắc cũng bị nó đẩy ra ngoài). Tôi và con trai chạy ra ngoài góc đường, mới thấy không những có 1 fire truck đậu trước cửa nhà tôi, mà còn có thêm một chiếc nữa và một xe cứu thương (ambulance) bên kia đường, chắc là chờ …tiếp ứng?!
Có khoảng 6 chàng nhân viên, lục đục khiêng vác các dụng cụ, thiết bị cần thiết, rồi thay áo quần bảo hộ đầy đủ, rồi tiến vào nhà tôi rầm rộ…
Sau gần nửa tiếng lục lọi các ngõ ngách trong nhà, từ dưới basement đến lầu trên, thám thính đường gas, nước, điện, cũng như chất vấn con gái tôi thêm vài chi tiết, ghi ghi chép chép, suy nghĩ đăm chiêu, cuối cùng họ rời khỏi nhà tôi với kết luận: cái smoke alarm bị…hư, cần thay cái mới!
Tiễn phái đoàn cứu hoả ra về, tôi la con gái tôi cái tội “mau mắn quá mức cần thiết”, hay nôm na là “tài lanh”, làm tốn kém công sức, thời gian, và tiền bạc của chính phủ. Nó cũng hơi biết lỗi, nhưng vẫn vớt vát:
- Gia đình mình đi làm đóng thuế đầy đủ, không gian lận, không lợi dụng các phúc lợi xã hội, thì chúng ta chớ nên áy náy khi các sự cố xảy ra như ngày hôm nay. Nhưng con cũng xin rút kinh nghiệm, lần sau không “nhanh nhẩu đoảng” nữa.
Tôi ký đầu nó(dù nó đã ...già đầu):
- Rút kinh nghiệm thì phải nhớ nhe, chớ đừng như cái “xứ thiên đường” kia, cứ rút mãi cái dây kinh nghiệm, không bao giờ hết xấu hổ!!!
Nhân chuyện con gái tài lanh, tôi lại nhớ khi con cỡ 7-8 tuổi, có nuôi một con thú cưng, là con hamster nhỏ xíu, để trong cái lồng, có đầy đủ đồ vật y như căn nhà: chỗ để thức ăn đồ uống, chỗ nằm nghỉ ngơi, chỗ chạy bộ thể dục thể thao, có ...lầu leo lên để ngủ. Nó đặt tên thú cưng là “Apple”. Ngày nào đi học về, con cũng ngắm nghía Apple, rồi đem Apple ra nâng niu trên tay, cưng nựng, và hàng tuần theo tôi đi mall mua thức ăn cho Apple.
Một hôm con nói với tôi:
- Mẹ ơi, con muốn trả lại hộp thức ăn của Apple, đây là loại mới nhưng Apple chê.
- Sao con biết Apple chê?
- Vì Apple ăn rất ít .
Tôi nhìn hộp thức ăn, đã vơi gần phân nửa, lắc đầu:
- Chúng ta sẽ mua loại khác, không dễ gì trả lại khi đã xài và nhất là không còn receipt.
Trưa thứ bảy, hai mẹ con ghé tiệm chuyên bán thức ăn cho vật nuôi, con đi vòng vòng chọn hộp thức ăn cho Apple, sau đó ra quầy, tôi chuẩn bị thanh toán tiền thì con bỗng lấy ra hộp thức ăn cũ để trả lại. Cô nhân viên bán hàng, hỏi bằng tiếng Anh, đại khái là:
- Lý do để trả lại?
Con trả lời tỉnh bơ:
- Apple doesn’t like it!
Tôi tính bật cười nhưng cô ấy gật gù, vui vẻ, đưa con tờ đơn điền vào, rồi thanh toán lại số tiền của hộp thức ăn ấy, bởi họ phục vụ “khách hàng là Thượng Đế”, mà “khách hàng Apple” đã không hài lòng với món ăn đó thì họ phải trả lại tiền, thế thôi!
Chuyển qua chuyện khác, chị bạn trong nhà thờ kể, má chồng của chị, được vợ chồng chị bảo lãnh qua đây. Được vài năm, bà đến tuổi lãnh tiền già, dù bà không hề đi làm một ngày giờ nào, không hề đóng góp một đồng thuế nào cho Canada . Vì sống chung với vợ chồng chị, nên bà chẳng tốn kém chi phí sinh hoạt hàng ngày, số tiền bà lãnh hàng tháng, chuyển về Việt Nam cho hai cô con gái ở Bà Rịa. Mười mấy năm qua, số tiền ấy, đã xây được hai căn nhà nhỏ, khang trang trên mảnh đất của gia đình, với đầy đủ tiện nghi. Nay bà thấy đã “ăn” đủ tiền của chính phủ, bà quyết định về Việt Nam dưỡng già trong hai căn nhà do chính số tiền bà lãnh được suốt thời gian qua . Chị bạn nửa đùa nửa thật nói với tôi:
- Mong rằng bà toại nguyện nhắm mắt xuôi tay an lành nơi quê Cha đất tổ, chớ đừng bị bệnh dai dẳng rồi quay lại Canada vào bệnh viện nằm lây lất, tốn thêm tiền của chính phủ, tội chính phủ Canada lắm.
Và bây giờ là câu chuyện tôi được chứng kiến. Có một cô gái trẻ từ Việt Nam qua Canada theo diện lao động. Cô làm ở một hãng xưởng vùng xa, hẻo lánh, cách Edmonton 7 tiếng lái xe. Một ngày kia, cô thấy đau bụng dữ dội, đến bệnh viện, được nằm vài ngày chờ chẩn bệnh, đến khi có kết quả bị Cancer giai đoạn cuối, cô lập tức được chuyển về bệnh viện thành phố Edmonton ngay trong đêm trên một chiếc trực thăng, có một bác sĩ và y tá đi kèm.
Tại bệnh viện, khi biết cô không có thân nhân bạn bè, họ đã liên lạc với ngôi Chùa người Việt (vì cô nói cô là Phật Tử), với hy vọng có những phật tử muốn đến thăm nâng đỡ tinh thần cô ấy. Cô bạn thân của tôi là một Phật tử sốt sắng trong nhóm người đến thăm cô gái kia. Vài tuần sau, cô gái được cho xuất viện, chỉ cần đến bệnh viện theo dõi hai tuần một lần. Dù có thể xin chính phủ trợ cấp cho cô gái thuê một apartment, nhưng cô bạn tôi, là 1 single mom, tình nguyện đem cô gái kia về nhà, để cô ấy có tình thân ấm áp dù chỉ là tình thân mới vay mượn được của người dưng nhưng có nghĩa tình. Thời gian này, thỉnh thoảng tôi có đến nhà bạn để thăm gặp, chuyện trò, giúp người bệnh được tinh thần vui vẻ, bình an. Hơn ửa năm sau, bệnh trở nặng, cô ấy lại trở về bệnh viện và qua đời. Một lần nữa, bệnh viện kết hợp với Nhà Quàn, giúp cô ấy một tang lễ gọn gàng chóng vánh, chỉ cần hai tiếng đồng hồ, đủ cho các sư và Phật tử tụng kinh cầu siêu, rồi hỏa thiêu ngay sau đó. Tất cả chi phí chữa bệnh, hỏa táng, đều do chính phủ chi trả. Ngoài ra, trong thời gian bệnh, cô được lãnh tiền welfare cho chi phí nhà ở, ăn uống, sinh hoạt cá nhân. Trước khi mất, cô gom hết số tiền này, ngỏ ý tặng cho bạn tôi, nhưng bạn tôi xin phép được chuyển cho gia đình cô ấy bên Việt Nam.
Chúng tôi cúng đủ 7 thất cho cô ấy tại Chùa . Người nhà cô ấy, trong khi chờ thủ tục giấy tờ bay qua Canada đem hũ cốt rải trên sông Tu Viện Tây Thiên của Thầy Pháp Hòa, mỗi lần gọi phone nói chuyện với cô bạn tôi, họ đều khóc và luôn miệng lập đi lập lại:
- Cám ơn Canada, tạ ơn đất nước và con người Canada.
Những câu chuyện trên đây, đối với các nước Mỹ, Úc, Canada, Châu Âu, cũng như các nước tự do dân chủ khác trên thế giới, chỉ là chuyện ...bình thường. Nhưng ở những nước Cộng Sản, độc đảng độc quyền, nơi mà quan tham nhởn nhơ ở biệt phủ, trong khi nhiều dân nghèo còn lây lất hàng ngày nơi các bệnh viện chờ cơm từ thiện, thì những câu chuyện tôi vừa kể vẫn là một ước mơ xa vời!
Edmonton, Thanksgiving 2025
4.NHƯ MỘT BÀI TẬP LÀM VĂN- THƠ TRẦN VẤN LỆ ĐẶNG XUÂN XUYẾN
“Như một bài tập làm văn” là bài thơ sáng tác gần đây của nhà thơ Trần Vấn Lệ.
Thơ 5 chữ, cuốn hút người đọc ngay từ những câu thơ đầu:
"Gió không chừa ngọn cỏ
Mưa không chừa lá nào"
Tả thực mà tinh tế, nhiều gợi cảm. Chữ không thừa không thiếu, vừa đủ để người đọc “cảm thấy”, "nhìn thấy" trận mưa quét rát rạt đang diễn ra trước mắt.
Câu: "Mưa gió rung rinh rào" làm nặng thêm sức lạnh của gió mưa, khiến người đọc gai người rùng mình với cảm giác cô đơn trước khung cảnh hoang vắng, lạnh lẽo của chiều mưa gió.
Câu: "Hoa đào còn, rụng hết..." ngắt thành nhịp 3/2 với dấu chấm lửng ở cuối câu khiến dư âm buồn của trận mưa quét đã tàn phá cảnh vật thêm u ám, xót xa.
Không gian và thời gian càng lạnh lẽo và hoang vắng khi nhà thơ đặt "Người đưa thư, một mình" giữa "Rộng mênh mông phố xá", nhất là cách ngắt câu ở "Người đưa thư, một mình" thành 2 vế để tăng thêm sự cô tịch và đẩy sự hoang vắng lạnh lẽo của phố xá chiều mưa nhuốm thêm u buồn sang nỗi lòng của người thơ.
Từ "làm" cố ý lặp lại ở câu: "Làm việc và làm thinh" chủ ý để nhấn mạnh hình ảnh lẻ loi nhưng cần mẫn, trách nhiệm với công việc trong suy nghĩ, hành động của người đưa thư.
"Cái bóng hình” người đưa thư “quen thuộc!" được Trần Vấn Lệ vẽ tiếp bằng những câu chữ bình dị, đời thường mà thật ấn tượng:
"Ông vẫn đi từng bước
Dừng lại trước từng nhà
Cái hộp thư mở ra
Cái hộp thư khép lại..."
Tôi bị những câu thơ này ám ảnh.
Hình ảnh người đưa thư cần mẫn, lặp lại đều đều những hành động đơn điệu, tẻ nhạt nhưng cần mẫn, chỉn chu như một lịch trình sắp đặt sẵn được nhà thơ quan sát kỳ thú và kĩ lưỡng đến từng chi tiết. Hai câu: "Cái hộp thư mở ra / Cái hộp thư khép lại..." thật ám ảnh những nỗi niềm về cõi người, phận người.
Rồi nhà thơ chạnh buồn, hẫng hụt:
"Mai, Chúa Nhật thì phải?
Sẽ không được thấy ông!
Phố xá đã mênh mông
Sẽ mênh mông thêm chút..."
Cặp từ "mênh mông" được sử dụng như điệp từ, lặp lại ở câu 3 và câu 4 của khổ thơ đẩy nỗi buồn thêm se sắt.
Nhịp thơ dàn trải, trầm buồn bỗng vướng chút loạn nhịp, tiết tấu thay đổi, với những hình ảnh khá đắt: "Mưa như cầm bình trút / Gió vẫn như lá cờ” khi dùng để ám dụ trận "cuồng phong" đang "nổi loạn" trong lòng thi sĩ:
"Mưa như cầm bình trút
Gió vẫn như lá cờ
Mưa gió và gió mưa
Cách ly đời ly cách..."
Đến đây người đọc mới vỡ lẽ nhà thơ bị "cầm tù" trong bốn bức tường bởi dịch virus Vũ Hán nên ông khao khát được “tự do”. Sự đảo từ "mưa gió" thành "gió mưa", "cách ly" thành "ly cách" ở ngay trong câu 3 và câu 4 của khổ thơ được sử dụng như một thủ pháp để diễn tả tâm trạng bức bối, tù túng, khao khát được tự do không chỉ của riêng nhà thơ Trần Vấn Lệ trong những ngày “cách ly xã hội” phòng chống virus Vũ Hán.
Nếu ở những khổ thơ trước là tâm trạng u buồn do ngoại cảnh (dịch virus Vũ Hán) tác động tới (cách ly xã hội) thì ở những khổ thơ cuối bài là tâm trạng u uẩn, đằm sâu trong trái tim người xa xứ. Hình ảnh người đưa thư lặp đi lặp lại suốt bài thơ như những thước phim quay chậm sự đơn độc nhưng cần mẫn, chỉn chu với công việc của người trung chuyển, để giữ sự bình yên, ấm êm cho xã hội.
Hình ảnh ấy khiến người con xa xứ nghẹn lòng khi nghĩ tới những lo toan, vật lộn tìm kiếm kế mưu sinh của những người thân nơi đất Mẹ Việt Nam giữa đại dịch virus Vũ Hán. Nhà thơ thốt lên:
Tôi nhớ quá Việt Nam
Mẹ Cha cõng mưa nắng...
Rồi kết thúc bài thơ ở kết mở, ai nghĩ sao thì tùy:
Cho tôi được im lặng
khi nghĩ về Quê Hương!
Tôi không thích cái kết của bài thơ như thế! Bởi yêu Quê Hương ai lại chọn giải pháp im lặng? Bất kỳ lý do nào, hoàn cảnh nào thì tôi nghĩ giải pháp: "Cho tôi được im lặng / khi nghĩ về Quê Hương" vẫn thuộc tâm thế của người có tình yêu Quê Hương chưa đủ lớn để vượt qua những trở ngại của phép tính giữ mình.
Nhưng đấy là quan điểm của tôi, theo góc nhìn của một bạn đọc. Còn kết thúc bài thơ thế nào? Ý tứ ra sao là quyền của nhà thơ Trần Vấn Lệ.
Với tôi, "Như một bài tập làm văn" là bài thơ nhiều cảm xúc, nhiều ám ảnh!
--------------
NHƯ MỘT BÀI TẬP LÀM VĂN
Gió không chừa ngọn cỏ
Mưa không chừa lá nào
Mưa gió rung rinh rào
Hoa đào còn, rụng hết...
Không thể nói là ghét
Không thể nói là thương
Không Địa Ngục, Thiên Đường
Im lặng. Buồn khôn tả!
Rộng mênh mông phố xá
Người đưa thư, một mình
Làm việc và làm thinh
Cái bóng hình quen thuộc!
Ông vẫn đi từng bước
Dừng lại trước từng nhà
Cái hộp thư mở ra
Cái hộp thư khép lại...
Mai, Chúa Nhật thì phải?
Sẽ không được thấy ông!
Phố xá đã mênh mông
Sẽ mênh mông thêm chút...
Mưa như cầm bình trút
Gió vẫn như lá cờ
Mưa gió và gió mưa
Cách ly đời ly cách...
Người đưa thư che mặt
Cái khẩu trang đẫm mưa
Ông không thấy bơ vơ
Bạn ông là công việc!
Tôi từng thấy xứ tuyết
Người đưa thư đi làm!
Tôi nhớ quá Việt Nam
Mẹ Cha cõng mưa nắng...
Cho tôi được im lặng
khi nghĩ về Quê Hương!
*.
TRẦN VẤN LỆ
*.
ĐẶNG XUÂN XUYẾN Bạch Liên
Sáng nay tí tách mưa êm
Trong nhà không biết mưa mềm... như ru
Nhìn qua cửa sổ âm u
Mới hay mưa đã vào thu… thật rồi !...
*
Mưa mang giọt nước lên ngôi
Cho tôi gợi nhớ cái nôi chào đời
Nhớ về quê Ngoại bên trời
Bao mùa thay lá, xa rời phố xưa
Hương đồng cỏ nội, miền tây sông nước chằng chịt sông ngòi. Sông mẹ chia nhánh nhỏ, loang chảy ra trăm hướng. Nhánh nhỏ lững lờ len vào vùng đất xa hơn, tạo ra các mạch sông hiền hòa đi vào xóm làng hẻo lánh.
Như chúng ta đều biết, mấy mươi năm xưa, miền quê có đời sống êm đềm, thanh bình. Những dãy nhà tranh lợp lá dừa cho mát mẻ. Nhà này cách nhà kia một khoảng rộng khá xa.
Hàng rào ngăn chia ranh giới chỉ là dừa nước, hay lưa thưa cây ăn trái mà thôi. Chủ đất nào cũng có chiếc cầu ván đơn sơ. Mấy cây cột và dăm ba miếng ván được đóng đinh, dính kết vào nhau. Hình ảnh chông chênh nhìn thoáng qua, giống như cánh tay gầy gò nhô ra mé bờ, để tiếp giáp với dòng phù sa màu mỡ.
Cầu ván mộc mạc này chơi vơi giữa mây trời, mặc dù bị ngâm lạnh ngày đêm dưới mực nước. Mà lòng sông chỉ toàn là bùn đất sền sệt. Miền quê chân chất, dân làng giao thương mua bán bằng chiếc xuồng chèo tay đơn giản. Ghe xuồng rất ích lợi vì không cần tốn tiền mua xăng nhớt.
Họ chỉ tốn tiền mua chiếc ghe một lần, dùng được nhiều năm. Xăng ở đây là sức lao động chèo chống với con nước ngược xuôi, đong đưa dọc theo hai bờ. Dân làng thường có bản chất tằn tiện, nên ai cũng sắm cho mình chiếc xuồng ba lá, làm phương tiện đi ra chợ làng.
***
Cô, Dì, Chú, Bác tôi vừa kể chuyện cổ tích, đời xửa đời xưa. Những dòng chữ đơn sơ, không cầu kỳ. Tôi đang vẽ ra nụ cười mộc mạc, chỉ giúp quý độc giả nhớ về bức tranh bình dị. Thuở tôi là bé con loắt choắt, chạy rong chơi khi về thăm quê Ngoại.
Từng nhân vật mà tôi vừa nhắc nhớ trong khúc phim xa lắc xa lơ đó, hình như tất cả đã ra người thiên cổ. Nhiều người đà âm thầm khuất bóng sau khi tôi bước chân xuống thuyền cưỡi sóng đại dương.
Tóc xanh của các cậu loai choai chạy nhảy dạo ấy, cũng đã bạc màu già nua. Từng khoảnh khắc xảy ra, tất cả đã nhuốm vào dâu bể, lặn ngụp với bão dông trường đời.
Quá khứ an phận ở lại sau lưng. Mọi diễn biến cũng đã xảy ra hơn nửa thế kỷ. Cũng như tôi đã trải qua mấy mươi mùa thu thay lá ở quê hương thứ hai.
Mơ màng về quê xưa
Lao xao hàng cau, dừa
Nay hoàn toàn thay đổi
Không còn võng đong đưa
OCT - 2025
Bạch Liên ĐẶNG XUÂN XUYẾN ĐẶNG XUÂN XUYẾN 7. PHẠM PHAN LANG -Nữ Trung Tá Lục Quân Hoa Kỳ Làm Thơ Việt Giữa Hai Bờ Quê Hương Y Thy Võ Phú Y Thy Võ Phú 8. Ký sự Anh Hùng Xa Lộ Bất Đắc Dĩ Thanh Hà Thanh Hà IV. Hộp Thư Toà Soạn
___________________________________________________
Thể lệ để nhận Nguyệt San Giao Muà:
1) Ðể vào danh sách của NSGM (subscribe),
xin gửi email về GiaoMua2025@gmail.com
Ðịa Chỉ Liên Lạc:
Nguyệt San Giao Muà
Copyright
2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors
1. XỚN XÁC TUỔI GIÀ
-----------------
Tuần trước đi chợ chị Bông đã biết sắp đến sinh nhật của cháu nội yêu Betsy, chị mua ngay một tấm thiệp đẹp để sẵn vậy mà chị Bông lại…quên mất. Chồng bảo dấu hiệu của tuổi già. Chị Bông cãi:
- Chỉ là quên…thường tình, không vì tuổi tác.
Tối qua chị mới chợt nhớ ra thì chỉ còn một ngày nữa là sinh nhật cháu nên vội vàng bảo anh Bông ký check 200 đồng làm quà tặng, còn chị phải…lò mò cặm cụi viết lời chúc.
Anh Bông ký check xong để ra bàn:
- Tôi ký check nhanh chớp nhoáng chỉ mấy chục giây còn bà ghi vài câu chúc cho cháu mà nãy giờ vẫn còn trên…giấy nháp.
Chị Bông giải thích:
- Cháu nội nghe được tiếng Việt nhưng không đọc được tiếng Việt vì thế em phải viết bằng tiếng Anh, mà Betsy mỗi lần gởi thiệp chúc sinh nhật chúng ta nó đều viết những lời văn hoa đẹp đẽ nên em cũng cố làm tương tự để…đáp lại tấm thịnh tình ấy vì thế mới tốn thì giờ. Thử viết bằng tiếng Việt xem, em sẽ viết vèo một cái là xong, trước khi anh ký xong cái check nữa đó.
Cuối cùng thì chị Bông cũng đã ghi được vào tấm thiệp những lời chúc sinh nhật hoa mỹ bay bướm bằng tiếng Anh cho cô cháu nội. Bỏ tờ check vào tấm thiệp chị Bông hớn hở dán phong thư và muốn chắc ăn chị ra bỏ ngay vào thùng thư sợ mai ngủ dậy muộn lại quên thì càng trễ thêm.
Tối lên giường đi ngủ chị Bông vẫn sung sướng nghĩ đến tấm thiệp đẹp với lời chúc hay ho của mình ngày mai sẽ trên đường bay đến Utah, đến tay Betsy. Chị đang lim dim sắp đi vào giấc ngủ ngon bỗng giật thót tim, một linh tính nào đó mách bảo làm chị lo lo… lá thư chưa hoàn hảo, dù lá thư đã bỏ vào thùng thư nhưng hình như…chưa được dán tem ?
Dĩ nhiên thư chưa dán tem sẽ bị trả về nhưng sẽ mất thêm thời gian và biết đâu thư bị thất lạc thì kẻ gian có thể mở thư lấy tấm check 200 đồng và giả mạo cash tấm check ??!!
Thế nên sáng nay sắp đến giờ thường lệ xe bưu điện đến chị Bông ra canh chừng ở thùng thư, may là thùng thư chung ở ngay trước cửa nhà chị Bông, cứ mỗi quãng phố lại có một thùng thư chung gồm 8 nhà. Chị Bông đợi khi ông bưu điện mở thùng lấy thư chị sẽ xin phép ông cho xem lại lá thư của mình và dán tem ngay tại chỗ. Anh Bông thương cảm:
- Bà ráng đứng đợi ông bưu điện nhé. Tội nghiệp, bà trẻ hơn tôi 5 tuổi nhưng đã già…hơn tôi. Gởi thư mà lú lẩn quên chưa dán tem.
Đang lo lá thư lại bị chồng chê già lần nữa chị Bông thêm tức lộn ruột nhưng không cãi vào đâu được. Đành chịu.
Khoảng 10 giờ 15 thì chiếc xe bưu điện lù lù xuất hiện ở đầu đường, chị Bông rộn rã vui mừng như người ta chờ đợi người yêu và sắp gặp mặt chàng. Xe bưu điện ngừng ở hai thùng thư nơi hai quãng phố làm chị Bông sốt ruột như Hồ DZếnh âu yếm trách người yêu “Gớm, sao mà lâu thế..”
“Chàng” bưu điện đang từ từ lái xe đến thùng thư khu nhà chị Bông, “chàng” đâu biết rằng đang có kẻ dõi theo “chàng” từng phút giây này.
Hôm nay chị Bông mới được dịp nhìn kỹ mặt ngang mũi dọc “chàng” đưa thư nhà mình, thường ngày nếu có gặp chị cũng làm ngơ vì…tự ái và tủi thân. Ngày xưa chị Bông mộng thi vào bưu điện, công việc ổn định lương cao, nhưng chỉ thi thử đã không đủ điểm để tự tin đi thi thật, mà cũng đáng đời vì tính chị Bông hay xớn xác trong khi làm cho bưu điện dù ngồi lựa thư hay ra ngoài đường đưa thư đều cần trí nhớ tốt, chính xác và nhanh nhẹn.
“Chàng” bưu điện dễ thương làm sao, khi chị trình bày “chàng” mỉm cười mở thùng thư ra chị Bông thấy ngay tấm thiệp của mình chưa dán tem đúng như linh tính. Với con tem đã sẵn sàng trên tay chị Bông dán ngay vào để không làm mất thì giờ của “chàng” và cám ơn rối rít.
Lần này thì chị Bông thực sự yên tâm. Lá thư đã hoàn hảo từ trong ra ngoài. Vài ngày nữa cháu sẽ nhận thiệp nhận quà, cháu sẽ gọi phone cho bà nội líu lo ngọng nghịu nửa tiếng Việt nửa tiếng Anh vì tiếng Việt cháu không nhiều. Bà nội cũng líu lo nửa tiếng Anh nửa tiếng Việt với cháu vì tiếng Anh của bà cũng chẳng là bao.
Chị Bông mang vào nhà một lá thư của hãng điện, thời đại này thùng thư nhà nào cũng chỉ nhận le que mấy cái thư bill và báo chợ báo quảng cáo mà thôi.
Buổi chiều anh Bông mang checkbook ra ký check để gới trả bill tiền điện. Thấy nét mặt anh bỗng nhiên thẫn thờ chị Bông thắc mắc:
- Bộ tiền điện tháng này tăng cao lắm hả anh?
Anh Bông khẽ…thở dài:
- Không phải thế….chả là tôi vừa…phát giác ra…
- Anh ký check lầm lẫn tiền bạc hả anh?
- Không phải thế…chả là tôi …viết check mà …..quên chưa ký tên.
- Tưởng gì, thì bây giờ anh ký tên đi có muộn màng chi đâu..
- Nhưng tôi quên ký tên là….cái check bà đã gởi làm quà cho Betsy rồi đó…
Chị Bông kêu kên thất vọng:
- Ối trời ơi…thế nghĩa là lá thư gởi đi vẫn chưa hoàn hảo, cháu sẽ nhận tấm thiệp chúc sinh nhật mà không có quà vì cái check chưa ký tên thì vô giá trị. Sao anh không phát hiện sai sót sớm như em ? Bây giờ ông đưa thư đã mang thư đến tận nơi đâu rồi…
- Sorry nha, tôi làm trễ thêm món quà sinh nhật gởi cho cháu nội rồi. Mà…tại bà đó, cứ hối hả làm tôi cũng hối hả theo.
- Đừng đổ vạ. Thế mà anh chê em già lú lẩn…Vậy ai già hơn ai?
Anh Bông biết điều:
- Cả hai vợ chồng mình cùng già, cùng xớn xác như nhau. Tôi sẽ viết lại cái check khác cho Betsy ngay bây giờ và ký tên…trước mặt bà, cũng như bà sẽ bỏ check vào phong thư có ghi địa chỉ và dán tem …trước mặt tôi. Lần này thì bảo đảm lá thư sẽ hoàn hảo.
Chị Bông đồng ý:
- Ừ, từ giờ trở đi bất cứ chuyện lớn nhỏ gì người nọ cũng kiểm soát người kia, nhắc nhở người kia cho chắc ăn. Tuổi già ai cũng có thể sai sót thế đấy.
-----------------
Ở chỗ tôi làm, chị bạn người Cambodia có chồng bất ngờ qua đời vì heart attack. Cả nhóm chúng tôi hẹn nhau đến nhà quàn thăm viếng tang gia, nhưng chiều hôm ấy tôi có việc đột xuất, rồi bị lạc đường, nên đến nơi thì trời đã chạng vạng, bãi đậu xe vắng tênh. Tôi nghĩ bụng, đã đến rồi thì phải vào xem sao, may quá, chị bạn đứng ngay giữa sảnh đang nói chuyện với một nhân viên nhà quàn. Thấy tôi, chị nắm tay tôi nức nở:
- Cám ơn Laura đã đến, nhưng đã hết giờ thăm viếng nên quan tài đã được đẩy trở vào phòng lạnh trên lầu. Nhờ anh nhân viên dẫn Laura lên đó nghen, còn mình phải đứng đây chờ con trai mang giấy tờ bổ sung các thủ tục ma chay.
Giờ thì tôi mới nhìn kỹ chàng nhân viên này. Anh ta dáng rất cao to như một vệ sỹ (chắc là “tiêu chuẩn” của nhà quàn chăng?), đẹp trai phong trần nhưng tuổi tác khó đoán, đặc biệt là khuôn mặt rất hay… cười. Mà tôi cũng chả biết nói sao về nụ cười này, vì miệng anh ta rộng, hàm răng quá trắng và quá đều trên mức cần thiết, nên khi nở miệng cười như có chút đùa cợt, và chút tinh quái lạ lùng. Tôi gọi anh ta là chàng Răng Trắng .
Tôi làm chung với chị này chưa đầy năm, chưa gặp mặt cũng chả biết tên chồng chị ấy, hôm nay đến để an ủi chia buồn với chị. Tôi chần chừ, muốn từ chối cái vụ “lên lầu viếng xác” nhưng chị ấy nhìn tôi với đôi mắt ướt sũng đỏ hoe, và chàng Răng Trắng đang đứng dưới chân cầu thang với ánh mắt thôi miên, mỉm cười, như chọc quê tôi nhát gan, khiến tay chân tôi rụng rời, chỉ biết ngoan ngoãn líu ríu theo anh ta lên lầu.
Lầu rộng mênh mông, cuối giờ làm nên vắng lặng, chả thấy ma nào, (í lộn, chả thấy người nào). Ngoài trời mùa Thu mây xám cũng không u ám bằng không khí trên lầu nhà xác này. Chân tôi bắt đầu run, sàn nhà bóng lộn, tôi mà run thêm tí nữa là té chớ chẳng chơi. Rồi thì cũng đến căn phòng ngay cuối hành lang. Chàng Răng Trắng lịch sự mở cửa nhường tôi vào trước, (lịch sự cũng trên mức cần thiết luôn á). Tôi run rẩy bước vào, chàng Răng Trắng theo sau, bước tới vén tấm màn nhung màu đỏ cho tôi nhìn thấy chiếc quan tài, rồi nhẹ nhàng lui bước. Tôi vã mồ hôi hột, chưa biết phải làm gì thì nghe sau gáy mình có tiếng thở, tôi quay phắt lại thì thấy chàng Răng Trắng đang nhoẻn miệng cười:
- Xin lỗi, xin lỗi, tôi quên mở nắp quan tài cho cô nhìn bạn cô lần cuối.
Lỗi phải gì chớ, bạn bè gì chớ, tôi nào biết mặt ngang mũi dọc người quá cố ra sao! Tôi quay qua định giải thích và lắp bắp cầu cứu van xin anh ta ở lại với tôi, nhưng anh ta đã nhanh tay mở nắp quan tài, và cũng nhanh nhẹn biến mất ngoài cửa. Tôi vẫn đứng chôn chân tại chỗ, miệng môi tê cứng, chắp tay thì thầm : “Anh gì đó ơi ơi, anh yên nghỉ nhe…” rồi làm dấu thánh giá theo thói quen, và đi lùi bước ra cửa, ào ào như một cái máy, đến cầu thang nghe tiếng chị bạn nói chuyện, tôi mới biết mình đã qua cơn sợ hãi, coi như “tai qua nạn khỏi”.
Thôi thế cũng xong phần chia buồn, tôi mừng rỡ nghĩ thầm, bước đến bên chị để mở lời an ủi cuối cùng và chào tạm biệt, thì chị bạn, lại một lần nữa, nắm tay tôi, mếu máo van xin:
- Laura ơi, con trai chị bận việc phải đi rồi, Laura có thể ở lại cùng chị theo chàng nhân
viên này xuống dưới basement nhà quàn để chọn hũ đựng tro cốt cho chồng chị nhe.
Nước mắt chị giọt vắn giọt dài, thảm não, Răng Trắng bỗng xuất hiện hồi nào mà tôi hổng hay biết, chàng nhìn tôi nháy mắt… mỉm cười. Tôi nỡ lòng nào nói lời từ chối chị ấy trong cơn hoạn nạn này? Lỡ leo lưng cọp thì leo tới cùng chớ sao!
Xuống dưới basement, cũng rộng mênh mông như trên lầu, nhưng vì dưới tầng hầm nên chỉ có ánh đèn màu vàng heo hắt, mờ nhạt èo uột, càng làm không khí thêm não nề. Đi vòng qua mấy khúc cua, mỗi khúc có một bức tranh màu tối treo trên tường và một bình hoa giả to tướng ngay chiếc bàn nhỏ, (chả hiểu họ để tranh để hoa dưới đây cho... ai ngắm?), tiếp theo là đến phòng đầy ắp các hũ các loại cho người nhà chọn lựa cho người đã khuất. Phòng này đèn tương đối sáng, tôi giúp chị ấy chọn được một hũ, giá cả phải chăng, rồi đứng chờ gần cửa trong khi chị ấy tiếp tục phần giấy tờ với chàng Răng Trắng.
Lúc này tôi mới nhớ ra, hồi nãy trước khi rời nhà vội vã, tôi có uống một ly nước, nên giờ muốn tìm nhà vệ sinh. Tôi cũng ráng nhịn nhưng cái bụng không chịu yên, lại thấy phòng washroom ngay kế bên, tôi bèn hỏi chàng Răng Trắng có cần chìa khoá đi washroom không, chàng bảo là cứ mở cửa vào.
Tôi bước qua bên ấy, lấy tay mở cửa thì thấy kẹt cứng, nghĩa là có người ở bên trong. Tôi đành đứng đợi, đúng lúc đó chị bạn và chàng Răng Trắng cũng xong xuôi mọi việc, nên tôi theo họ đi trở lại trên sảnh. Chị bạn quay qua tôi “thank you” liên tục, rồi chuẩn bị ra ngoài có con trai chị đã đến đón. Chàng Răng Trắng cũng khoác áo vào rồi theo chúng tôi, khoá cửa ra về. Tôi hốt hoảng:
- Anh cũng về sao? Tôi nghĩ còn người dưới nhà vệ sinh, hồi nãy tôi không vào được vì cửa khoá.
Chàng Răng Trắng lại cười bí hiểm:
- Oh, không có ai đâu! Tôi là người làm việc cuối cùng ngày hôm nay.
Tôi vẫn cãi:
- Anh nên kiểm tra lại, vì hồi nãy nhà vệ sinh khoá bên trong, tức là có người, hay là khách hàng nào đó?
Răng Trắng xua tay:
- Chị này và cô là khách cuối cùng, tôi biết mà. Còn cái vụ washroom bị khoá cửa là chuyện bình thường. Nhiều khi tôi ở lại làm tối, còn nghe cả tiếng gạt nước bồn vệ sinh nữa cơ. Quen rồi!
Tôi lên giọng:
- Anh đang đùa có phải không? Tôi không thích đâu!
Răng Trắng lắc đầu, cười mỉm chi:
- Cô muốn nghĩ sao thì tùy cô đấy. Cô không biết rằng “mấy người” nằm trên kia cũng có nhu cầu đi vệ sinh hay sao, hahaha ... Mà thôi muộn rồi, chào cô nhé! Chúc một buổi tối an lành.
Tôi liếc chàng ta, nghiêm mặt lạnh lùng (giỡn hổng dzui gì ráo!), rồi bước xuống bậc tam cấp, chị bạn đã về từ lúc nào, cả cái bãi đậu xe mênh mông trong bóng tối mờ mờ với chiếc xe của tôi lẻ loi, vậy chàng Răng Trắng đậu xe ở đâu nhỉ? Trời sập tối, gió lạnh đến run người, nghe cả tiếng lá khô xào xạc dưới đất theo từng cơn gió. Tôi bỗng nghe tiếng bước chân phía sau mình. Mà là ai mới được chớ, vì bãi đậu xe chỉ có xe tôi? Hay là tôi tưởng tượng theo tiếng lá khô? Tôi bước nhanh hơn, thì bước chân phía sau cũng nhanh hơn, như cố đuổi theo tôi. Tôi bắt đầu chạy, thì cũng nghe tiếng chạy theo. Tôi tiếp tục chạy theo bản năng, đến bên chiếc xe thì một lần nữa, nghe tiếng thở dồn dập ngay sau gáy, tôi quay người lại thì thấy khuôn mặt chàng Răng Trắng đang nhe răng cười, đưa cho tôi một chiếc bao tay:
- Cô làm rớt nè! Mà sao cô chạy nhanh quá, tôi rượt theo hết cả hơi. Thôi cô về đi, kẻo lạnh.
Tôi chụp cái bao tay, chưa hoàn hồn nhưng vẫn nói lời cảm ơn, chui vào xe, rồ ga thật mạnh lao ra khỏi bãi đậu xe. Nhìn lên kính chiếu hậu, bóng chàng Răng Trắng vẫn đứng đó, lần này không nở nụ cười mà la lớn:
- Cô lái xe cẩn thận nhé , đường một chiều đó nghen!
*
*
****
*
Đầu năm 1998, nhà báo kỳ cựu Trần Lâm “nã” phát đại bác đầu tiên vào cuốn GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH (Nhà xuất bản Y học - 1997, Đặng Xuân Xuyến chủ biên) do Nhà sách Bảo Thắng liên kết xuất bản. Sau đó Cục Xuất bản ra quyết định thu hồi cuốn sách GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH trên toàn quốc và “chỉ thị miệng” với các Nhà xuất bản về việc cấp giấy phép xuất bản cho Nhà sách Bảo Thắng.
Ông Nguyễn Đình Nhã, quê ở Ân Thi, Hưng Yên, lúc đó làm Cục trưởng Cục Xuất bản đã chỉ thị miệng cho các nhà xuất bản không cấp giấy phép xuất bản cho tác giả Đặng Xuân Xuyến và các đề tài Nhà sách Bảo Thắng đăng ký xuất bản để: "Thanh lọc Nhà sách bát nháo ra khỏi nghề kinh doanh xuất bản phẩm.". Vụ "GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH" chỉ là cớ để ông Nguyễn Đình Nhã "dạy dỗ thằng Bảo Thắng" vì những "đầu nậu" sách có tên tuổi ở Hà Nội - Sài Gòn đã lần lượt “đến chào ra mắt” khi ông mới chân ướt chân ráo từ Sở Văn hóa Hải Hưng được Bộ Văn hoá nhấc lên đặt vào ghế Cục trưởng Cục Xuất bản mà “thằng mất dạy" Đặng Xuân Xuyến ở ngay tại Hà Nội cũng mãi không chịu "trình diện".
Vài tờ báo phía Nam (Tuổi Trẻ, Sài Gòn Giải Phóng...) mấy tháng liền đăng bài chửi Đặng Xuân Xuyến là “Sơn Đông Mãi Võ”, “con nhà giàu, học chưa hết cấp 3 nhưng ngu dốt, học mãi không vào nên bỏ học, bố mẹ cho tiền mở cửa hàng sách để đỡ hư hỏng nhưng hám danh đã thuê người viết đứng tên tác giả để sĩ”... rồi gán tội: Tuyên truyền lối sống bệnh hoạn của phương Tây để phá hoại thuần phong mỹ tục,... chỉ vì quan điểm cởi mở nhưng đúng với quan điểm của các nhà khoa học trên thế giới của nhóm tác giả: Tình dục là nhu cầu chính đáng của con người, không thuộc phạm trù đạo đức nếu những hành vi tình dục đó không vi phạm pháp luật, không trái với luân thường đạo lý của người Việt. Ròng rã mấy tháng trời, hầu như tuần nào báo in (ngày đó chưa có internet) cũng có bài “ngợi ca" Đặng Xuân Xuyến với hầm bà zằng các loại văn chửi. Cuối năm 1998, Tuổi Trẻ Cười còn “cưỡng giải” Trái Cóc Xanh cho Đặng Xuân Xuyến để “gây quỹ”.
Ngày đó, mới tốt nghiệp Đại học Văn hóa Hà Nội được vài năm, tôi đang mải kiếm tiền nên không nghĩ đến việc lưu giữ các bài báo "chửi dạo" đó để sau này ra tập sách "NGHE... CHỬI DẠO" làm kỷ niệm ngót nghét 20 năm tôi viết sách, làm xuất bản và kinh doanh xuất bản phẩm!
Tổng Biên tập báo Biên Phòng lúc bấy giờ là nhà báo Vũ Mạnh Tường biết tôi bị dằn mặt đánh hội đồng giữa các đầu nậu ở Hà Nội đã lẳng lặng ra tay dẹp nạn đồng ca “chửi Đặng Xuân Xuyến theo Trần Lâm” nên tôi tạm được “yên thân” để làm ăn.
Các Nhà Xuất bản cũng gần như đồng loạt không cấp phép xuất bản cho tác giả Đặng Xuân Xuyến và những đề tài Nhà sách Bảo Thắng đăng ký (lúc đó tôi chưa thành lập Công ty Văn hóa Bảo Thắng) theo lệnh miệng của Cục trưởng Cục Xuất bản Nguyễn Đình Nhã. Ông Nguyễn Khắc Oánh, Giám đốc Nhà Xuất bản Hà Nội khuyên tôi lấy bút danh để tạm thời “lách luật” ngầm của Cục Xuất bản.
THÁI ĐẮC XUÂN được chọn làm tên tác giả cho 25 bản thảo (100 truyền thuyết Việt Nam hay nhất, 100 sự tích Việt Nam hay nhất, 100 truyện cổ tích Việt Nam hay nhất, 208 điều cấm kỵ với trẻ em, 217 điều kiêng kỵ với người cao tuổi,....) tuyển soạn, biên soạn, sưu tầm, giới thiệu... và 3 chữ Thái Đắc Xuân đã giúp tôi vượt qua giai đoạn khó khăn khi mới bước chân vào nghề kinh doanh xuất bản phẩm.
Sau này tôi mới biết, nhà báo Trần Lâm "phang" GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH vì ông "ác cảm" với quan điểm "quá thoáng" về tình dục của nhóm tác giả (nhưng mười lăm năm trở lại đây (2022) thì những vấn đề về tình dục mà nhóm tác giả đề cập trong cuốn GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH đã trở nên bình thường trong nhìn (thừa) nhận của xã hội Việt Nam) thì mấy Nhà sách (đầu nậu) có thương hiệu ở Hà Nội nắm lấy cơ hội, thuê vài nhà báo quây lại đánh GIỚI TÍNH VÀ GIÁO DỤC GIỚI TÍNH vì Nhà sách Bảo Thắng mới trình làng vài năm đã "lấy" khá nhiều khách ruột của "họ". Không may cho tôi, nhà báo Trần Lâm thuộc diện "cây đa cây đề" trong làng báo chí cách mạng nên xuất hiện thêm vài nhà báo "tranh thủ góp vốn chửi dạo" cho thêm phần "nhộn nhịp".
Chú Nguyễn Văn Cừ, Giám đốc Nhà xuất bản Y học vì vụ “Giới tính và giáo dục giới tính” mà phải bàn giao ghế giám đốc Nhà xuất bản trước kỳ hạn 6 tháng. Khi tôi xin lỗi vì tôi mà Ông gặp hoạ, Ông cười buồn: "Cháu bị họ hại, chắc bị tổn thất cũng nhiều. Chú đã nhận thông báo bàn giao để chuẩn bị nghỉ hưu từ giữa năm ngoái, chỉ là bàn giao sớm hơn mấy tháng thôi.".
*.
Phạm Phan Lang vừa là tên thật, vừa là bút hiệu. Bà là một nhân chứng của lịch sử và một tâm hồn thi ca đầy rung cảm. Phạm Phan Lang là người phụ nữ Việt Nam đã đi qua chiến tranh, ly hương và mất mát... để rồi gầy dựng lại cuộc đời nơi đất khách trong quân phục và qua những vần thơ. Trong nền văn học người Việt hải ngoại, Phạm Phan Lang là
biểu tượng của nghị lực phi thường, tình mẫu tử thiêng liêng, nỗi hoài vọng quê nhà và khả năng chữa lành bằng thi ca. Sinh năm 1950 tại Nha Trang, Phạm Phan Lang lớn lên dưới
bóng dừa, nghe gió biển ru, học ở hai ngôi trường danh tiếng Nữ Trung Học và Võ Tánh, nơi hình ảnh phố biển, cánh buồm, lời ca con sóng đã sinh sôi trong tâm thức tuổi trẻ.
Đến năm 1975, trong đêm 29 tháng 4, bà rời Việt Nam cùng chồng, Thiếu Tá Hải Quân Phạm Văn Diên, trên chiếc chiến hạm nhỏ, mang theo ba con thơ và gia đình nội ngoại. Cuộc hành trình ly hương bắt đầu từ hai bàn tay trắng. Tại Hoa Kỳ, vượt bao gian lao, Phạm Phan Lang tốt nghiệp Cử nhân Dinh dưỡng hạng ưu (Summa Cum Laude) tại Đại học Maryland năm 1980. Cùng năm, bà gia nhập ngành Quân Y, bước vào binh nghiệp với cấp bậc Thiếu Úy. Sau khi hoàn tất chương trình thực tập Dinh Dưỡng của Lục Quân Hoa Kỳ (1981), tiếp tục học lên Thạc sĩ Điều Hành & Lãnh Đạo (năm 1985). Trong suốt 22 năm phục vụ (1980–2002), Phạm Phan Lang đã đảm nhận bảy nhiệm sở khác nhau, từ Hoa Kỳ đến Đức và khu vực Thái Bình Dương. Điểm dừng chân cuối cùng trong sự nghiệp quân ngũ của bà là Tripler Army Medical Center tại Hawaii, nơi bà giữ chức Giám đốc Phân Khoa Dinh Dưỡng. Bà từng được thông báo sẽ được thăng cấp Đại Tá, nhưng đã chọn gác lại cơ hội đó để giữ cuộc sống bình yên tại Hawaii; vùng đất có tiếng sóng vỗ rì rào, hoa trái nhiệt đới, và một không gian tình cảm gợi nhớ quê hương, trở thành chốn nương tựa tinh thần sau những năm tháng bôn ba.
Tại nhiệm sở này, ngoài vai trò quản lý chuyên môn tại Tripler, bà còn kiêm nhiệm chức vụ Cố vấn Dinh Dưỡng vùng Thái Bình Dương (Nutrition Consultant for Pacific Region), phụ trách tư vấn và giám sát các hoạt động dinh dưỡng của các đơn vị Lục Quân Hoa Kỳ đóng quân khắp khu vực, bao gồm cả Nhật Bản và Nam Hàn.
Năm 1985, một biến cố lớn đã xảy đến khi người chồng của bà qua đời trong một tai nạn bi thảm tại bãi biển Folly Beach, South Carolina, khi cố gắng cứu bốn đứa trẻ khỏi bị sóng cuốn trôi.
Trước nỗi mất mát to lớn, bà từng cân nhắc rời quân ngũ, nhưng rồi đã quyết định tiếp tục phục vụ như một cách để giữ vững cuộc sống và nuôi dạy ba người con. Tất cả các con của bà đều trưởng thành và thành đạt. Đặc biệt, người con gái út, khi rời Việt Nam mới một tuổi và là đứa bé được bố cứu thoát chết trên bờ biển Folly năm nào, đã tốt nghiệp đại
học Stanford và UC Berkeley, và hiện là quản lý cấp cao tại tập đoàn công nghệ Google.
Sau khi nghỉ hưu năm 2002, bà dành thời gian sáng tác thơ, nhạc, nhiếp ảnh và tham gia các hoạt động văn hóa, văn học của cộng đồng người Việt tại Mỹ và trên thế giới.
Phạm Phan Lang là thành viên của: Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Thi Văn Đàn Văn Thơ Lạc Việt, Minh Châu Trời Đông, Cô Gái Việt...
Tập thơ đầu tay “Thơ Phạm Phan Lang” (2025) tuyển chọn từ hơn hai thập niên sáng tác, nhiều bài thơ trong đó đã được phổ nhạc và lan tỏa rộng rãi trong cộng đồng.
Trong phần đầu tập thơ, Phạm Phan Lang viết:
“Tập thơ này được viết để tưởng nhớ người chồng yêu quý, Phạm Văn Diên, người đã hy sinh cách đây 40 năm trong ngày Lễ Độc Lập 1985, khi cứu ba đứa trẻ thoát khỏi cái chết giữa
dòng nước dữ. Những vần thơ trong tập phần lớn là tiếng gọi của nỗi nhớ và tình yêu dành cho anh.”
Lòng thương nhớ người chồng quá cố là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tập thơ, một nỗi đau lặng lẽ nhưng thấm đẫm tình yêu, trung thành và không nguôi theo năm tháng. Đó không chỉ là những ký ức riêng tư, mà còn là lời thì thầm từ trái tim một người vợ suốt bốn mươi năm chưa một lần ngơi nghỉ trong hoài niệm.
Thơ của Phạm Phan Lang không phải là những dòng tản mạn nhẹ nhàng, mà là tiếng vọng sâu thẳm từ nội tâm của một người phụ nữ từng đi qua chiến tranh, chia ly, mất mát và cả hành trình hồi sinh.
Từ hiện thực khốc liệt của cuộc đời, thơ bà cất lên bằng một ngôn ngữ giản dị nhưng đầy ám ảnh, nơi thiên nhiên, ký ức, tình mẫu tử và nỗi cô đơn nơi đất khách hòa quyện thành nhịp thở âm thầm của một linh hồn từng nhiều lần tan vỡ nhưng không bao giờ gục ngã.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một vài thi phẩm trích từ tuyển tập “Thơ Phạm Phan Lang” (2025) dưới đây.
-oOo-
1. “Vá Khâu Nỗi Buồn”
Người đi đêm ấy trăng mờ
Rừng khuya buốt lạnh thẫn thờ lá rơi
Lá rơi phủ kín chân đồi
Có người con gái đôi môi nhạt màu
Đèn chong thổn thức đêm thâu
Nằm nghe gió gọi biết đâu tìm người
Làm sao nhặt gió ngàn khơi
Làm sao gió thổi đến nơi người nằm
Người nằm trong chốn xa xăm
Rừng im im vắng trăng thăm thẳm sầu
Người nằm trong huyệt mộ sâu
Ta vun lá rụng vá khâu nỗi buồn
“Vá Khâu Nỗi Buồn” không chỉ là khúc bi ca cho một cuộc chia tay vĩnh viễn, mà còn là lời tiễn đưa lặng lẽ cho cả một thế hệ đã sống sót sau mất mát. Những người phụ nữ Việt Nam tha hương, mang theo ký ức chiến tranh và học cách sống tiếp, với những vết thương không bao giờ lành hẳn.
Hai câu đầu đã dựng nên cả một khung cảnh âm u và giá lạnh.
Không phải đêm trăng sáng hay gió mát thì thầm, mà là “trăng mờ”, “rừng khuya buốt lạnh”... mọi thứ đều nhuốm màu mất mát. Lá rơi không chỉ là chuyển động của thiên nhiên, mà là tiếng thở dài của tâm hồn đang tiễn biệt. Thiên nhiên ở đây không còn là bối cảnh, mà đã trở thành nhân vật, một nhân chứng lặng câm cho
nỗi đau của người ở lại.
“Vá Khâu Nỗi Buồn” là bài thơ của ký ức, của yêu thương và sự tái sinh âm thầm. Nó nhắc nhở chúng ta rằng nỗi buồn không thể xóa nhòa, nhưng bằng tình yêu và thơ ca, con người vẫn có thể tự mình hàn gắn, vá lại cuộc đời.
2. “Nhớ Mẹ Hiền”
Bài thơ nhẹ nhàng, sâu sắc về tình mẫu tử. Không dùng ẩn dụ cầu kỳ, bài thơ thẳng vào trái tim người đọc bằng sự mộc mạc, chân thật như tình mẹ vẫn vậy, luôn bền bỉ và bao dung. Bài thơ mở đầu từ một dịp đoàn tụ ngày Tết, khi người con trở về thăm mẹ:
Tết năm đó con về quê thăm mẹ
Mẹ nghẹn ngào ôm con mãi vào lòng
Cái ôm nghẹn ngào như một linh cảm, báo trước có thể là lần cuối cùng. Mỗi chi tiết sau đó đều gợi lên nỗi tiếc nuối da diết: từ chiếc áo bông mẹ mặc, đến những bước chân run rẩy dẫn con trở về khu vườn xưa. Những hình ảnh ấy không chỉ là về mẹ, mà còn khơi dậy cả một vùng ký ức quê hương.
Cảm xúc đỉnh điểm là lúc hai mẹ con cùng nhau nằm ngủ, như thuở con còn bé:
Mẹ ầu ơ, tiếng hát chẳng còn trong
Ru con ngủ, tay lần trong áo mẹ
Chỉ một hành động “tay lần” cũng đủ làm trái tim người đọc thắt lại. Đó là hơi ấm cuối cùng, là sợi dây kết nối con với mẹ, với quê hương, và với một thời đã khuất.
Mẹ đi rồi, con thương nhớ không vơi Xin lạy mẹ, mẹ ngủ yên mẹ nhé...
Không có tiếng khóc, chỉ là cái lạy im lặng nhưng chứa đựng biết bao thương yêu và tiếc nuối. “Nhớ Mẹ Hiền” giúp ta thấu hiểu rằng trong lòng mỗi người con xa xứ, mẹ không chỉ là người sinh thành, mà còn là hình ảnh tinh khiết nhất của quê nhà... dù chỉ trong giấc mơ.
3. “Tháng Tư Trong Tôi”
Bốn bể trôi thân lạc
Tháng Tư đen u hoài
Quê hương thành mây khói
Một thời nét tranh phai
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh rời rạc, bơ vơ của thân phận con người sau biến cố lịch sử. Chỉ vài câu ngắn gọn nhưng gợi lên cả một cơn lốc bi thương. “Tháng Tư đen” không chỉ là thời điểm, mà là vết thương sâu đậm không thể nguôi ngoai trong tâm hồn người tha hương. Từ một quê hương thơ mộng, bình yên như “nét tranh,” chỉ trong chốc lát đã hóa thành mây khói, tro tàn.
Hình ảnh người lưu vong hiện rõ qua từng chi tiết:
Gót lưu vong lạnh giá
Trời tự do chưa xanh
Mắt khô cùng năm tháng
Tim rướm máu không lành
Chân đi muôn nẻo nhưng không chốn nào là nhà. Nơi gọi là “tự do” cũng chưa hẳn là bình yên, vì vết thương lòng vẫn chưa lành. Người tha hương trong thơ Phạm Phan Lang đau không chỉ vì mất quê, mà còn mất đi một phần bản sắc, mất tiếng mẹ, mất cả giấc mơ đoàn tụ.
Con lớn khôn đất lạ
Cháu quên tiếng mẹ hiền
Ta gom lời thầm lặng
Dệt giấc mộng đoàn viên
Đó là bi kịch thầm lặng của người sống giữa hai thế hệ: một bên là ký ức không thể phai mờ, bên kia là lớp con cháu dần quên cội nguồn. Nhà thơ không oán trách, chỉ lặng lẽ “gom lời thầm lặng”, “giấc mộng đoàn viên” sẽ trở thành hiện thực.
Quê hương trong thơ không chỉ là địa danh, mà là ký ức.
Những điều tưởng nhỏ bé như mái tranh, giếng làng, khóm cau... nhưng chứa đựng cả tuổi thơ và một thời bình yên đã mất. Tất cả vẫn “đợi ai” trở về.
Khổ thơ cuối là lời nguyện cầu giản dị nhưng sâu sắc:
Cầu quê hương thanh bình
Hận thù chóng đi qua
Cho cháu con ca hát
Giữa mảnh trời ông cha
Bài thơ khép lại bằng niềm hy vọng, không còn đau đáu quá khứ, không oán trách tương lai. Một quê hương không chia cắt, một thế hệ mới sống trong tiếng hát, dưới bầu trời thanh bình.
Giấc mơ nhỏ bé ấy chính là khát vọng cháy bỏng của biết bao người đã trải qua nửa thế kỷ biệt xứ. “Tháng Tư Trong Tôi” là nén hương tưởng niệm, khúc nguyện
cầu và lời tự sự của tâm hồn chưa bao giờ ngừng thương nhớ. Đó không chỉ là bài thơ của một cá nhân, mà là tiếng lòng chung của
một thế hệ.
4. “Bên Sông”
Một bài thơ ngắn, thanh thoát như một hơi thở thiền trong đời sống bộn bề. Không đau buồn tha thiết như “Vá Khâu Nỗi Buồn”,
không dằn vặt khắc khoải như “Tháng Tư Trong Tôi”, bài thơ này lại chọn cách đi vào lòng người bằng sự tĩnh lặng, bằng khoảnh
khắc, bằng chút nhẹ tênh trong tâm hồn đã bước qua khổ lụy.
Hoa súng trắng
Ngóng giọt sương
Chờ nắng sớm
Phía bên sông
Mở đầu bài thơ là hình ảnh hoa súng trắng, một biểu tượng vừa tinh khôi vừa bình dị. Hoa không rực rỡ, không kiêu sa, mà e
ấp dưới ánh mờ sớm mai, chờ đợi một “giọt sương”, một chút ánh nắng như lòng người đang khẽ khàng mở cửa đón niềm tin. Mỗi
từ đều ngắn gọn, nhưng gợi mở một không gian mênh mang nơi bến sông tĩnh lặng, nơi tâm hồn thi nhân lắng lại như mặt nước
phẳng.
Tôi không đợi
Cũng chẳng trông
Lòng vô tịch
Ngọn triều dâng
Bốn câu này là một chuyển mạch buông xả nhẹ nhàng. Tác giả không còn bám víu, không mong cầu. Tâm đã “vô tịch”. Dù
“ngọn triều dâng”, những con sóng cuộc đời có kéo đến, thì lòng vẫn giữ sự bình an. Có thể thấy đây là sự thể hiện rất rõ triết lý
sống phương Đông: không níu kéo, không kháng cự, mà sống chung với biến động bằng một nội tâm đã rèn luyện qua nhiều
bão giông.
Người như mây
Bay lờ lững
Trôi bồng bềnh
Tôi nhẹ tênh
Khổ thơ này là một bức tranh thơ mộng, nhưng lại không thiếu hụt chất triết lý. “Người” ở đây có thể là ai đó trong quá khứ
đã xa. “Bay lờ lững... trôi bồng bềnh”, không rõ là nhớ hay quên, không còn bi lụy, mà chỉ đơn thuần quan sát. Và quan trọng hơn
cả: “Tôi nhẹ tênh” là sự tự do nội tại, là giây phút lòng buông được tất cả, không còn bị ràng buộc bởi vết thương hay ký ức.
Hoa tinh khôi
Ngày vô lượng
Phép nhiệm mầu
Hồn thôi đau...
Khổ thơ cuối như một lời tụng an. Không còn “hồn chơi vơi buồn” như trong những bài thơ trước của Phạm Phan Lang, mà ở đây, “hồn thôi đau”. Cái đau không bị xua đuổi, mà đã tự tan biến trong một ngày “vô lượng”.
“Bên Sông” không dài, cũng không trực tiếp kể chuyện hay tỏ bày nỗi nhớ. Nhưng chính bởi sự giản dị, trầm tĩnh và ẩn chứa
thiền vị, bài thơ lại trở thành một khoảng dừng quý giá; nơi người đọc có thể tự soi lòng mình, và nhận ra bình yên không đến từ bên
ngoài, mà là một trạng thái nội tâm được gạn lọc sau biết bao thương tổn.
5. “Mắt Nhắm Nghỉ Ngơi”
Khúc nguyện ca đầy xúc cảm dành cho một người đã khuất.
Bài thơ ngắn gọn, chỉ sáu khổ thơ ngũ ngôn, nhưng mỗi khổ đều đọng lại một lớp tâm tình: xót xa, cô đơn, khắc khoải... và cuối cùng là sự buông tay...
Ngay từ khổ đầu tiên, bài thơ đã mở ra bằng hình ảnh của một vết thương không bao giờ lành:
Như một vết thương
Không bao giờ lành
Tháng ngày mong đợi
Nhìn quanh tìm quanh
Nỗi đau ấy không cần lý do, cũng không cần giải thích. Nó cứ thế tồn tại, âm ỉ và kéo dài. Có thể là nỗi đau mất người thân, mất quê hương, hay chính là nỗi đau của sự chia ly vĩnh viễn. Dù là gì, người mang nỗi đau ấy vẫn sống tiếp bằng những “tháng ngày mong đợi”, bằng đôi mắt mỏi mòn “nhìn quanh tìm quanh” như đang tìm lại hình bóng của người xưa trong vô vọng.
Bài thơ sử dụng liên tiếp các hình ảnh ẩn dụ: chim biển, liễu rũ, lá rơi... để khắc họa cảm xúc của một tâm hồn trống trải, mỏi mòn:
Như loài chim biển
Không bến không bờ
Bay vào hải đảo
Lạc loài bơ vơ
Như cây liễu rũ
Cúi đầu trong mưa
Mong sao mưa tạnh
Người sắp về chưa?
Chim biển không bến, liễu rũ trong mưa... những hình ảnh đầy xót xa. Chúng không chỉ miêu tả ngoại cảnh, mà là chính tâm trạng của người đang sống với nỗi nhớ, đang khát khao một điều gì đó không trở lại. Có thể đó là một người yêu, một người thân, hoặc một phần ký ức đã mất. Dù là ai, cũng đã đi xa và người ở lại thì cứ “chơi vơi buồn”, cứ lặng lẽ hỏi thầm: “Người sắp về chưa?”
Cao trào của bài thơ nằm ở khổ cuối cùng:
Như chiếc lá rơi
Chao nghiêng xuống đời
Nằm bên cạnh mộ
Mắt nhắm nghỉ ngơi
Chiếc lá rơi là kết thúc của một đời sống, là hành trình cuối cùng khẽ chao nghiêng trước khi chạm đất. Nhưng trong cái chết
ấy không có sự dữ dội, mà chỉ là “mắt nhắm nghỉ ngơi” như một giấc ngủ sau những tháng năm đau đớn, mỏi mệt.
Ở đây, cái chết không mang nỗi kinh hoàng, mà như một giải thoát, một sự trở về với tĩnh lặng. Sau tất cả những “tháng ngày
mong đợi”, “lạc loài bơ vơ”, “hồn chơi vơi buồn”... thì việc được nằm yên bên cạnh người mình thương, được “mắt nhắm nghỉ
ngơi” lại là một điều bình yên cuối cùng phải là nỗi buồn tuyệt vọng, mà là nỗi buồn của sự chấp nhận, của
tình yêu vĩnh viễn không lời, và của sự yên nghỉ sau cùng.
6. “Khuê Oán”
Ngay từ nhan đề, đã gợi nhớ đến một nỗi niềm muôn thuở trong thi ca cổ điển: nỗi sầu của người thiếu phụ nơi khuê phòng khi người chồng biệt xứ, cách xa. Nhưng trong thơ Phạm Phan
Lang, “khuê oán” không chỉ là tiếng lòng ngậm ngùi của người vợ nhớ chồng, mà còn là khúc bi ca hiện đại về nỗi cô đơn, khắc khoải của người phụ nữ trước sự chia ly. Có thể vì chiến tranh, vì lưu lạc, hay vì cái chết?
Ngay từ những câu đầu, bài thơ đã mở ra bằng một tâm thế
mất mát và tuyệt vọng:
Từ chàng cách biệt phân ly
Em về ôm mối sầu bi não nùng
Sự chia lìa không rõ lý do; chỉ biết là “phân ly”. Và từ đó, người phụ nữ “ôm mối sầu bi” trở về khuê phòng, nơi từng chất
đầy hạnh phúc, nay chỉ còn là ký ức. Cụm từ “não nùng” ở cuối câu gợi nên một nỗi đau như ăn mòn tâm hồn không thể nói thành
lời.
Đêm đêm ôm chiếc gối chung
Ngửi mùi hương cũ, lòng nhung nhớ sầu
Chiếc gối không còn là gối ngủ, mà là một di vật tình yêu. Đó là một chi tiết rất đời thường, nhưng lại có sức ám ảnh. Khi con người không còn hiện diện, thì mùi hương, vật dụng cá nhân... trở thành nơi trú ngụ cuối cùng của ký ức. Và càng níu giữ, người ở lại càng bị dày vò bởi nỗi nhớ.
Anh ơi, giờ ở nơi đâu?
Mau về lau những giọt đau tím lòng
Câu hỏi bật lên như một lời than khóc, như tiếng gọi lạc vào hư vô. Từ “tím lòng” là một hình ảnh độc đáo. Và giữa đêm đen chờ đợi ấy:
Đèn chong em vẫn đợi mong
Bóng anh bỗng hiện như trong cõi nào
Chàng trở về, nhưng không phải trong thực tại, mà chỉ là bóng
dáng, là ảo ảnh, như một giấc mơ không thật. Khổ thơ cuối với
câu lửng:
Anh về dáng dấp hư hao...
Một kết thúc mở nhưng đầy dư ba. Câu thơ không trọn, như
chính niềm hy vọng chưa thể thành, như giấc mơ vừa hiện ra đã
tan biến. “Hư hao” bóng hình tàn úa, có thể là dấu hiệu của cái
chết, của chiến tranh, hoặc là sự thật rằng tình yêu đã bị thời gian
bào mòn.
Điểm đặc biệt trong thơ Phạm Phan Lang là sự kết hợp nhuần
nhị giữa hơi thở cổ thi và trái tim hiện đại. “Khuê oán” gợi nhắc
đến tiếng than vẳng buồn trong Chinh phụ ngâm, nhưng cách
diễn đạt, cách khơi gợi cảm xúc lại rất đời, rất gần gũi. Không cần
những ẩn dụ cầu kỳ, bài thơ đi thẳng vào trái tim người đọc bằng
những câu từ chân thật, mộc mạc mà đầy ám ảnh.
“Khuê Oán” không gào thét, không đau đớn vật vã, nhưng
chính sự kiềm nén và tha thiết ấy lại khiến bài thơ mang sức lay
động lớn. Đây là tiếng nói của một trái tim yêu thương quá nhiều,
của một người phụ nữ không cam lòng quên, không cam lòng mất
dù biết có thể chẳng bao giờ còn gặp lại.
Một bài thơ ngắn, nhưng mỗi câu đều là một nhịp thở của một
tình yêu bị bẻ gãy bởi chia ly.
7. “Có Phải”
Bài thơ đã mở ra một chuỗi những câu hỏi, không phải để tìm
câu trả lời tuyệt đối, mà là cách nhân vật trữ tình đối thoại với
chính mình. Mỗi khổ thơ là một giả định, một khoảnh khắc con
người đứng giữa hai bờ: buông xuôi hay bước tiếp.
Có phải khi chiều vàng nắng tắt
Là màn đêm sẽ che kín khung trời
Là xa xa trong biển tối mù khơi
Le lói sáng chiếc thuyền con hy vọng
Cái đẹp trong đoạn thơ này nằm ở hình ảnh “chiếc thuyền con
hy vọng”,dẫu “tối mù khơi”, dẫu “nắng tắt”, vẫn có một ánh sáng
le lói. Đây không phải là sự lạc quan hời hợt, mà là niềm tin đi ra
từ vực sâu.
Những khổ tiếp theo là lời an ủi nhẹ nhàng cho những ai đang
chịu đựng:
Có phải khi người thương yêu đã mất
Là nghĩ rằng tất cả mất trong đời
Câu hỏi này chạm vào một nỗi đau phổ quát: mất người thân
yêu, ta tưởng như mất cả thế giới. Nhưng rồi bài thơ không đẩy ta
chìm sâu hơn trong bi kịch, mà dần kéo ta ra khỏi vực bằng một
lý lẽ nhân hậu:
Không phải thế cuộc đời nhiều ưu ái
Sẽ cho ta những ngày tháng thương yêu
Câu thơ then chốt của bài thơ chính là:
Hãy nghĩ thế và xin tin như thế
Không mang mệnh lệnh hay giáo điều, đây là một lời thủ thỉ
tự nhủ, rất đỗi nhân văn. Con người trong thơ không cố gắng áp
đặt niềm tin, mà chỉ mời gọi, thì thầm: nếu bạn đang mất niềm
tin, hãy thử tin lại, dù chỉ một chút.
Cám ơn đời hạnh phúc lẫn đau thương
Chốn trần gian là cõi sống vô thường
Hãy chấp nhận những việc gì sẽ đến
Chính sự vô thường khiến cuộc sống trở nên đáng quý. Và biết
ơn cả đau thương là một thái độ sống sâu sắc, nhưng cũng không
để nó nhấn chìm ta. Chấp nhận là để nhẹ lòng, để tiếp tục sống
với tâm thế mở rộng, chứ không khép chặt trong hoài niệm hay
thù hận.
“Có Phải” không phải là bài thơ của sự vĩ đại, mà là của những
cảm xúc nhỏ bé nhưng chân thành, như ánh nến nhỏ trong căn
phòng tối. Nó không xóa tan hết bóng đêm, nhưng đủ để giữ ấm
một tâm hồn lạnh giá.
8. “Đông Ơi Đừng Vội”
Nhẹ nhàng, thầm thì như hơi thở của mùa, nhưng lại khiến
người đọc lắng lòng và bâng khuâng rất lâu sau đó.
Lìa cành lá rơi
Thu qua mất rồi
Đông buồn sắp về
Hồn nghe tái tê
Chỉ vài câu, mà cả một bức tranh chuyển mùa hiện lên: lá rơi,
thu đi, đông đến, và con người... cảm thấy tâm hồn chùng xuống.
Có lẽ ai từng sống trong vùng khí hậu có bốn mùa đều từng trải
qua cảm giác này: khi thu đẹp chưa kịp tàn, thì đông đã kịp lấp ló
gõ cửa, mang theo chút lạnh, trống, và hoang hoải.
Đông ơi chậm thôi
Ta đang vẫn ngồi
Bên dòng nước cạn
Nghe chiều dần trôi
Có điều gì đó rất con người trong đoạn này. Đông không chỉ
là một mùa, mà dường như là ẩn dụ cho sự già nua, chia xa, mất
mát, hay sự chậm dần của kiếp người. Lời gọi “Đông ơi, chậm
thôi” nghe như một tiếng van lặng ... hãy cho tôi thêm một chút
thời gian, để cảm nhận nốt những điều đang dở dang, những hoài
niệm còn chưa kịp nguôi...
Mây bay lững lờ
Thu buồn hắt hiu
Trời chiều dịu êm
Ta ngồi đợi đêm
Bức tranh chiều thu được phác họa bằng những nét vẽ thật
nhẹ: mây lững lờ, trời chiều dịu êm. Tất cả như đang chậm lại,
như nhịp thở của một người đang nhớ, đang tiếc, đang ngồi yên
mà ngắm thời gian lặng lẽ trôi qua trước mặt mình.
Xa xa tiếng chuông
Nghe thăm thẳm buồn
Con chim lẻ loi
Nhìn quanh ngó quanh
Tiếng chuông xa, tiếng chim lẻ loi đều là những âm thanh của
nỗi cô đơn, nhưng lại không ồn ào, không bi lụy. Nó là kiểu cô
đơn âm thầm, dễ gặp trong những buổi chiều chớm lạnh, khi
người ta bất giác nhớ đến những điều cũ, những người không còn
bên cạnh, những ngày đã qua mà không thể gọi về.
Thu chưa muốn đi
Đông buồn vội về
Ta ngồi đợi mưa
Nghe cơn gió đùa...
Bài thơ là một hình ảnh rất giàu cảm xúc: Thu chưa muốn đi,
Đông đã vội đến, như một cuộc chuyển giao bất đắc dĩ. Đó là tâm
thế của người chờ đợi điều gì đó chưa rõ ràng, như chờ một ký ức
quay lại, hay một cảm xúc chưa kịp gọi tên.
“Đông Ơi Đừng Vội” là một bài thơ không mang những triết
lý to tát hay thông điệp rõ ràng. Nó đơn thuần là một lát cắt cảm
xúc, một phút ngồi lặng giữa mùa, giữa dòng đời. Nhưng chính
bởi sự giản dị ấy, nó lại dễ chạm vào lòng nhất là với những ai
từng sợ sự đổi thay, từng mong thời gian ngưng lại một chút, để
được sống lâu hơn trong những điều mình yêu quý.
Một bài thơ như một ánh chiều tàn không chói lòa, nhưng
khiến người ta ngoái lại, và nhớ mãi.
9. “Cha Già”
Bài thơ mở ra bằng những hình ảnh tĩnh tại và buồn thảm:
Ngọn liễu buồn ủ rũ
Rặng tre làng kẽo kẹt đong đưa
Cha bạc đầu tựa cửa
Chỉ vài câu ngắn, nhưng đã khắc họa ngay khung cảnh và tâm
thế của một người cha già: mỏi mòn, lặng thầm, và cô đơn. Người
cha ấy không còn đi nữa, không còn làm gì nữa, chỉ còn “tựa cửa”
mà nhìn về những ngày đã xa. Ngay cả thiên nhiên quanh ông;
liễu, tre ... cũng gợi một cảm giác mệt mỏi, già cỗi và buồn tênh.
Bàn tay đầy xước đau
Cha đếm sẹo hằn sâu tháng ngày
Không cần kể lại những chiến công hay giai đoạn hào hùng,
bài thơ chỉ lặng lẽ nhắc đến những “sẹo” thứ còn sót lại của quá
khứ. Những vết sẹo không chỉ nằm trên tay, mà còn in sâu trong
ký ức. Từng vết là một năm tháng mưu sinh, chiến đấu, hy sinh
và giờ đây, chỉ còn lại để “cha đếm” trong cô tịch.
Mái tranh nghèo xiêu vẹo
Ba gian nhà cột kèo hư hao
Cha nằm nghe mối mọt
Căn nhà giờ cũng “xiêu vẹo”, “hư hao”. Và người cha không
còn hoạt động gì ngoài “nằm nghe mối mọt”, một hình ảnh cực
kỳ ám ảnh. Không tiếng người, không hơi ấm, chỉ còn âm thanh
mục nát của thời gian, của tuổi già, của sự lụi tàn.
Cha đói lòng vùi vội củ khoai
Tiếng cú rúc sau hè
Cha giật mình ngỡ tiếng bom xa
Một người từng vào sinh ra tử, từng băng rừng vượt suối, giờ
lại giật mình bởi tiếng cú. Nỗi ám ảnh chiến tranh vẫn còn đó,
không mất đi theo tuổi tác. Cái đói và cái lạnh trong bài thơ không
chỉ là cảnh vật, mà còn là một sự khắc khoải thân phận: cha già
từng hy sinh tất cả, nhưng giờ đây phải sống trong điều kiện chật
vật, cô quạnh và bất an.
Buồng cha nằm lã chã giọt mưa
Nhớ những ngày hành quân
Giọt mưa trên mái tranh như hòa với giọt nước mắt, nhưng
thấm sâu. Người cha không nói, không khóc, nhưng “nhớ” và cái
nhớ ấy là một nỗi đau lặng. Nhớ những ngày hành quân; có thể
là thời tuổi trẻ nhiệt huyết, có thể là những hy sinh oanh liệt,
nhưng giờ đây chỉ còn lại trong hoài niệm, không ai nhắc đến.
Phiêu bạt khắp giang hồ
Nay khóc hận cơ đồ nát tan...
Hai câu cuối như một nốt trầm đau đáu. Người cha từng
“phiêu bạt” dấn thân, hy sinh, hy vọng nhưng cuối cùng chỉ còn
“khóc hận”. Cơ đồ mà ông bảo vệ, chiến đấu vì nó, nay đã “nát
tan”. Đó không chỉ là nỗi buồn của một cá nhân, mà còn là một
câu hỏi lớn về lịch sử, về công lý, về ký ức tập thể.
“Cha Già” là một bài thơ ngắn, nhưng sức nặng của nó khiến
người đọc như nghẹn lại. Không một lời trách móc, không lên án,
nhưng từng dòng thơ đều khiến ta phải tự hỏi:
Đây là một bài thơ viết cho người cha, nhưng không chỉ là của
riêng tác giả. Đó là lời tưởng niệm cho cả một thế hệ, những con
người đã trao cả đời mình cho lý tưởng, để rồi khi tuổi xế chiều,
chỉ còn “gió lùa”, “mối mọt” và nỗi cô đơn làm bạn.
10. “Niềm Quê”
Ngay từ những câu đầu, bài thơ đã vẽ nên hình ảnh người con
xa quê với tâm trạng vừa đau đớn vừa đành lòng:
Xa xa khuất nẻo quê nhà
Lòng đau đòi đoạn vẫn là phải đi
Dù lòng “đau đòi đoạn” nghĩa là buồn đến tột cùng, tưởng
như muốn cắt đứt, nhưng vẫn phải rời xa quê. Đó là sự chia ly
đầy day dứt, khi buộc phải ra đi vì hoàn cảnh, vì trách nhiệm hay
vì những lý do khách quan khác. Câu thơ như một lời thở than
cho số phận con người, khi phải từ biệt mảnh đất gắn bó.
Bơ vơ xứ lạ một đời
Nhớ quay nhớ quắt bên trời viễn phương
Người đi xa không chỉ đơn thuần là xa về địa lý, mà còn là sự
lạc lõng, cô đơn trong chính tâm hồn mình. “Bơ vơ xứ lạ” thể hiện
nỗi lạc lõng giữa nơi xa lạ, không còn cảm giác thuộc về, không
còn chốn quen thân. “Nhớ quay nhớ quắt”, nhớ đến quặn lòng,
khắc khoải không nguôi, là tiếng vọng của một trái tim không thể
quên quê nhà dù cách biệt bao lâu.
Cho dù cách trở dặm đường
Mai kia mốt nọ cố hương tìm về
Dù hiện tại có xa cách, có cách trở “dặm đường”, nhưng người
đi vẫn giữ trong lòng lời hứa, hy vọng một ngày sẽ trở về cố
hương. Đó là sức mạnh tinh thần, là động lực để vượt qua gian
khó, là niềm tin bền bỉ vào sự sum họp, đoàn viên.
Chiều buồn bóng ngả lê thê
Thương quê nhớ nước tái tê cõi lòng
Cảnh chiều xuống, bóng chiều “lê thê” dài và buồn man mác,
làm cho nỗi nhớ quê, nhớ nước thêm phần đau nhói. “Tái tê cõi
lòng” là cảm xúc thấm thía, sâu sắc đến tận cùng, khiến ta hiểu
được sự day dứt không chỉ là nỗi nhớ bình thường mà là nỗi niềm
đau đáu của người xa xứ.
Lệ sầu biết lấy gì đong
Mong sao mong quá trời hồng ánh dương...
Nỗi buồn dâng trào đến mức không thể đong đếm nổi bằng
nước mắt.
“Niềm Quê” không đơn thuần là bài thơ, mà là tiếng lòng
chung của biết bao người xa xứ, những người phải rời bỏ quê
hương vì hoàn cảnh nhưng vẫn luôn ấp ủ trong tim nỗi nhớ và
khát vọng trở về. Bài thơ giúp ta thấu hiểu sâu sắc hơn tình cảm
thiêng liêng với quê hương, sự day dứt, hy sinh và cả niềm tin
không bao giờ tắt.
-oOo-
Trong quá trình thực hiện cuốn sách này, chúng tôi may mắn
được nhà thơ Phạm Phan Lang chia sẻ một vài trích đoạn từ tập
hồi ký văn thơ song ngữ Anh – Việt mà bà đang "thai nghén". Qua
những câu chuyện nhỏ, bà đã mở ra một thế giới ký ức chan chứa
yêu thương, đầy chất thơ và thấm đẫm tình người, nơi quá khứ
hiện về không chỉ như một hoài niệm mà còn là một phần không
thể tách rời của cuộc đời.
1. Kỷ Niệm Xưa
Là một câu chuyện tình yêu không lời, lặng lẽ mà sâu sắc. Từ
khi còn là cậu bé hàng xóm, “anh” đã đem lòng yêu cô bé sáu tuổi.
Tình yêu câm nín kéo dài cho đến tận lúc anh hy sinh ngoài chiến
trường. Nàng chỉ xem anh như một người anh trai thân thiết, để
rồi khi anh mất tích, nàng mới hay rằng tình cảm ấy lớn lao đến
nhường nào. Hộp kỷ vật anh để lại, với những bài thơ chưa bao
giờ gửi, những bức vẽ đôi mắt nàng, là minh chứng cho một mối
tình không tên nhưng nặng nghĩa. Một đoạn văn đẹp, dịu dàng,
ngậm ngùi như một bài thơ cũ, nhắc nhớ người đọc về những gì
tinh khiết nhất trong tình yêu.
2. Thiếu Úy Một Mắt
Lại là một mảng ký ức dí dỏm, hóm hỉnh về thời quân ngũ.
Trong lần tập bắn đầu tiên, tác giả (lúc đó là một lính mới) đã vô
tình nheo nhầm mắt... khiến cả chín viên đạn đều "đi lạc", không
một phát trúng bia. Câu chuyện tưởng nhỏ nhưng lại trở thành
một kỷ niệm không thể quên, gắn liền với biệt danh đáng nhớ:
"Thiếu Úy Một Mắt". Qua giọng kể chân thật, hóm hỉnh, Phạm
Phan Lang mang đến tiếng cười nhẹ nhàng mà sâu sắc,một nét rất
đời giữa không khí nghiêm trang của quân trường.
3. Thầy Tư
Là đoạn hồi ký xúc động nhất trong ba trích đoạn, kể về biến
cố lớn khi tác giả suýt chết vì bệnh sởi vào đúng đêm Giao Thừa
năm 1952. Khi các bác sĩ Tây y lắc đầu, mẹ của bà đã bồng con gái
bé bỏng đến tìm một thầy pháp tên Thầy Tư ở một làng xa. Nghi
thức trừ tà, dấu thập xăm trên trán, sợi dây bùa cổ truyền... tất cả
nghe như huyền thoại nhưng lại là hiện thực gắn liền với cuộc
sống của một thế hệ. Dù sau này lớn lên, bà từng xấu hổ vì dấu
xăm kỳ lạ ấy, nhưng đến cuối cùng, đó lại trở thành biểu tượng
của sự sống còn, là lời nhắc nhở thiêng liêng về tình mẹ và niềm
tin.
Ba trích đoạn, ba mảng ký ức, từ tình yêu âm thầm, tiếng cười
hồn nhiên đến câu chuyện sống còn giữa lằn ranh sinh – tử, đều
hiện lên mộc mạc, chân thành qua lối viết đậm chất tự sự của
Phạm Phan Lang.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu những dòng hồi ức này
như một cách tri ân với thời gian, với ký ức, và với chính tác giả;
người đã đi qua bao nhiêu biến cố để lưu giữ lại điều đẹp đẽ nhất
cho đời.
-oOo-
Thơ văn của Phạm Phan Lang không cầu kỳ, không phô
trương, cũng không cố gắng trở nên vĩ đại. Chính sự giản dị ấy lại
khiến thơ bà trở nên gần gũi, chân thật và dễ chạm đến cảm xúc
người đọc. Đó là kiểu thơ không cần lý giải quá nhiều. Chỉ cần
đọc chậm rãi, lặng im, và để những câu chữ tự nhiên lan tỏa vào
lòng. Bởi lẽ, thơ không phải để hiểu, mà là để cảm. Phạm Phan
Lang đã để lại trong lòng người đọc một khoảng lặng dịu dàng
mà sâu sắc.
Khi đọc thơ văn của Phạm Phan Lang, người đọc có cảm giác
như đang ngồi bên một người bạn cũ, thủ thỉ kể chuyện buồn
vui... Nhắc về những mất mát đã qua và rồi nhẹ nhàng thắp lên
niềm tin còn sót lại. Bà không né tránh những mảng tối của cuộc
đời, cũng không cố khoác lên chúng lớp vỏ đẹp đẽ. Thay vào đó,
bà biến chính những điều u uẩn thành chất liệu để ánh sáng thơ
bừng lên.
Có người từng ví thơ văn của Phạm Phan Lang như “một dòng
suối giữa sa mạc cảm xúc”: mát lành, lặng lẽ, đến đúng lúc người ta
khát... Hay khi cần một nơi để nương tựa niềm tin. Với những ai
sống xa quê.
Thơ văn của Phạm Phan Lang là sợi dây nâng đỡ trái tim, là
tiếng gọi khẽ nhưng đủ sâu để làm người ta muốn quay về.
Đêm qua mộng lại thật gần
Đừng lay tôi nhé hồng trần mong manh (Bùi Giáng)
Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con
( Mắt Buồn, Bùi Giáng )
1/-
Ngày 13.04.2022
Chúng tôi trở lại với trần thế sau khi đã đi hết một vòng trên chiếc cầu bắc quanh các khối nham thạch hùng vĩ diệu kỳ trong hang động Thiên Đường.
Tiếc là không gặp Tiên nữ lẫn Tiên nam, không có tiếng sáo tiếng oanh ca với ly rượu đào nào chào đón, chỉ toàn các phiến nham thạch, nhũ thạch tạo hình dáng đủ kiểu tha hồ tưởng tượng. Nhưng bên ngoài động thì ngập tràn ngàn cây xanh toả mát, nhất là dọc đường lối rẻ từ quốc lộ đi vào, chúng tôi chứng kiến cảnh tượng ngoạn mục hàng triệu con bướm trắng nhỏ xinh bay lượn nhởn nhơ như chào đón du khách, đưa tôi sống lại thời thơ ấu thường thẩn thơ quanh các bụi hoa trong sân nhà săn lùng rượt bắt mấy con bướm vàng ranh mãnh.
Ý định thăm viếng Thiên Đường của tôi đã thoả nguyện. Khung cảnh thần tiên do thiên nhiên tạo nên đã không làm tôi thất vọng, hang động nầy quả xứng đáng được xếp hạng kỳ quan thế giới.
Đã ba giờ chiều. May sáng nay lúc khởi hành, chúng tôi có mua mấy hộp xôi, chai nước phòng hờ. Như chúng tôi lo xa, phải chạy hàng chục cây số nữa mới có hàng quán, mà đã xế chiều quán nào cũng vắng ngắt, buồn hiu không thấy khách. Chúng tôi hài lòng với mấy hộp xôi chà bông, trứng cút, chả lụa. Đang đói nên ăn ngon lành. No mắt lẫn no bao tử rồi nên chúng tôi đi tiếp.
Trí nhớ lộn xộn không theo thứ tự, qua những tấm hình chụp còn lưu lại thì chúng tôi đã vượt qua Hà Tỉnh, Vinh, Thanh Hoá, đèo Đá Đẽo, nhà thờ Vinh Sơn hay Vĩnh Sơn (?) trước khi đến Ninh Bình.
Đèo Đá Đẽo là một đoạn đèo bên núi cao bên vực sâu nằm ẩn sau dãy Trường Sơn, có những đoạn đường cong gấp khúc với độ thật nghiêng khiến tôi liên tưởng những con đường núi Thuỵ Sĩ quen thuộc, quê hương thứ hai của mình. Chỉ khác là ở Thuỵ Sĩ thì tôi cầm volant điều khiển chiếc xe bốn chỗ, còn ở đây thì tôi ngồi sau lưng cháu vi vút con ngựa sắt hai bánh, chễm chệ dựa vào cái thùng đựng hành lý cháu gắn phía sau, biến thành cái ghế dựa lưng an toàn, giúp tôi không bị té rơi xuống đường mỗi khi buồn ngủ gục – đâu có hiếm những lần tôi ngủ gục trong chuyến viễn du nầy–.
Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn
Đoàn hùng binh trong sương lướt gió reo vang (Văn Giảng)
Dù “đoàn hùng binh” chúng tôi chỉ có năm mạng thôi, nhưng cũng thấy rộn ràng theo vó câu dập dồn trên đường trường xa tăm tắp.
Ngựa phi ngựa phi đường xa
Tiến trên đường cát trắng, trắng xoá
Tiến trên đường nắng chói chói loá
Trên đồng lúa theo cánh chim trời bay trên cao…
…ngựa phi ngoài xa thật mau
Lúc nguy nàn ta yêu thương nhau…( Ngựa Phi Đường Xa )
Nhớ tiếng hát vui tươi hồn hậu hoà theo lời ca điệu nhạc lúc nhịp nhàng lúc giục giã oai hùng của anh em ca nhạc sĩ trứ danh ban Thăng Long mà tôi rất ngưỡng mộ, sao khớp với hình ảnh và tâm trạng chúng tôi lúc này thế. Lúc vượt dốc, lúc xuống đèo phải bớt ga cho chạy chầm chậm
Ghìm từ từ, ngọn đồi dốc, trèo từ từ
Sát bên giòng suối chảy lừ đừ
Bờm tung gió bay đùa bay phất phới
Ghìm từ từ rừng trầm gió ngàn vù vù
Vó câu dồn cát bụi mịt mù
Đường xa tắp vui bầy chim đón chờ
Ngựa phi trên lưng ngựa phi mau
Trong sương mờ đêm thâu
Lao mình trong nắng mưa dãi dầu
(Ngựa Phi Đường Xa, nhạc Lê Yên & Phạm Đình Chương )*
*Nhạc sĩ Lê Yên sáng tác năm 1945 ở ngoài Bắc, sau nầy nhạc sĩ Phạm Đình Chương vào Nam đã sửa lại lời cho phù hợp với khung cảnh thanh bình yên ả thơ mộng miền Nam thấm đượm Nhân-Bản-Tính nhưng ông vẫn tôn trọng in kèm thêm tựa bài hát cũ Kỵ Binh V.N và tên nhạc sĩ Lê Yên. Thế mà tôi có đọc một câu của ai đó viết là nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã “chôm” bài hát của ns. Lê Yên- chính xác họ dùng chữ chôm “. Theo thiển ý, nếu bài hát này vẫn giữ nguyên thuỷ bản gốc thì chắc chắn nó sẽ không được yêu thích chào đón như lời mới mà nhạc Sĩ Phạm Đình Chương viết lại đâu. Vậy thì phải cám ơn hơn là mai mỉa nhạc sĩ Phạm Đình Chương như thế.
Trong bối cảnh giống hệt như lời hát trên- ngoại trừ họ cưỡi ngựa thật, còn chúng tôi thì bằng ngựa sắt, lúc dưới cái nắng trưa đổ lửa, lúc ướt át dưới làn mưa sa gió táp, lúc đêm đen vắng lặng miền quê, lúc vùng Tây Bắc núi đồi trùng trùng điệp điệp quạnh quẽ, lúc trong ánh hoàng hôn vàng hiu hắt cạnh triền núi hoang vu có cô sơn nữ lùa bò về nhà sàn…có thể nhận bừa là bài hát dành riêng cho chúng tôi, dù nó đã ra đời nhiều năm trước, khi tôi chỉ là một phân tử không khí trong cõi vô minh.
Đi du lịch bằng moto cho tôi cảm giác vô cùng gần gũi với thiên nhiên, được hít thở khí trời thoáng đạt, luồng gió thổi tạt lên quần áo, tóc nón bay phần phật. Hay những cơn mưa phùn lất phất vừa đủ lạnh để dệt mộng mơ. Hoặc những trận mưa to nghe rõ âm thanh giọt nước rơi đồm độp trên chiếc mũ bảo hiểm, tạt lên mặt làm mờ gương chắn che mắt. Phân biệt từng mùi đất vỡ, mùi khói đốt rơm rạ, mùi cỏ cắt phơi khô, mùi bùn non ngập ngụa công trường, kể cả mùi phân bò trâu nồng nặc khi cả đàn nghênh ngang chắn đường tò mò đứng lại nghểnh cổ dòm ngó đoàn lữ hành chúng tôi với ba lô túi nhựa treo lỉnh kỉnh trên xe. Chúng tôi tự hỏi thầm với chút lo ngại: có khi nào chúng dùng đôi sừng cong vút đó tấn công chúng tôi không nhỉ? Nhưng không, chúng chỉ tò mò thôi.
Những kinh nghiệm thú vị đó, mùi vị đó làm sao cảm thấu được nếu tôi yên ngự trong chiếc xe bốn bánh bịt bùng ấm áp, khô ráo khi trời mưa lạnh, mát mẻ khi trời thiêu nóng?
2/-
Trên đường bất chợt tôi nhìn thấy ngôi giáo đường uy nghi khang trang mà giờ cố moi óc vẫn không sao nhớ toạ lạc ở làng nào, quận nào, tỉnh nào? Hà Tỉnh chăng? Thanh Hoá? Hay vẫn còn trên địa phận Quảng Bình?
Tôi tuy đạo Phật nhưng vẫn thích thăm viếng các nhà thờ nơi nào có dịp đi qua. Tôi kêu cháu ngừng xe, lúc ấy đã hơn 5 giờ. Hình như nhà thờ sắp đón tiếp ai hay làm thánh lễ quan trọng mà thấy vị linh mục đang đứng trao đổi với vài người, có vẻ khá bận rộn. Tôi ngại không dám vào, Vĩnh An nói để cháu lại xin phép cha cho chúng tôi từ phương xa được vào thăm và chụp hình kỷ niệm. Cha đồng ý ngay, nói cứ tự nhiên. Tôi dặn cháu hỏi tên nhà thờ, cháu nói cha bảo là Vinh Sơn. Chả biết cháu nghe có đúng không nữa, vì người dân từ Huế trở ra mấy tỉnh miền Trung cách phát âm rất khó nghe, toàn dấu nặng!
Tên Vinh Sơn nghe rất quen thuộc, hình như trùng tên nhiều nhà thờ ở miền Nam ấy.
Tôi bước vào sân chiêm ngắm kiến trúc ngôi giáo đường. Tường, gác chuông, tháp chuông sơn màu hồng, vàng nhạt, trắng thanh nhã dịu dàng nhưng không mất vẻ uy nghiêm tôn kính
Phía bên góc trái sân có tượng thờ Đức Mẹ khắc tên Nữ Vương Hoà Bình.
Việc không nhớ tên ngôi giáo đường lẫn địa phương khiến tôi thấy mình thiếu sót quá chừng, nỗi thắc mắc cứ đeo bám tôi tới giờ chưa rời.
3/-
Xa lộ không đèn
Trên xa lộ đêm đen, trên xa lộ đua chen
Ôi xa lộ sống chết vô tình…
…cuộc đời sao tăm tối
Như xa lộ không đèn
Cuộc đời sao u ám
Như xa lộ tối đen
( Xa Lộ Không Đèn, Y Vân )
Chúng tôi tìm quán ăn tạm rồi vội vã lên đường, trời sụp tối mà còn đi thêm 300 km nữa mới tới nơi.
Cháu tôi dỗ dành:
—Má tư chịu khó đi đoạn đường xa nầy nghe m4, vì từ đây tới nhà Thuỷ không có nơi nào thú vị để dừng lại thăm viếng hết, đa số toàn đường cao tốc hoặc làng mạc nên mình sẽ chạy thẳng đến Nho Quan, nghỉ ngơi chơi vài hôm khi nào m4 hết mệt mình đi tiếp.
Ái chà chà. Viễn cảnh chạy trên quốc lộ 1 xuyên Việt trong màn đêm sâu hun hút không có ánh đèn đường – ngoại trừ thỉnh thoảng ngang vài phố xá– nghe mà ngán ngẩm.
Hồi nhớ cảnh tượng đêm ấy, tôi mới nhận thức sự liều lĩnh và bất trắc như thế nào *
*Tôi còn trải qua cảnh mạo hiểm trong đêm tối đen đặc trên vùng rừng núi hoang vu Tây Bắc. Lúc từ Đồng Văn, Hà Giang trở về qua Cao Bằng, Bắc Cạn, đoạn đường hàng trăm cây số, mà chỉ đơn độc mỗi chiếc xe Vĩnh An chở tôi mới kinh sợ chứ.
Các cháu tôi đã nhiều lần thực hiện các chuyến viễn hành về đêm với nhóm bạn thích phiêu lưu xuyên Việt, từng chạy một mạch 800 km suốt đêm nên giờ đi 300 km đối với cháu có gì phi thường đặc biệt đâu. Các cháu tuổi trẻ, nhiệt huyết còn đầy, tuýp ngủ muộn, mắt sáng tỏ như sao. Còn tôi, thời trẻ trung đã lùi về dĩ vãng từ lâu, nhiều đêm mới 8 giờ đã có “trăm con chim bay về đậu đầu giường” ru hồn tôi vào mộng mất tiêu rồi. Hơn nữa tôi ít khi ra ngoài vào buổi tối – ngoại trừ trường hợp bất đắc dĩ– Màn đen đêm gây cho tôi cảm giác bất an như thể có con ác thú nguy hiểm nào đó rình rập chực chờ nuốt chửng, đã vậy còn ngồi xe hai bánh vượt bao nhiêu dặm đường, bảo đảm rất nhiều người trẻ còn chả dám nữa kia.
Quốc Lộ 1, Bố Trạch–Nho Quan
Đừng nghĩ buổi tối đường cao tốc vắng tênh là lầm to. Có hàng trăm chiếc camion Iveco, Mercedes hạng nặng chiều dài cả chục thước hoặc hơn, xả hết tốc lực nối đuôi nhau liên tu bất tận trên đường, tiếng gầm rú inh ỏi điếc tai. Những chiếc xe này tôi ít gặp ở Thuỵ Sĩ nơi thường xử dụng camion hạng trung và nhỏ–, lần đầu tôi thấy là khi sang Canada và Mỹ, bị hớp hồn mỗi lần xe áp sát hay qua mặt. Tôi khá ngạc nhiên thấy xuất hiện ở trên quốc lộ 1 VN nhiều xe hạng nặng như thế.
Có hai làn cho mỗi chiều ngược xuôi, chắc do phải vận chuyển hàng hoá đi xa nên họ muốn rút ngắn khoảng cách và thời gian, không chiếc nào nhường nhịn chiếc nào, tìm cách luồn lách qua mặt nhau với tốc độ nhanh nhất như có thể. Ba chiếc moto chúng tôi cũng hoà theo dòng lưu thông bạt mạng ấy. Luật đi đường là con số zero, chiếc này vượt qua chiếc nọ bất chấp phía bên phải hay trái miễn sao đạt mục đích. Ba tay lái trẻ- kể cả cái cô 24 tuổi mệnh danh “bé hạt tiêu”, vì cô bé cao chưa tới 1,40m nặng chừng 35 ký–một mình một ngựa cũng chạy ào ạt như điên hết vượt qua mặt camion lúc thì bằng vệ đường bên phải, được vài trăm mét lại tìm cách lạng ra bên trái để vượt qua chiếc khác. Vừa vượt qua chiếc nầy xong, ước lượng đủ khoảng trống và thời gian là a lê hấp các cô cậu bẻ ngoặt tay ngay trước đầu xe hàng để chen vào lề phải chẳng chần chờ e ngại.
Đầu óc tôi khá căng thẳng, adrenaline dâng cao độ nên tôi chả buồn ngủ cũng quên luôn mệt, quên hai đùi và mông tê mỏi. Hồi hộp nghĩ toàn điều đen tối hơn cả màn đêm đang giăng bủa.
Nghĩ đến lời bài hát trong phim ngày xưa từng xem Xa Lộ Không Đèn có cô Thanh Nga đóng, hoặc các tiểu thuyết viết về du đãng của Duyên Anh –Điệu Ru Nước Mắt–,hay Nguyễn Thuỵ Long với Loan Mắt Nhung, cảnh các “anh hùng xa lộ” đua tài lái moto luồn lách chui dưới lườn xe camion, để xem ai can đảm hơn , ai thắng ai thua. Chính tôi tối đó cũng bất đắc dĩ trở thành một trong những “anh hùng xa lộ rởm” khác gì. Tưởng tượng xem, lỡ xe hai bánh của chúng tôi cán lên cục đá, khúc cây, hay vũng bùn… bánh xe trượt nghiêng đổ ập vào chiếc camion mười tám(?) bánh to tướng, tải trọng vài chục tấn, vận tốc cả trăm cây số giờ bất thình lình làm sao họ thắng kịp ? Chỉ một hậu quả chắc chắn, là nạn nhân thịt xương nát nhừ thành tương xay, như tựa phim Đồi Thịt Băm – Hamburger Hill – đó.
Nói đi rồi nói lại. Các cháu đã quá quen với những chuyến đi xa, tích luỹ nhiều kinh nghiệm lái song hành với xe trọng tải lớn trong đêm đen rồi nên rất ý thức lấy sự an toàn làm trọng điểm chứ không đánh đổi sinh mạng để được danh anh hùng vô danh ngu ngốc như thế đâu. Chỉ tôi lần đầu tham dự nên còn nhát thôi.
Nói lại rồi nói đi, suy cho cùng đã gọi là tai nạn thì dù cẩn thận đến đâu cũng sao mà tránh được chứ? Thôi thì cứ phó thác cho hai chữ may rủi hên xui vậy.
Giờ nhớ lại mới rùng rợn ớn lạnh, chứ lúc ấy tôi sợ tai nạn thì ít mà sợ màu đen của bóng đêm nhiều hơn. Nhớ mấy truyện liêu trai chí dị, người đàn bà áo trắng xoã tóc đứng đón dọc đường, xin quá giang nhảy lên ngồi sau lưng tôi. Ối ôi, ghê khiếp quá ! Nhưng nhờ có cái thùng làm ghế tựa lưng rồi nên bớt lo. Với lại hàng đoàn camion vẫn nối đuối nhau dài dằng dặc, đèn xe chiếu rọi loé mắt tiếng động xé điếc tai thì ”người áo trắng” nào dám xuất hiện nữa*
*Tôi tuy “lớn đầu” nhưng đôi lúc vẫn còn tính trẻ con sợ ma thế đó !
Đường vắng thưa bước chân buồn âm thầm
Đèn khuya hiu hắt ánh điện câu
Giữa đêm sầu ngõ không màu sống lạc loài thân đơn côi
Chôn tuổi xanh chìm trong bóng tối vực sâu nhiều đắng cay
( Loan Mắt Nhung, nhạc Huỳnh Anh )
Gió mưa gào thiết tha
Hình bóng xưa vừa thoáng qua
Ngoài hiên mưa rơi rơi ướt, sầu lắng trong tâm hồn
Nghe lạnh lùng rơi vào tim rơi vào tim
Cho lòng nhớ thương người tình một chiều nào
( Điệu Ru Nước Mắt, nhạc Anh Sơn &Vũ Lai )
4/-
12 giờ đêm.
Rồi chúng tôi cũng vượt quãng đường 300km tới Nho Quan, Ninh Bình nơi có họ hàng đang đợi. Nhưng để đến tận cửa nhà thì còn mất thêm 1 giờ nữa vì không xác định được phương hướng phải đảo tới đảo lui mấy bận vì nhà nằm trong làng hẹp quanh co đường ngang ngõ tắt. Chạy qua công trường vắng ngắt từng đống đất đá ngổn ngang, may là trời khô ráo không mưa. Lát đát nhà dân lẫn khuất sau rặng cây, chó sủa vang động. Gọi điện thoại kêu Thuỷ chỉ dẫn thêm lúc lâu, rốt cuộc chúng tôi cũng lần mò tìm ra cánh cổng.
Xe vào sân. Tôi khó nhọc đặt chân xuống nền xi măng như sắp khuỵ vì không còn cảm giác gì. Đi cà nhắc vào nhà, chào vợ chồng Thuỷ mà nói hết ra hơi. Cháu đã nấu sẵn thức ăn chờ bác, các anh chị. Tôi mệt quá chỉ cần tắm cho mát, uống ly nước lọc rồi ngủ luôn chứ không ăn gì được.
Ấy thế mà sáng hôm sau cũng dậy sớm để cùng Thuỷ ra chợ. Người đau ê ẩm. Nhủ thầm : cái điệu nầy chắc cuộc hành trình đến đây là chấm dứt rồi đây.
Nhưng sau khi ra chợ mua rau cải, cá thịt, vận động thư giản gân cốt, tới trưa thì tôi đã bớt đau nhức. Thuỷ nói tối qua lúc M4 vừa xuống xe mở khẩu trang ra, con thấy môi mặt M4 tái xanh trông kinh khủng lắm, thế mà bây giờ đã tươi tỉnh hồng hào trở lại nhanh thật.
Để không bỏ lỡ giây phút dư thừa nào, ăn trưa xong chúng tôi lại náo nức nhảy lên xe đi thăm khu Tràng An Cổ, Hoa Lư nơi lịch sử kể rằng có cậu bé chăn trâu Đinh Bộ Lĩnh hay chơi trò bẻ lau làm cờ tập trận, lớn lên lập quốc trở thành vị vua đầu tiên Đinh Tiên Hoàng của nước Đại Cồ Việt.
Nguyệt San Giao Muà xin cám ơn những thân hữu đã dóng góp bài vở cho Nguyệt San Giao Muà số 278 . Một số bài khác sẽ được đăng dần vào số tớị Mong mỏi sẽ nhận được những sáng tác của các bạn bốn phương để cho Nguyệt San Giao Muà thêm phần hương sắc trong tương laị
2) Ðể rút ra danh sách của NSGM (unsubscribe),
xin gửi email về GiaoMua2025@gmail.com
3. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về:
GiaoMua2025@gmail.com
4. Mọi bài vở, đóng góp, xin gửi về:
GiaoMua2025@gmail.com
Nguyệt San Giao Muà
Homepage: http://www.GiaoMua.com
Thể lệ gửi bài cho Nguyệt San Giao Muà:
Mong bạn gửi Bài cho GM theo cách này là tốt nhất :
1. Dùng mẫu chữ Unicode
2. Viết Hoa chữ đầu của bài và bút hiệụ Ví dụ: Giọt Mưa Trên Lácủa NS Phạm Duy
3. Gửi bài ngay trong email (không kèm file), để cho BBT khỏi mất công download xuống để đọc
4. Gửi tất cả các bài trong 1 tháng 1 lần trong1 email, nếu tiện.
5. Bài vở xin gửi đến trước ngày 25 mỗi tháng
6. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua2025@gmail.com
Cám ơn bạn rất nhiều, vì nhân sự có hạn, BBT không thể ngồi đánh máy lại từng đề bài hay bút hiệụ
Merrifield, Virginia 22116
USA
Trang Nhà